Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh bắc ninh...

Tài liệu Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

.PDF
87
103
122

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN THỊ CHINH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành:Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của riêng tôi; các số liệu, ví dụ, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN................................. 8 1.1. Những vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ........ 8 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản........................................................................... 21 1.3. Một số vấn đề lý luận về luận định tội danh và quyết định hình phạt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.................................................33 Chương 2: ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH .................................................................. 37 2.1. Khái quát tình hình tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh................................................................................ 37 2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh .............................................. 41 2.3. Một số thiếu sót, hạn chế và nguyên nhân ......................................... 48 Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH BẮC NINH..................................... 55 3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh.................................................. 55 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh ................................ 58 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79 DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra VKSND: Viện kiểm sát nhân dân CTTP: Cấu thành tội phạm TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự NQ: Nghị quyết PLHS: Pháp luật hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử HĐTP: Hội đồng thẩm phán DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Bảng thống kê các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt so với tổng số tội phạm được đưa ra xét xử giai đoạn 2015 – 2019 ....... 37 Bảng 2.2: Bảng thống kê tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản so với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã được đưa ra xét xử sơ thẩm giai đoạn 2015 – 2019 .................................................... 38 Bảng 2.3: Bảng thống kê tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản so với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã được đưa ra xét xử phúc thẩm giai đoạn 2015 – 2019 ................................................ 39 Bảng 2.4. Bảng thống kê những hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến năm 2019 ................................................................................................. 40 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội phạm truyền thống, phổ biến trong số các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong các văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước ta. Tuy nhiên, đây cũng là tội gây ra nhiều sự nhầm lẫn trong việc định tội danh và quyết định hình phạt khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nhận diện đúng quan hệ dân sự với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hoặc giữa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để từ đó áp dụng pháp luật một cách khách quan, đầy đủ và chính xác. Đặc biệt trong tình hình hiện này khi đất nước ta đang trong thời kì xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ, các giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại phát sinh ngày càng phong phú và đa dạng. Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam, thuộc Đồng bằng sông Hồng và nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Việt Nam. Bắc Ninh tiếp giáp với vùng trung du Bắc bộ tại tỉnh Bắc Giang. Thành phố Bắc Ninh nằm cách trung tâm Thành phố Hà Nội 30 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý: Phía tây và tây nam giáp thủ đô Hà Nội; Phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang; Phía đông và đông nam giáp tỉnh Hải Dương; Phía nam giáp tỉnh Hưng Yên. Trong những năm qua, dưới sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các Bộ, ngành Trung ương, sự chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền tỉnh, Bắc Ninh đã từng bước có những nỗ lực vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đi kèm với đó là sự gia tăng của nhiều loại tội phạm, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Qua thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy, loại tội phạm này hiện đang diễn biến phức tạp, bản án của Tòa án hai cấp (sơ thẩm và phúc thẩm) cho thấy vẫn còn một số thiếu sót trong định tội danh và quyết định 1 hình phạt loại tội này. Mặc dù, BLHS 2015 có hiệu lực toàn bộ kể từ ngày 01/01/2018, với nhiều quy định mới được ghi nhận đã đáp ứng cơ bản tình hình thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng; tuy nhiên, nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 cho thấy còn một số tồn tại, bất cập trong quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Những tồn tại này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội này trên cả nước cũng như địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Trong khi đó, qua khảo sát các đề tài khoa học cho thấy, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019. Nhận thức được tầm quan trọng nêu trên,nhằm góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tội làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bản cả nước và tỉnh Bắc Ninh nói riêng; đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tồn tại, bất cập trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tác giả đã chọn đề tài “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tại luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không phải là vấn đề mới và đã có khá nhiều công trình khoa học, các bài viết đề cập đến loại tội phạm này, có thể kể đến các nhóm công trình như: Các công trình liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu như: - Dương Thị Hải Yến (2018), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội. Luận án đã đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ở nước ngoài và ở Việt Nam; Làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm 2 đoạt tài sản và thực trạng định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội phạm này tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2006 đến năm 2016, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. - Hoàng Thị Kim Chi (2017), Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. Luận văn đã nghiên cứu làm rõ lý luận về hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Phân tích các quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này và so sánh với một số tội phạm khác có tính chất tương đồng trong BLHS. Khảo sát thực trạng, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân của hoạt động định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 2012 đến năm 2016. Ngoài ra, luận văn đã đưa ra dự báo và giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Vũ Thị Oanh Kiều (2017), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học,Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. Luận văn đã phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam; thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-2016; luận văn cũng đã chỉ ra được một số hạn chế, vướng mắc, bất cập và đề xuất một số giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3 - Đinh Văn Quế, Những điểm mới của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định trong Bộ luật hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2016, tr. 15 – 16. Bài viết của tác giả, đã phân tích một số quy định mới của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”như nhà làm luật đã cụ thể hóa và bổ sung mới hành vi chiếm đoạt tài sản dưới 04 triệu đồng quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015; bỏ dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng, bổ sung thêm dấu hiệu định tội “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”, và quy định tình tiết mới đáng chú ý vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là “đến hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; bỏ dấu hiệu định khung hình phạt như “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, đây là những tình tiết khó xác định. Ngoài ra còn có thể kể đến nhiều công trình khác có liên quan như: Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập2, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Tập 2, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; PGS.TS. Cao Thị Oanh chủ biên (2015), “Các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Trần Duy Bình (2002),”Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22/2012, Hà Nội. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chủ yếu tiếp cận ở các góc độ khái quát hoặc dưới góc độ so sánh tội phạm này với các loại tội phạm khác trong chương các tội xâm phạm sở hữu của BLHS Việt Nam hoặc các công trình nghiên cứu đó nghiên cứu tại thời điểm áp dụng BLHS cũ đã hết hiệu lực hoặc phạm vi bài viết thuộc các địa phương khác nhau. Đặc biệt dưới hình thức luận văn thạc sĩ là chưa có bất kì một công trình nghiên cứu về tội lạm 4 dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn cụ thể là tại tỉnh Bắc Ninh.Do vậy, đề tài luận văn “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”đảm bảo tính mới và không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến năm 2019 tại tỉnh Bắc Ninh, cùng với việc phân tích các vụ án cụ thể, xác định những tồn tại, bất cập trong quy định của BLHS của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nhằm nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này tại tỉnh Bắc Ninh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, các quy định của Bộ luật hình sự và làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản làm căn cứ phân biệt tội phạm này với một số loại tội phạm xâm phạm sở hữu khác;Trình bày khái quát lịch sử hình thành và phát triển quy định về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ. - Phân tích thực tiễn hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, thông qua một số vụ án điển hình về lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được giải quyết từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ 2015 – 2019. Trên cơ sở đó, làm rõ những khó khăn, vướng mắc, bất cập mà các cơ quan tiến hành tố tụng gặp phải khi định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội này và nguyên nhân của nó. 5 - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS, các văn bản hướng dẫn thi hành và các giải pháp khác bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận, pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Phân tích tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, và Điều 175 BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và các văn bản hướng dẫn. - Về mặt không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu tại tỉnh Bắc Ninh. - Về thời gian: Các số liệu được thu thập trong giai đoạn từ năm 2015 - 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và nhà nước về cải cách tư pháp. Ngoài ra, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu bản án, lôgic, quy nạp, diễn dịch, mô tả ... và các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ hơn lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Về thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với 6 tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho hoạt động áp dụng trong thực tiễn Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật này ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay và trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chương 2: Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Những vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1.1. Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [17,Điều 8].Đây là khái niệm chung và toàn diện nhất về tội phạm, là cơ sở để xây dựng khái niệm các tội phạm cụ thể trong BLHS Việt Nam, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bên cạnh đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội danh được nhiều tác giả tiếp cận, nghiên cứu và đưa ra các khái niệm trong khoa học luật hình sự nhà nước ta, điển hình như: Tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản [20,tr. 125]. Nhận xét: Khái niệm nêu trên của tác giả Đinh Văn Quế đã thể hiện được những thủ đoạn của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên 8 đặt trong bối cảnh hiện nay thì khái niệm trên chưa đầy đủ vì ngoài các thủ đoạn trên thì người phạm tội còn có thêm thủ đoạn chiếm đoạt tài sản khác là: sau khi có được tài sản thông qua các giao dịch dân sự nhưng đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Ngoài ra, khái niệm này chưa nêu được hành vi khách quan của tội này là hành vi “chiếm đoạt tài sản” đó là hành vi chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của người khác thành tài sản của mình, mà chỉ mới nêu về thủ đoạn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Điệp thì: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. [13,tr.121]. Nhận xét: Khái niệm nêu trên của tác giả Nguyễn Ngọc Điệp đã thể hiện được đầy đủ thủ đoạn của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, khái niệm này cũng chưa nêu được hành vi khách quan của tội này là hành vi “chiếm đoạt tài sản” mà chỉ nêu về thủ đoạn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Các tác giả Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng có quan điểm: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. [4,tr.226]. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm như sau: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người ....”[23;tr.33]. 9 Nhận xét: Khái niệm của tác giả tác giả Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng và của Trường Đại học Luật Hà Nội đều đã nêu được bản chất của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản với các thủ đoạn đặc trưng của tội này. Tuy nhiên, các khái niệm này vẫn chưa nêu lên được yếu tố chủ thể, khách thể và lỗi của tội này. Tác giả cho rằng các quan điểm trên đều có những nhân tố hợp lý, đã nêu lên được bản chất và các thủ đoạn của của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là:Chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Tuy nhiên, để xây dựng khái niệm hoàn chỉnh về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì theo tác giả khái niệm cần phản ánh được các dấu hiệu chủ thể, khách thể, các yếu tố đặc trưng của mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm này. Trong BLHS năm 2015 thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 thuộc chương XVI, thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, là ”hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ sở hữu tài sản thành tài sản của mình” [24]. Hành vi này xâm phạm khách thể là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân với lỗi cố ý trực tiếp.Cụ thể, Điều 175 quy định: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng…:a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng 10 và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. Như vậy, trên cơ sở khái niệm pháp lý về tội phạm, Điều 175 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong BLHS năm 2015 và tiếp thu các khái niệm về tội này trong khoa học luật hình sự, tác giả đưa ra khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của người khác thành tài sản của mình bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản, do người có năng lực trách nhiệm hình sự đủ độ tuổi luật định, thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân. 1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Từ khái niệm chung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, có thể thấy tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đặc điểm chung của tội phạm là: hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Được thể hiện thông qua các dấu hiệu pháp lý sau: * Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [23, tr. 78].Khoa học luật hình sự Việt Nam, chia khách thể thành 03 loại: khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Trong BLHS 2015, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015, thuộc chương các tội phạm xâm phạm sở hữu. Khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội này là là quyền sở hữu tài sản của người khác, tội này không xâm phạm đến quan hệ nhân thân như tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản....do vậy nhà làm luật không quy định thiệt 11 hại về nhân thân như (tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm) là tình tiết định khung tăng nặng theo các CTTP tăng nặng tại khoản 2, 3, và 4 Điều 174 BLHS.Theo BLDS năm 2015 thì “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”[18, Điều 158]. Việc gây thiệt hại này thể hiện ở chỗ, hành vi đã làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản hợp pháp mất khả năng chiếm hữu (nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp), sử dụng (khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản), định đoạt(quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ tài sản). Sự gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm dù ở hình thức cụ thể nào cũng luôn luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động là bộ phận của quan hệ xã hội. Đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì sẽ tác động đến bộ phận của khách thể đó là các đối tượng vật chất, được coi là khách thể của quan hệ xã hội qua đó gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. Cụ thể, đối tượng vật chất ở đây là tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản. Theo Điều 105 BLDS năm 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”[18]. Ngoài ra, một số loại tài sản sau không phải là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: không phải là đối tượng đặc biệt như vũ khí quân dụng, tàu bay, tàu biển, đất đai...vì đây là đối tượng tác động của tội phạm khác (xâm phạm khách thể khác được luật hình sự bảo vệ như chế độ quản lý của nhà nước về vũ khí...). Đối với tài sản là giấy tờ có giá (giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự)phải là giấy tớ có gia vô danh như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, công trái…trong đó, “Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá” [21, khoản 2, Điều 3] và khi đó khi bị chiếm đoạt thì quyền sở hữu của chủ sở hữu mới bị ảnh hưởng và có 12 khả năng xác lập quyền sở hữu cho người phạm tội; đối với tài sản là quyền tài sản (là quyền trị giá được bằng tiền có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự) như quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất…không phải là đối tượng tác động của tội này vì”Việc chiếm giữ được giấy tờ chứng nhận quyền tài sản không đồng nghĩa với việc được thực hiện quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản[14, tr.153], tài sản là “bất động sản”như: đất đai, nhà cửa, do không thể chuyển dịch theo nghĩa thông thường mà cần tiến hành theo trình tự, thủ tục pháp lý về quyền tài sản thông qua hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho... và phải sang tên trước bạ nên cũng không phải là đối tượng tác động của tội phạm này. * Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [23, tr.91], bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội như công cụ, phương pháp, thời gian, địa điểm phạm tội... Về hành vi khách quan:Với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì hành vi khách quan được biểu hiện dưới dạng hành động. Đó là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi chiếm đoạt tài sản được hiểu là người phạm tội cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng nhiều phương pháp, thủ đoạn khác nhau nhưng tất cả mọi hành vi chiếm đoạt đều thực hiện bằng phương pháp chủ động tích cực (phương pháp hành động), biến tài sản của người khách thành của mình [11, tr.15] . Thủ đoạn mà người phạm tội dùng để chiếm đoạt tài sản được thực hiện chủ yếu bằng hình thức: - Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn 13 để chiếm đoạt tài sản đó; hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. - Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Về hậu quả: Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự [22, tr. 110]. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì hậu quả của tội phạm thể hiện ở thiệt hại về giá trị tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp. Căn cứ Điều 175 BLHS năm 2015 thì giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 4.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm.Nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 4.000.000 đồng, thì người phạm tội bị truy cứu TNHS nếu thuộc một trong các trường hợp sau:Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm. Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của BLHS, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Nếu người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có trị dưới 4.000.000 đồng, nhưng chưa chiếm đoạt được hoặc chiếm đoạt được nhưng không có các tình tiết trên thì chưa cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Dấu hiệu này thể hiện, hành vi chiếm đoạt trong tội lạm dụng tín nhiệm chiệm đoạt tài sản phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Trong bản thân hành vi chiếm đoạt này phải chứa đựng khả năng thực tế, nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả (thiệt hại xảy ra có thể do một hoặc nhiều hành vi trực tiếp gây ra), và hậu quả thiệt hại phải là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi chiếm đoạt bằng các thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 14 * Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội [22, tr. 133].Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ, mục đích của người phạm tội.Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được rõ hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.của mình là trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái phép và mong muốn chiếm đoạt được tài sản đó. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan của người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội [22, tr. 153]. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì mục đích của người phạm tội nhằm chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. [20, tr.128]. Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý [22, tr. 152]. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì không phải là dấu hiệu bắt buộc, nhưng có ý nghĩa khi xem xét quyết định hình phạt đối với người lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. *Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể [23, tr. 122].Trong BLHS năm 2015, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan