Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh đồng nai...

Tài liệu Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh đồng nai

.PDF
76
283
105

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Lê Thị Mỹ Ly TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Lê Thị Mỹ Ly TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS: NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, thông tin và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thị Mỹ Ly MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM ........................................................... 5 1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em ......................... 5 1.2. Phân biệt tội hiếp dâm trẻ em với một số tội phạm khác......................... 13 1.3. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm trẻ em ................................ 15 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM Ở TỈNH ĐỒNG NAI.................................................................................................................. 27 2.1. Thực tiễn định tội danh tội hiếp dâm trẻ em ............................................ 27 2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt tội hiếp dâm trẻ em ................................ 32 CHƢƠNG 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM .................................................................................... 43 3.1. Yêu cầu áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội hiếp dâm trẻ em ............................................................................................... 43 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự 2015 về tội hiếp dâm trẻ em ............................................................................ 49 KẾT LUẬN .................................................................................................... 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS :Bộ luật Hình sự BLTTHS :Bộ luật Tố tụng hình sự HĐXX :Hội đồng xét xử TAND :Tòa án nhân dân TANDTC :Tòa án nhân dân tối cao TNHS :Trách nhiệm hình sự TTHS :Tố tụng hình sự VKSND :Viện kiểm sát nhân dân XHCN :Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Tình hình giải quyết vụ án hình sự về tội hiếp dâm trẻ em của Tòa án tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 -2017 Bảng 2.2: Hình phạt được Tòa án tỉnh Đồng Nai áp dụng đối với bị cáo phạm tội hiếp dâm MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em là tương lai của đất nước. Do sự phát triển chưa đầy đủ về tâm lý và thể chất, chưa có khả năng nhận thức và tự bảo vệ mình nên các em rất dễ bị tổn thương về mọi mặt. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn có những chính sách quan tâm, ưu tiên đối với trẻ em. Trong thời gian gần đây, các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em đang diễn biến một cách phức tạp, trong đó là tội hiếp dâm trẻ em. Cho tới nay, sau nhiều lần BLHS Việt Nam sửa đổi, bổ sung, các quy định pháp luật về tội hiếp dâm trẻ em vẫn còn một số những vấn đề cần trao đổi thêm như chủ thể và nạn nhân tội phạm, khái niệm giao cấu, hành vi quan hệ tình dục khác... Trước tình hình thực tiễn hiện nay, việc đấu tranh phòng, chống của các cấp, các ngành tư pháp đối với loại tội phạm này dù ngày càng được nâng cao song vẫn không tránh khỏi những khó khăn khi thực tiễn áp dụng pháp luật còn gặp nhiều vướng mắc. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc đó chủ yếu xuất phát từ những hạn chế, thiếu sót trong quy định của pháp luật hình sự về tội này. Những quy định của các điều luật về tội hiếp dâm trẻ em khi áp dụng vẫn gặp phải những quan điểm, đường lối xử lý thiếu thống nhất, còn tùy nghi do cách hiểu, cách tiếp cận những quy định luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong một số trường hợp, các cơ quan bảo vệ pháp luật vẫn còn lúng túng, chưa có quan điểm thống nhất hoặc mắc phải thiếu sót trong việc giải quyết các vụ án về tội hiếp dâm trẻ em. Vì vậy, để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm trẻ em, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng các quy định của pháp luật về tội này nói riêng, điều cần thiết hiện nay là tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và bảo đảm áp dụng có hiệu quả các quy định của pháp luật hình sự về tội này để có thể đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là khi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có hiệu lực thi hành. Đồng Nai là một tỉnh có đông dân cư và địa bàn rộng thuộc miền Đông Nam Bộ. Bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua, tình 1 hình tội phạm, trong đó có tội xâm phạm tình dục trẻ em, đặc biệt là tội hiếp dâm trẻ em diễn biến phức tạp, nghiêm trọng, gây mất trật tự an toàn xã hội, bất bình trong nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách chăm sóc và trẻ em. Mặc dù các cơ quan tư pháp của Đồng Nai cũng như các cơ quan có trách nhiệm đã rất cố gắng nhưng tình hình tội phạm vẫn chưa giảm một cách ổn định, thậm chí có lúc, có nơi gia tăng. Để góp thêm căn cứ lý luận và thực tiễn đấu tranh chống tội xâm xâm phạm tình dục trẻ em ở Đồng Nai trên phương diện pháp luật hình sự, học viên đã lựa chọn đề tài: “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp cao học luật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội hiếp dâm trẻ em cho đến nay đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu trên các phương diện, góc độ khác nhau. Trước đề tài này, đã có những công trình sau: Trịnh Thị Thu Hương (2004), “Các tội phạm tình dục và đấu tranh chống các tội này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội” [7]; Nguyễn Minh Hương (2014), “Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội” [6]; Hoàng Thị Thanh Hà (2015), “Các tội xâm hại tình dục theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội” [3]; Bùi Thị Hằng Nga (2016), “Tội hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội” [14]. Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học khác là: “Về quy định đối với các tội hiếp dâm – hiếp dâm trẻ em”, Trần Hà Bảo Khuyên, Tạp chí Tòa án nhân dân số 11, năm 2015 [8]; “Bình luận các tội phạm về tình dục trong chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, Dương Tuyết Miên, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, năm 2015 [13]. Tội hiếp dâm trẻ em còn được đề cập trong các cuốn sách chuyên khảo: “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - phần các tội phạm” do nhà xuất bản thành 2 phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2002 của thạc sỹ Đinh Văn Quế [20]. Hoặc trong “Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)” do Nhà xuất bản Hồng Đức xuất bản năm 2017 của PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa và TS. Phan Anh Tuấn [5], v.v… Mặc dù có khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa học về tội hiếp dâm trẻ em nhưng do mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu khác nhau nên chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về: “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”. Chính vì vậy, đề tài này là một đề tài mới, lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn Thạc sĩ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận của luật hình sự về tội hiếp dâm trẻ em, trên cơ sở phân tích các yếu tố cấu thành tội hiếp dâm trẻ em và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, đề xuất các giải pháp thực hiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội phạm này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm trẻ em, các yếu tố cấu thành tội hiếp dâm trẻ em. Thứ hai, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, bất cập xung quanh việc áp dụng pháp luật và những nguyên nhân hạn chế của nó. Thứ ba, đưa ra những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội hiếp dâm trẻ em. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tội hiếp dâm trẻ em trong Bộ luật hình sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 3 - Luận văn được nghiên cứu tội hiếp dâm trẻ em dưới góc độ Luật hình sự. - Phạm vi không gian: địa bàn tỉnh Đồng Nai - Phạm vi thời gian: Các số liệu thu thập được chủ yếu là các số liệu thống kê từ Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2012 đến 2017. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, quy nạp, diễn dịch, đánh giá... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận của luật hình sự về tội hiếp dâm trẻ em. Về thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo cho việc hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm trẻ em và cho việc áp dụng pháp luật trong xử lý về hình sự tội hiếp dâm trẻ em. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hiếp dâm trẻ em. Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội hiếp dâm trẻ em ở tỉnh Đồng Nai. Chƣơng 3: Yêu cầu và các giải pháp thực hiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội hiếp dâm trẻ em. 4 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM 1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em 1.1.1. Khái niệm tội hiếp dâm trẻ em Trẻ em là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển đầu tiên của cuộc đời con người. Trong các Công ước quốc tế như Tuyên bố của Hội quốc liên về quyền trẻ em (năm 1924), Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1959), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1968), Công ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc (năm 1976), Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1989)… đã khẳng định việc áp dụng độ tuổi trẻ em của mỗi quốc gia có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào luật của mỗi nước quy định độ tuổi thành niên sớm hơn. Tại Nghị định thư của Liên Hiệp Quốc về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua, có hiệu lực từ ngày 25/12/2003 thì trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi. Riêng ở Việt Nam, căn cứ vào điều kiện thực tế và mức độ phát triển của con người ở Việt Nam, theo Điều 1, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004, quy định: “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Độ tuổi này tiếp tục được đề cập trong Điều 1 Luật Trẻ em được Quốc hội thông qua ngày 5/4/2016 trong đó quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Mặc dù quy định về trẻ em, độ tuổi trẻ em trong các văn bản pháp luật nước ta cũng như trong phạm vi quốc tế còn có những điểm khác biệt nhưng Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em cũng chỉ ra rằng: “Căn cứ vào đặc điểm lịch sử, phong tục tập quán và các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia để quy định độ tuổi của trẻ em, nhưng không được quá 18 tuổi”. Do đó, căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành cũng như Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam quy định độ tuổi của trẻ em dưới 16 tuổi là không trái với quy định trong Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em. 5 Tóm lại, khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam được coi là người chưa đủ 16 tuổi, là đối tượng được pháp luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và giúp đỡ đặc biệt. Trẻ em là tương lai của nhân loại, của thế giới, của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng và mỗi gia đình. Tại Việt Nam, các hành vi xâm hại trẻ em đều bị lên án và trừng trị nghiêm khắc. Điều này đã được cụ thể hóa trong BLHS quy định về tội hiếp dâm trẻ em. Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005, hành vi hiếp dâm được hiểu là dùng sức mạnh cưỡng bức người khác để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình. Trong Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm (số 329-HS2 ngày 11 tháng 5 năm 1967) của TAND tối cao đã đưa ra định nghĩa về khái niệm tội hiếp dâm như sau: “Hiếp dâm là hành động bắt buộc người phụ nữ phải chịu sự giao cấu trái ý muốn hoặc không có ý muốn của người đó bằng cách dùng bạo lực về thể chất, hay là uy hiếp về tinh thần, hay là lợi dụng hoặc gây ra tình trạng không thể tự vệ hoặc biểu lộ ý chí của người đó” [22]. Theo quan điểm trên thì hành vi hiếp dâm trẻ em khác hành vi hiếp dâm nói chung ở đối tượng bị xâm hại đó là trẻ em. Trên cơ sở nghiên cứu có kế thừa, khái niệm về hiếp dâm trẻ em được đưa ra như sau: hiếp dâm trẻ em là hành vi dùng sức mạnh cưỡng bức hoặc lợi dụng sự phát triển chưa hoàn thiện về thể chất và trí tuệ của trẻ em để xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và gây ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ em. Trước khi đưa ra được khái niệm về tội hiếp dâm trẻ em, cần xuất phát từ cái chung nhất đó là khái niệm tội phạm. Theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999 “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, 6 nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.” [19, Tr.51] Tội hiếp dâm trẻ em thuộc nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm con người, đồng thời xâm phạm tính mạng, sức khỏe và sự phát triển bình thường về thể chất và tâm, sinh lý của trẻ em. Như vậy khái niệm tội phạm Hiếp dâm trẻ em được xác định như sau: “Tội phạm Hiếp dâm trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiên một cách cố ý bằng cách dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể phòng vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác để giao cấu với người dưới 16 tuổi”. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em Tội hiếp dâm trẻ em được cấu thành bởi bốn yếu tố, đó là: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Nghiên cứu bốn yếu tố này của tội hiếp dâm trẻ em giúp làm rõ đặc điểm pháp lý của tội phạm, có tác dụng định tội cho tội phạm xảy ra và để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. *Khách thể của tội hiếp dâm trẻ em “Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị hành vi phạm tội xâm hại”. [16] Theo Luật Hình sự Việt Nam, những quan hệ được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong BLHS, bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ Quốc, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, sở hữu, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân,... Đối với tội hiếp dâm trẻ em, khách thể trực tiếp là quyền được tôn trọng nhân phẩm, danh dự và quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em. Ngoài ra tội phạm còn có thể xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng, sức khỏe của trẻ em. Tội hiếp dâm trẻ em xâm phạm nghiêm trọng đến đạo đức xã hội, đạo đức truyền thống tốt đẹp, xâm phạm Công ước về quyền trẻ em mà Việt Nam đã phê chuẩn tham gia gây ra nhiều sự bất bình cho quần chúng nhân dân. 7 Đối tượng tác động của tội phạm là một yếu tố quan trọng phải nhắc đến khi tìm hiểu về khách thể của tội phạm. Độ tuổi của đối tượng tác động cũng là dấu hiệu để xác định tội hiếp dâm trẻ em. Nạn nhân của tội hiếp dâm trẻ em là người dưới 16 tuổi. Điều 112 BLHS 1999 quy định về tội hiếp dâm trẻ em có hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất, đối với nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Mặc dù ở đây điều luật không quy định rõ nhưng có thể hiểu rằng người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không tự vệ được của trẻ em hoặc dùng thủ đoạn khác để giao cấu trái ý muốn với trẻ em. Trường hợp thứ hai, đối với nạn nhân là trẻ em dưới 13 tuổi thì mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em…”. Như vậy, mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi đều phạm tội hiếp dâm trẻ em không kể có sự đồng ý hay không đồng ý của nạn nhân. Đối tượng tác động là một trong những dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội hiếp dâm trẻ em, nó có ý nghĩa trong việc phân biệt tội hiếp dâm trẻ em với tội danh khác cũng như xác định khung hình phạt và quyết định hình phạt. * Mặt khách quan của tội hiếp dâm trẻ em “Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm những biểu hiện tội phạm diễn ra hoặc tồn tại trong thế giới khách quan” [31, Tr.99]. Đó là hành vi khách quan của tội phạm; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân nhân quả giữa hành vi khách quan của tội phạm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội; những biểu hiệu khác của mặt khách quan của tội phạm như công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian phạm tội, địa điểm phạm tội… Không phải tất cả các biểu hiện của mặt khách quan đều được phản ánh trong cấu thành tội phạm là dấu hiệu bắt buộc ngoài hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Mặt khách quan của tội hiếp dâm trẻ em bao gồm các dấu hiệu sau đây: - Dấu hiệu thứ nhất, người phạm tội có thể có một trong các hành vi như dùng vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân, thủ đoạn khác giao cấu trái với ý muốn của trẻ em. 8 - Dấu hiệu thứ hai, việc giao cấu phải trái với ý muốn của trẻ em. Cần tìm hiểu từng hành vi cụ thể để hiểu rõ hành vi khách quan của tội phạm này: - Hành vi dùng vũ lực: là dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của trẻ em như; đánh, đấm, vật ngã, trói buộc… nhằm đè bẹp sự kháng cự của trẻ em để thực hiện hành vi giao cấu. - Hành vi đe dọa dùng vũ lực: là dùng lời nói, cử chỉ, hành động đe dọa sẽ dùng sức mạnh vật chất xâm hại tính mạng, sức khỏe của nạn nhân làm họ tê liệt ý chí để họ giao cấu trái ý muốn của họ. - Hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân: là lợi dụng tình trạng sẵn có khi nạn nhân bị ốm đau, bệnh tật, tai nạn bị ngất, hay bị mê man bất tỉnh, bị tiêm thuốc ngủ chưa tỉnh, bị tâm thần… không thể chống cự được để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của họ. Cần lưu ý trong trường hợp này nạn nhân ở trong tình trạng không thể chống cự được là ngẫu nhiên, đó là tình trạng sẵn có, không phải người phạm tội đưa nạn nhân vào tình trạng đó, mà họ chỉ lợi dụng tình trạng này để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với nạn nhân. - Hành vi dùng thủ đoạn khác giao cấu trái ý muốn trẻ em: là ngoài những thủ đoạn nêu trên người phạm tội có những hành vi khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng không thể kháng cự như cho uống thuốc mê, thuốc ngủ… để thực hiện hành vi giao cấu. - Hành vi giao cấu trái ý muốn: Để hiểu rõ hành vi khách quan này thì cần tìm hiểu hai vấn đề sau: Vấn đề thứ nhất: Hành vi giao cấu Trong BLHS không mô tả rõ thế nào là hành vi giao cấu nhưng ở nước ta từ trước tới nay, trong lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử đều thừa nhận hành vi giao cấu theo hướng dẫn tại Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329-HS2 ngày 11 tháng 05 năm 1967 của TANDTC. Theo đó, “hành vi giao cấu được hiểu là sự cọ xát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ với ý thức ấn sâu vào trong 9 không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không”. Cho đến nay hành vi giao cấu luôn được hiểu theo nghĩa truyền thống và vẫn chưa có văn bản nào thay thế văn bản này giải thích về hành vi giao cấu. Do đó, trong thực tiễn xét xử, hành vi giao cấu vẫn được hiểu theo hướng dẫn tại văn bản này. Tuy nhiên, khái niệm trên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay nữa bởi lẽ khi xã hội ngày càng phát triển và có nhiều sự thay đổi về điều kiện kinh tế, đời sống văn hóa, giáo dục,... thì hành vi tình dục của con người cũng thay đổi theo nhiều xu hướng khác chứ không dừng lại như những hình thức đã thực hiện trước đây. Hơn nữa hành vi tình dục của con người ngày nay rất đa dạng không những nhằm mục đích thực hiện chức năng sinh sản mà còn nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục bản thân. Hành vi tình dục không chỉ diễn ra ở bộ phận sinh dục mà còn có thể ở những bộ phận khác trên cơ thể như miệng, hậu môn... và hành vi tình dục còn có thể được thực hiện khi kết hợp sử dụng các dụng cụ tình dục. Thực tế ở nước ta đã từng xảy ra nhiều trường hợp người nam giới dùng vũ lực có hành vi đưa dương vật vào miệng nạn nhân, vào hậu môn nạn nhân hoặc đưa tay, đưa dụng cụ tình dục vào âm đạo, hậu môn nạn nhân...[1, Tr.52]. Mặc dù những hành vi tình dục này không phải là hành vi giao cấu theo cách hiểu thông thường hiện nay nhưng những hành vi tình dục này thâm nhập thực tế cũng xâm hại và gây hậu quả cho nạn nhân tương đương như hành vi giao cấu đơn thuần thậm chí nhiều trường hợp còn nguy hiểm hơn. Bên cạnh đó quan điểm trước đây về hành vi giao cấu phải được thực hiện giữa nam và nữ và phải có sự tiếp xúc giữa bộ phận sinh dục nam và nữ. Việc hiểu hành vi giao cấu như vậy sẽ không bao hàm được những trường hợp có hành vi quan hệ tình dục giữa những người đồng giới, hoặc giữa cơ quan sinh dục với miệng hoặc hậu môn. Đối với những hành vi này thì theo quy định của BLHS hiện hành không đủ cơ sở pháp lý để giải quyết đúng theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Vấn đề thứ hai: Yếu tố trái ý muốn với nạn nhân: Yếu tố trái ý muốn với nạn nhân là một dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành 10 tội hiếp dâm trẻ em. Việc xác định trái ý muốn hay không cần dựa vào thực tế người phạm tội có dùng vũ lực hay thủ đoạn khác hay không, thái độ của người bị hại trước, trong và sau khi bị hiếp dâm. Để xác định việc giao cấu trái ý muốn của nạn nhân người ta thường căn cứ vào nhiều yếu tố khác như: mối quan hệ giữa hai người, thủ đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh cụ thể xảy ra việc giao cấu, nhân thân của cả hai người, ý kiến của cơ quan, tổ chức xã hội, dân cư nơi hai người sống, bạn bè, cha mẹ và các tình tiết khác có liên quan đến vụ án. Về hậu quả thiệt hại: hành vi khách quan của tội hiếp dâm trẻ em gây ra không chỉ thiệt hại về thể chất mà còn thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, sức khỏe của nạn nhân, đồng thời gây ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ cũng như gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội khác được pháp luật hình sự bảo vệ, đó là trật tự an toàn xã hội. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ nguy hiểm của hành vi, cũng như xác định khung hình phạt của tội phạm. Về những dấu hiệu như công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội... Tuy những dấu hiệu này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm nhưng những dấu hiệu này góp phần xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, xác định được những nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. *Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Tuổi chịu TNHS theo quy định của luật hình sự Việt Nam là từ đủ 14 tuổi và đủ 16 tuổi. Theo quy định của BLHS, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiệm trọng. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Do tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi hiếp dâm trẻ em, chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em là người đạt từ đủ 14 tuổi trở lên. 11 Trong lý luận từ trước tới nay đều thừa nhận chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em là chủ thể đặc biệt - nam giới, còn nữ giới chỉ có thể tham gia với vai trò đồng phạm (người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức). Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có nhiều trường hợp người thực hiện hành vi xâm hại tình dục không phải là nam giới mà là những đối tượng khác như nữ giới, người chuyển đổi giới tính hoặc người thực hiện hành vi xâm hại tình dục là nam giới nhưng đối tượng bị xâm hại cũng là nam giới. BLHS hiện hành chưa có quy định nào đề cập tới những trường hợp này. Điều đó có nghĩa là khi xảy ra những trường hợp này trên thực tế thì không có cơ sở pháp lý để giải quyết hoặc giải quyết theo hướng khác không phù hợp với bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. *Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội [31, Tr.200], bao gồm những nội dung cụ thể sau: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý” [31, Tr.201]. Lỗi là dấu hiệu quan trọng nhất, được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Lỗi của người phạm tội hiếp dâm trẻ em đều là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết hành vi giao cấu của mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội và trái với ý muốn của nạn nhân nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó bằng những thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định hay chứng minh ý thức chủ quan của người phạm tội đối với trẻ em còn phức tạp. Hiện nay, nhiều trẻ em có thể chất phát triển tốt, có bề ngoài, vóc dáng, xử sự có vẻ giống như người lớn. Mặt khác với sự phát triển khoa học công nghệ, trẻ em dễ dàng tiếp cận nhiều thông tin nhạy cảm, bắt chước người lớn, tò mò nhưng lại không được giáo dục và hướng dẫn đúng cách. Một số trường hợp nạn nhân cố tình nói sai độ tuổi làm cho người phạm tội lầm tưởng nạn nhân là người đã thành niên và để cho người phạm tội có cơ hội thực hiện hành vi giao cấu. Với những trường 12 hợp trên, thực tiễn cho thấy việc xác định tội danh giữa các cơ quan tiến hành tố tụng không thống nhất hay đồng quan điểm về tội danh đối với người phạm tội. Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Thông thường động cơ phạm tội của những người phạm tội hiếp dâm trẻ em thường do ham muốn, nhu cầu tình dục hoặc do những mâu thuẫn cá nhân hoặc các động cơ khác. Tuy nhiên, khi truy cứu TNHS đối với những người phạm tội này, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích phạm tội của những người phạm tội hiếp dâm trẻ em thông thường là muốn thỏa mãn nhu cầu tình dục của bản thân. * Đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm trẻ em nhìn chung rất nghiêm khắc. Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 đều quy định xử lý rất nghiêm khắc tội hiếp dâm trẻ em với mức hình phạt cao nhất là tử hình. Bộ luật hình sự năm 2015 tiếp tục quy định hình phạt cao nhất là tử hình đối với các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như hiếp dâm có tổ chức; hiếp dâm có tính chất loạn luân; nhiều người hiếp một người; hiếp dâm trẻ em dưới người dưới 10 tuổi; gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên; người phạm tội biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; hiếp dâm trẻ em làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 1.2. Phân biệt tội hiếp dâm trẻ em với một số tội phạm khác Các tiêu chí Tội Hiếp dâm Tội Cƣỡng Tội giao cấu Tội dâm ô trẻ trẻ em dâm trẻ em với trẻ em em Trẻ em từ đủ Trẻ em từ đủ 13 tuổi đến 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. dưới 16 tuổi. Sức khỏe, tính Quyền tự do Danh dự, nhân Danh dự, nhân mạng, danh dự, tình dục, sức phẩm, quyền phẩm, quyền nhân phẩm và khỏe, tính bất khả xâm bất khả xâm Đối tượng tác Trẻ em dưới 16 động tuổi. Khách thể 13 Trẻ em dưới 16 tuổi. quyền bất khả mạng của trẻ phạm về tình phạm về tình xâm phạm về em. dục. dục. tình dục của trẻ em. - Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể chống cự được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác để giao Mặt khách cấu trái ý muốn quan của họ. - Riêng đối với đối tượng tác động là trẻ em dưới 13 tuổi thì - Hành vi của người đã thành - Hành vi lợi dụng sự lệ - Hành vi của niên sờ mó, thuộc của người đã thành hôn hít,... bộ người khác vào niên giao cấu phận sinh dục mình hoặc với trẻ em có của trẻ em người khác độ tuổi từ 13 hoặc bắt trẻ em đang ở trong đến dưới 16 làm những việc tình trạng quẫn tuổi và có sự đồi bại với bách phải miễn thuận tình của mình như hôn cưỡng giao các em. bộ phận sinh cấu. dục của mình,…. hành vi khách quan của tội phạm là giao cấu. Chủ thể Bất kỳ người Bất kỳ người Bất kỳ người Bất kỳ người nào từ đủ 14 nào từ đủ 14 nào đã thành nào đã thành tuổi trở lên có tuổi trở lên có niên (từ đủ 18 niên (từ đủ 18 năng lực trách năng lực trách tuổi trở lên) có tuổi trở lên) có nhiệm hình sự. nhiệm hình sự. năng lực trách năng lực trách 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan