Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng nam...

Tài liệu Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng nam

.DOC
70
263
92

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ QUỲNH MY TỘI HIẾP DÂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ QUỲNH MY TỘI HIẾP DÂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS HOÀNG THỊ MINH SƠN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu và kết quả trong luận văn là trung thực. Nếu có gì sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Quỳnh My MỤC LỤC MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT. VỀ TỘI HIẾP DÂM.......................................................................................................8 1.1 Những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm.........................................................8 1.2. Quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm......................................14 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM TẠI TỈNH QUẢNG NAM.......................................................33 2.1. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ lật hình sự về tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam..................................................................................33 2.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm.......................................................................................................... 50 KẾT LUẬN....................................................................................................59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ Luật Hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm TNHS : Trách nhiệm hình sự DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1. Số liệu các vụ án hiếp dâm được đưa ra xét xử tại tỉnh Quảng Nam và cả nước từ năm 2013 đến 2017 37 2.2. Số liệu khung hình phạt đã áp dụng đối với các vụ án hiếp dâm từ năm 2013 đến 2017 42 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hòa cùng với xu thế hội nhập quốc tế, nước ta đã có những “thay da đổi thịt” đáng kể, đời sống người dân được nâng cao. Tuy nhiên, cùng với đó là tình trạng tội phạm ngày càng gia tăng, một trong số đó là tội hiếp dâm có xu hướng diễn biến khá phức tạp, gióng lên hồi chuông cảnh báo nghiêm trọng trong tình hình xã hội hiện nay. Đất nước ta từ xưa đến nay luôn nêu cao truyền thống đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người, đồng thời luôn đặt quyền con người lên trên hết. Điều này được thể hiện rất rõ qua các bản Hiến pháp xuyên suốt lịch sử đấu tranh, xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, tình hình xã hội hiện nay đang có những diễn biến khá phức tạp, có những trường hợp quyền con người bị vi phạm nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến tinh thần, tính mạng và sức khỏe của con người. Trong đó phải kể đến tội phạm hiếp dâm như đã nói ở trên. Theo báo cáo tổng kết 5 năm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam từ năm 2013 đến năm 2017, đã đưa ra xét xử 16 vụ án hiếp dâm. Điều đáng lưu ý là diễn biến của các vụ hiếp dâm tính đến thời điểm hiện tại có tính chất khá phức tạp, có thể dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích cuối cùng. Điều này đã dẫn đến việc gây tâm lý hoang mang cho xã hội, xôn xao cho dư luận. Trước tình hình đó, trong những năm qua, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam cũng đã tập trung giải quyết các vụ việc nghiêm minh, chính xác, kịp thời và đạt những kết quả nhất định trong công tác xét xử tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử vẫn còn những vướng mắc và hạn chế, cần tìm ra nguyên nhân, giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về tội phạm hiếp dâm. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự 2015 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1 01/1/2018 có nhiều quy định mới, trong đó có tội hiếp dâm. Do đó, việc nghiên cứu các quy định về tội hiếp dâm trong BLHS là điều cần thiết. Học viên chọn đề tài “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn với mong muốn có những đóng góp nhất định vào quá trình nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam nói chung và thực tiễn xét xử tội hiếp dâm tại tỉnh Quảng Nam nói riêng. 2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong khoa học pháp lý hiện nay, qua khảo sát cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu trục tiếp tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, có một số công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến nội dung mà tác giả nghiên cứu như tội hiếp dâm hay hiếp dâm trẻ em... Đó là: - Cao Hữu Sáng (2014), Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã khái quát sự phát triển của quy định về các tội hiếp dâm trong lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2014 và kinh nghiệm lập pháp hình sự về các tội này ở một số nước trên thế giới; nghiên cứu cá quy định cụ thể về tội hiếp dâm trong BLHS năm 1999 của Việt Nam, đánh giá thực tiễn áp dụng đồng thời làm rõ những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng và nguyên nhân của nó; đề xuất hoàn thiện quy định về các tội hiếp dâm trong BLHS năm 1999 cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội này. - Nguyễn Thị Ngọc Linh (2017), Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận Văn Thạc sĩ, HVKHXH, Hà Nội. Luận văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm; bình luận các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm; đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp 2 luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm; chỉ ra những tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân của nó; đưa ra các giải pháp hoàn thiện quy định về tội hiếp dâm trong BLHS năm 2015 cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn xét xử tội phạm này. - Nguyễn Thị Lệ Thủy (2016), Tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn đã phân tích, làm rõ nội dung quy địnhvề tội hiếp dâm trong BLHS năm 1999, so sánh và chỉ ra những điểm mới trong quy định của BLHS năm 2015 về tội hiếp dâm; đề ra nhưng giải pháp, kiến nghị giải thích rõ quy định về tội hiếp dâm để áp dụng thống nhất và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm này. - Vũ Hải Anh (2017), Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội. Luận án đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo pháp luật hình sự Việt Nam...; Đã phân tích và làm rõ được những quy định của pháp luật hình sự Việt nam qua các thời kỳ, chỉ ra đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo pháp luật hình sự Việt Nam, trong đó có tội hiếp dâm; đã phân tích một cách tương đối toàn diện thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người và đưa ra được một số biện pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người; - Hoàng Thị Ngọc Bích (2016), Các tội phạm tình dục theo quy định của Luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. 3 Luận văn đã làm sáng tỏ một cách hệ thống và toàn diện những quy định của BLHS Việt Nam 1999, có sự liên hệ, đánh giá với BLHS năm 2015 và BLHS của một số nước trên thế giới về các tội phạm tình dục. Thời điểm tác giả làm luận án, BLHS 1999 vẫn đang được áp dụng nên tác giả đã đề xuất những giải pháp hoàn thiện Bộ luật này trên cơ sở chỉ ra những bất cập của nó. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất giải pháp hoàn thiện trên cơ sở đánh giá bất cập của BLHS năm 2015 (lúc này đã được Quốc hội thông qua nhưng bị lùi hiệu lực do phát hiện có một số sai sót). Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm tình dục trên thực tế. Ngoài ra, còn một số các công trình khác như: Đặng Xuân Nam (2009), Trao đổi về tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 111 BLHS năm 1999, Tạp chí Kiểm sát số 7; Đặng Việt Cường (2008), Hiếp dâm theo quy định tại Điều 111 BLHS. Tạp chí Kiểm sát số 23; Phạm Nữ Quỳnh Trâm (2017), “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội; Nguyễn Tuấn Thiện (2015), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội; Đỗ Đức Hồng Hà (2010), Hoàn thiện quy định của BLHS năm 1999 về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 8;“Tội hiếp dâm trẻ em lý luận và thực tiễn”, Huỳnh Phúc Huy; Lê Hữu Du (2015), Đấu tranh phòng, chống tội hiếp dâm trẻ em ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội. Các công trình nghiên cứu nói trên đã có những phân tích, đánh giá, kết luận xác đáng, những kiến nghị hữu ích mang tính áp dụng cao trong thực tế. Song, nghiên cứu về “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” thì hiện nay vẫn chưa có công trình nào cả. Hơn hết, trong thời gian gần đây, nạn hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam cũng đã có những diễn biến khá phức tạp, gây tâm lý hoang mang lo sợ cho người 4 dân. Điều này đã đặt ra một bài toán khá nan giải. Luận văn tuy có thể chưa phải là đáp án cuối cùng cho bài toán đó, cho việc giảm thiểu tình trạng phức tạp của tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh nói riêng và nước ta nói chung nhưng cũng đóng góp phần quan trọng, kịp thời trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là một đề tài rộng và có tính khái quát cao nên trong phạm vi của luận văn, tôi chỉ nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam. Đồng thời, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan đến tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam; - Mô tả thực trạng, phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; - Đề xuất các biện pháp, giải pháp bảo đảm áp dụng đúng và thống nhất pháp luật, nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hiếp dâm ở tỉnh Quảng Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật hình sự Việt Namvề tội hiếp dâm, thực tiễn hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm tại tỉnh Quảng Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 5 - Về nội dung: đề tài luận văn được nghiên cứu trong phạm vi chuyên ngànhLuật hình sự và tố tụng hình sự; luận văn chỉ nghiên cứu quy định của BLHS Việt Nam về tội hiếp dâm, không nghiên cứu tội hiếp dâm trong quy định của pháp luật hình sự của các nước trên thế giới. - Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm trong xét xử sơ thẩm tại tỉnh Quảng Nam từ năm 2013 đến năm 2017. Luận văn không nghiên cứu hoạt động này trong giai đoạn điều tra, truy tố cũng như trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Quảng Nam. 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về chính sách hình sự, về bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong xét xử các vụ án hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Từ mục tiêu và đối tượng nghiên cứu, tác giả rút ra các phương pháp nghiên cứu như sau: - Phương pháp phân tích: thể hiện ở việc phân chia việc nghiên cứu đề tài luận văn thành các chương, tiểu mục nhằm mục đích nghiên cứu toàn diện về tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam tại tỉnh Quảng Nam,..;. - Phương pháp tổng hợp: cuối mỗi chương hoặc một số đoạn phân tích quan trọng đều có phần tổng kết kết quả phân tích. - Phương pháp diễn dịch: qua số liệu thực tiễn xét xử tội hiếp dâm trên địa bàn nghiên cứu, rút ra kết quả cụ thể về vấn đề nghiên cứu,…; - Phương pháp quy nạp: trên cơ sở các phân tích về đề tài, rút ra kết luận chung; 6 - Phương pháp so sánh, đối chiếu: so sánh quy định về tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam qua các năm, so sánh số liệu giữa địa bàn tỉnh và cả nước,…; 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: BLHS năm 2015 đã có những thay đổi nhất định, thể hiện ở việc các điều luật nói chung và về tội hiếp dâm nói riêng. Luận văn phần nào làm rõ hơn về những thay đổi đó, đồng thời góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng tham khảo trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan đến tội hiếp dâm; Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo bổ ích đối với những người tiến hành tố tụng, người bào chữa trong quá trình giải quyết các vụ án hiếp dâm; góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hiếp dâm tại tỉnh Quảng Nam. 7. Cơ cấu của luận văn: Luận văn gồồm hai chương kèm mục lục và danh mục tài liệu tham khảo: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hiếp dâm Chương 2: Thực tiễn áp dụng và các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng quy định của Bộ luật hình sự về tội hiếp dâm tại tỉnh Quảng Nam. 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI HIẾP DÂM 1.1 Những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm Tội hiếp dâm là một trong 14 tội thuộc nhóm các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự. Trong những năm gần đây, đối với tội hiếp dâm, cách thức giao cấu rất đa dạng và đặc biệt xuất hiện tình trạng ép buộc hoặc cưỡng bức quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính; những người chuyển giới... Do vậy, để đảm bảo phản ánh đúng yêu cầu của thực tiễn đặt ra trong đấu tranh phòng chống các tội xâm hại tình dục thì, ngoài hành vi giao cấu, thì hành vi xâm hại tình dục khác cũng được coi là hành vi hiếp dâm. Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần các tội phạm (quyển 1) của Trường Đại học Luật Hà Nội thì, Tội hiếp dâm được quy định là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân [37, tr.116]. Như vậy, có thể hiểu hành vi hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực; lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu trái ý muốn của nạn nhân. So với quan điểm trên thì quan điểm này đã phản ánh được đầy đủ hơn nội hàm của khái niệm hiếp dâm. Tuy nhiên, để hiểu đúng khái niệm tội hiếp dâm cần phải làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội này. Thứ nhất, về khách thể của tội hiếp dâm: Ở Việt Nam, theo quy định của Hiến pháp, Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh 8 dự và nhân phẩm; mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm [21, Đ.20]. Tội hiếp dâm như trên đã phân tích thuộc nhóm “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người”. Và quyền bất khả xâm phạm về tình dục là một quyền quan trọng được pháp luật ghi nhận và bảo vệ cũng chính là khách thể của tội hiếp dâm. Trước đây, khách thể của tội hiếp dâm được quan niệm là “quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người phụ nữ”. Bởi lẽ, thực tiễn xét xử đã cho thấy được phụ nữ luôn là đối tượng dễ bị xâm phạm về tình dục. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không có sự phân biệt về giới đối với nạn nhân bị xâm hại tình dục. Chính vì thế, khách thể của tội hiếp dâm đã được nh́ n nhận một cách toàn diện hơn. Đó là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nạn nhân. Đối tượng tác động của tội hiếp dâm có thể là nam giới, nữ giới hoặc thậm chí là người đồng tính. Ngoài ra, theo pháp luật hình sự Việt Nam, đối tượng bị xâm hại là người chưa thành niên (từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi). Theo pháp luật hình sự Việt Nam, độ tuổi là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Tội hiếp dâm cũng không nằm ngoài việc đánh giá dựa trên độ tuổi. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi và sự phát triển tâm, sinh lý theo đúng độ tuổi đối với người chưa thành niên. Như vậy, khách thể của tội hiếp dâm là quan hệ nhân thân, quyền tự do tình dục của nạn nhân mà ở đó, hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền tự do tính dục, nhân phẩm, danh dự của nạn nhân, xâm phạm đến sức khoẻ, gián tiếp xâm phạm tính mạng của nạn nhân. Mặt khách quan của tội hiếp dâm 9 Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [7, tr.71]. Hành vi khách quan của tội hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. - Dùng vũ lực: Là dùng sức mạnh về thể chất để họ không thể kháng cự được như vật ngã, đè, giữ tay, chân, bịt miệng, bóp cổ, đấm đá, trói, giằng xé quần áo,... của nạn nhân để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của họ; - Đe dọa dùng vũ lực: Là dùng lời nói, cử chỉ, động tác nhưng chưa tác động vào người nạn nhân, nhưng làm cho nạn nhân hiểu rằng nếu kẻ tấn công không giao cấu được thì sẽ sử dụng vũ lực ngay tức khắc. Ví dụ như dọa giết, đe dọa gây thương tích,...; - Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân: Là những trường hợp như nạn nhân bị bệnh nặng, say, già yếu, bất tỉnh... - Dùng thủ đoạn khác: Là những trường hợp người phạm tội đe dọa, khủng bố tinh thần, làm cho nạn nhân khiếp sợ, dùng thuốc mê, thuốc kích dục, say rượu hay các chất kích thích khác làm cho nạn nhân hạn chế hoặc mất khả năng chống cự; - Thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác Khoản 2 Điều 2 Dự thảo hướng dẫn một số điều của BLHS về tội dâm ô, hiếp dâm... quy định: “Đây không phải là hành vi giao cấu nhưng vẫn làm thỏa mãn nhu cầu tình dục của người phạm tội. (Ví dụ: người phạm tội sử 10 dụng tay, chân, lưỡi, miệng, các dụng cụ tình dục hoặc bất cứ công cụ nào khác để kích thích âm đạo, dương vật hoặc hậu môn của người bị hại hoặc người phạm tội đưa bộ phận sinh dục của mình vào miệng hoặc hậu môn của người bị hại nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục).” Vậy, đối với trường hợp đối tượng phạm tội bắt người bị hại thực hiện những hành vi ấy cho mình thì giải quyết như thế nào? Đây cũng chính là điểm cần bổ sung về tình tiết định tội đối với quy định về Hành vi quan hệ tình dục khác trong BLHS. Mặt chủ quan của tội hiếp dâm Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm động cơ, mục đích và lỗi. Trong đó, lỗi là dấu hiệu không thể thiếu đối với bất cứ CTTP nào. Mục đích và động cơ tuy cũng là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm nhưng chúng chỉ được phản ánh trong một số CTTP cơ bản như là dấu hiệu bắt buộc hoặc là tình tiết định khung. Lỗi ở đây được hiểu là quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với xã hội khi họ thực hiện hành vi cụ thể gây nguy hiểm cho xã hội. Không thể nói đến lỗi khi không có hành vi cụ thể gây nguy hiểm cho xã hội. Lỗi gồm hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Đối với tội hiếp dâm, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức đầy đủ hành vi của mình (dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác và hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác) là nguy hiểm cho xã hội và trái ý muốn với nạn nhân song vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó. Việc xác định động cơ và mục đích của tội hiếp dâm có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá mức độ lỗi, đồng thời xác định tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Do đó, nó có ảnh hường không nhỏ đến quyết định hình phạt. 11 Chủ thể của tội hiếp dâm Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự là con người cụ thể, đang sống và là những người có điều kiện để có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Bên cạnh đó, chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực TNHS. Bởi lẽ, đối với những người như vậy mới có đủ điều kiện cho việc áp dụng biện pháp TNHS. Thêm vào đó, để có được năng lực TNHS, con người phải đạt độ tuổi nhất định. Chính vì thế, pháp luật hình sự Việt nam quy định độ tuổi là điều kiện của chủ thể tội phạm. Nhiều ý kiến cho rằng, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội hiếp dâm là nam giới, nữ giới chỉ có thể tham gia trong vụ án hiếp dâm với vai trò là đồng phạm. Đối với BLHS 2015, chủ thể của tội hiếp dâm có thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Từ sự phân tích trên, tội hiếp dâm có thể được hiểu như sau: Tội hiếp dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được thể hiện trên hình thức dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tội hiếp dâm Việc nghiên cứu tội phạm nói chung và tội hiếp dâm luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi nếu ví việc nghiên cứu tội phạm mang lại kết quả là cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh về tội phạm đã xảy ra thì nghiên cứu tội hiếp dâm như một mảnh ghép quan trọng cho tổng thể bức tranh lớn đó. Khi tiến hành nghiên cứu tội phạm nói chung hay tội hiếp dâm nói riêng, cần chú trọng đến hai mặt lý luận và thực tiến. Việc nghiên cứu tội hiếp dâm góp phần bảo vệ quyền con người nói chung cũng như quyền bất khả xâm phạm về nhân phẩm, danh dự, quyền bất khả xam phạm về tình dục, hay nói một cách khác là bảo vệ quyền và lợi ích 12 hợp pháp của bị hại; Xét về mặt thực tiễn, hiển nhiên, bất kì loại tội phạm nào cũng đều mang đến những thiệt hại đáng kể cho cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Tội hiếp dâm là một trong những tội phạm nguy hiểm, xâm phạm quyền nhân thân của con người; Việc nghiên cứu tội hiếp dâm góp phần làm hiểu đúng hơn những vấn đề lý luận và từ đó góp phần hoàn thiện hơn quy định của pháp luật; Xét về mặt lý luận, để phù hợp với sự phát triển của xã hội, những quy định về tội hiếp dâm ngày càng được hoàn thiện phù hợp từ BLHS năm 1985, 1999, và mới nhất là BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2015. Nghiên cứu tội hiếp dâm góp phần đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm, bảo đảm an toàn trật tự xã hội; Việc hiểu đúng những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn có tác dụng xác định đúng tội danh và quyết định hình phạt góp phần vào việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội đồng thời không làm oan người vô tội; 1.1.3. Phân biệt tội hiếp dâm với một số tội xâm hại tình dục khác Tội hiếp dâm và tội cưỡng dâm Tội cưỡng dâm là hành vi ép buộc người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Đối tượng tác động của hành vi cưỡng dâm là người bị lệ thuộc hoặc là người đang ở trong tình trạng quẫn bách. Quan hệ lệ thuộc ở đây có thể là quan hệ lệ thuộc về công việc, về kinh tế, về tín ngưỡng hay gia đình...Hành vi ép buộc cưỡng dâm là hành vi lợi dụng các quan hệ lệ thuộc hoặc hoàn cảnh quẫn bách của nạn nhân để khống chế tư tưởng, buộc nạn nhân phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Tuy nhiên, khác với tội hiếp dâm, hành vi đe dọa ở tội cưỡng 13 dâm chưa đến mức làm người bị đe dọa tê liệt ý chí không dám kháng cự như ở tội hiếp dâm. Người bị đe dọa chỉ bị khống chế về tư tưởng. Họ vẫn có khả năng phản kháng nhưng lại miễn cưỡng chịu gio cấu hoặc chịu thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác [37, tr.123, 124]. Tội hiếp dâm và tội dâm ô Không giống tội hiếp dâm hay cưỡng dâm, tội dâm ô là hình vi xúc phạm nhân phẩm người khác nhằm kích thích hoặc thỏa mãn nhu cầu tình dục nhưng không giao cấu với nạn nhân và cũng không có hành vi quan hệ tình dục khác. Hành vi này bị coi là tội phạm khi đối tượng của hành vi dâm ô là người dưới 16 tuổi. 1.2. Quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm 1.2.1. Khái quát quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 Cùng với dòng chảy của lịch sử, pháp luật hình sự Việt Nam cũng đã có những thay đổi đáng kể. Những thay đổi này có thể chia thành hai giai đoạn chính: Giai đoạn từ 1986 đến trước khi có BLHS năm 2015 (sửa đổi) và giai đoạn từ khi có BLHS năm 2015 đến nay. Trong mỗi giai đoạn như thế, luật hình sự Việt Nam đều có những đặc trưng nhất định. Đối với tội hiếp dâm là một điều luật được quy định xuyên suốt trong luật hình sự qua các thời kỳ, cũng được chia theo giai đoạn như trên. Quy định của BLHS năm 1985 về tội hiếp dâm: Năm 1985, đất nước ta đang tiến vào thời kỳ đổi mới, và cũng chính trong năm này, BLHS Việt Nam đầu tiên ra đời với ý nghĩa là nguồn duy nhất quy định tội phạm và hình phạt được xây dựng trên cơ sở kinh tế xã hội của nền kinh tế bao cấp và trên cơ sở thực tiễn của tình hình tội phạm thời bấy giờ. Trong đó, tội hiếp dâm đã được quy định tại Điều 112 BLHS năm 1985 bao gồm 4 khoản như sau: 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan