Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn ...

Tài liệu Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

.PDF
88
22
136

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VĂN ĐÌNH MINH TéI G¢Y RèI TRËT Tù C¤NG CéNG TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Hµ TÜnh) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VĂN ĐÌNH MINH TéI G¢Y RèI TRËT Tù C¤NG CéNG TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Hµ TÜnh) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Văn Đình Minh MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ............................................................................. 8 1.1. Khái niệm tội gây rối trật tự công cộng .......................................... 8 1.2. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với một số tội phạm khác..... 12 1.2.1. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội phá rối an ninh ......... 12 1.2.2. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội giết người, cố ý gây thương tích và hủy hoại tài sản .................................................. 12 1.2.3. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội chống người thi hành công vụ ..................................................................................... 16 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng ................................................................. 16 1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật Hình sự năm 1985 .................. 16 1.3.2. Giai đoạn từ khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật Hình sự năm 1999 ...................................................................................... 19 1.4. Quy định của Bộ luật Hình sự một số nước về tội tương tự tội gây rối trật tự công cộng ........................................................... 22 1.4.1. Quy định của Bộ luật Hình sự Liên bang Nga về tội tương tự tội gây rối trật tự công cộng ................................................................... 23 1.4.2. Quy định của Bộ luật Hình sự Nhật Bản về tội tương tự tội gây rối trật tự công cộng .......................................................................... 24 1.4.3. Quy định của Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tội tương tự tội gây rối trật tự công cộng .......................................... 25 Kết luận chương 1 ......................................................................................... 28 Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH ......................................................... 29 2.1. 2.1.1. 2.1.2. 2.1.3. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng ................................................................. 29 Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tình tiết định tội gây rối trật tự công cộng ...................................................... 29 Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tình tiết định khung đối với tội gây rối trật tự công cộng .............................. 34 Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về hình phạt và khung hình phạt đối với tội gây rối trật tự công cộng .................. 38 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ......... 43 2.2.1. Một số kết quả áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ................ 43 2.2.2. Một số tồn tại, vướng mắc khi áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh và nguyên nhân của tồn tại, vướng mắc này ............................... 47 Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 55 Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH .............................................. 56 3.1. Yêu cầ u của việc hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về tội gây rối trật tự công cộng ........................................................... 56 3.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội gây rối trật tự công cộng và một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện .................... 59 3.3. Một số giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội gây rối trật tự công cộng ................... 62 3.3.1. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của Bộ luật Hình sự trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về hành vi gây rối trật tự công cộng ...................................................... 62 3.3.2. Chú trọng tổng kết xét xử tội gây rối trật tự công cộng và công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân ........ 63 3.3.3. Đẩy mạnh phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh tội gây rối trật tự công cộng ........................................ 69 Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 73 KẾT LUẬN .................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77 DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên bảng, biểu đồ Trang Bảng 2.1: Số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về tội gây rối trật tự công cộng với tổng số vụ án và bị cáo đã xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong 6 năm (2010 - 2015) 44 Bảng 2.2: Số vụ án và bị cáo xét xử sơ thẩm về tội gây rối trật tự công cộng so với nhóm tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng của Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Hà Tĩnh trong 6 năm (2010 - 2015) 45 Biểu đồ 2.1: So sánh số vụ án tội gây rối trật tự công cộng với tổng số vụ án đã xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân tỉnh Hà Tĩnh trong 6 năm (từ năm 2010 đến năm 2015) 45 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế thị trường phát triển kéo theo hệ quả là sự gia tăng của các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và tội phạm nói riêng. Xét riêng đối với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và đặc biệt là tội gây rối trật tự công cộng, có thể thấy rằng, đây là một trong những loại tội phạm thuộc nhóm có tính nguy hiểm cho xã hội không cao so với các nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, hay xâm phạm sở hữu… Tuy nhiên, xét dưới góc độ an ninh, trật tự an toàn xã hội thì hành vi gây rối trật tự công cộng đã vi phạm quy tắc xử sự được đặt ra cho mỗi công dân ở nơi công cộng, xâm phạm tình trạng ổn định sinh hoạt chung của toàn xã hội, gây tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân, người thực hiện hành vi biểu hiện ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước. Hành vi gây rối trật tự công cộng có tính phổ biến, và đa dạng về hình thức thể hiện như: Dựng lều, tụ tập nơi giao thông, dùng lời nói, cử chỉ thiếu văn hóa lăng mạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của một hoặc nhiều người; hò hét, tạo tiếng động gây ầm ĩ; hành hung người làm nhiệm vụ hoặc người tự nguyện tham gia bảo vệ trật tự nơi công cộng; tụ tập ẩu đả, đánh nhau ở nơi công cộng... Trong bối cảnh đó, pháp luật hình sự mà cụ thể là Bộ luật Hình sự đã và đang trở thành một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu nhất trong việc kiểm soát tình hình tội phạm nói chung và loại tội phạm này nói riêng. Theo pháp luật hình sự Việt Nam, hành vi gây rối trật tự công cộng có thể bị coi là tội phạm - Tội gây rối trật tự công cộng. Tội danh này được quy định trong luật hình sự Việt Nam kể từ khi có Bộ luật Hình sự năm 1985. Đến Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 các nhà làm luật đã từng bước 1 quy định rõ để xác định ranh giới giữa gây rối trật tự công cộng là tội phạm với gây rối trật tự công cộng chỉ là hành vi vi phạm phi hình sự. Tuy nhiên, xét cả về mặt lý luận và thực tiễn xét xử liên quan đến tội gây rối trật tự công cộng thì còn chứa đựng nhiều hạn chế, vướng mắc.Điều này đưa tới hệ quả là sự lúng túng của các cơ quan có thẩm quyền trong vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với loại tội này, dẫn đến bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, hiện tượng gây rối trật tự công cộng đang là một trong những vấn đề nhức nhối ở địa phương, nhất là từ thời điểm xảy ra sự cố môi trường đặc biệt nghiêm trọng bởi hành vi xả thải trên biển và trên đất liền của FORMOSA thì cùng với nhiều hệ lụy của ô nhiễm kéo theo sự phức tạp tình hình mà trong đó phải kể đến là xảy ra nhiều vụ việc gây rối trật tự công cộng nhằm gây áp lực cho các cấp chính quyền, riêng năm 2016 từ ngày 2/4 đến 26/4 đã có 25 vụ tụ tập, tuần hành đông người, ít nhất khoảng 25 người/vụ và nhiều nhất là 5000 người/vụ với các hình thức như: Tụ tập, tuần hành đông người tại nơi giao thông huyết mạch (đường quốc lộ 1A), trụ sở các cấp chính quyền, trường học, bệnh viện… một số đối tượng đã dùng gạch, đá ném vào nhà cán bộ xã, cán bộ thôn làm hư hỏng một số tài sản, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương; hay một số khác đã dùng dao, cưa, ống tuýp sắt, gậy gộc đuổi đánh cán bộ, công nhân đi liền với các tội như cố ý gây thương tích, hủy hoại tại sản, chống người thi hành công vụ gây cản trở, gián đoạn đến công việc của một số cơ quan, đơn vị, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an… Từ thực tra ̣ng pháp luâ ̣t, thực tiễn xét xử cùng những yêu cầ u trong viê ̣c đảm bảo an ninh , trâ ̣t tự an toàn xã hô ̣i ta ̣i đi ̣ a bàn Hà Tiñ h , tôi cho ̣n đề tài : “Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)”. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đề tài liên quan đến tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam đã thu hút sự chú ý của không it́ các ho ̣c giả , nhà nghiên cứu . Qua tim ̀ hiể u, hiê ̣n nay có mô ̣t số giáo trình, bài viết, nghiên cứu, luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo… về chủ đề này như: - Lê Cảm (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. - Võ Khánh Vinh (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. - Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật Hình sự - Phần các tội phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. - Nguyễn Thanh Hải (2011), Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. - Trần Long Nhi (2015), Pháp luật Hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử tại tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, (Tập II), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. - Vũ Thế Công (2007), Trật tự công cộng và một số biện pháp phòng chống gây rối trật tự công cộng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. - Phan Vũ Linh (2011), phòng ngừa tội gây rối trật tự công cộng tại tỉnh Cần Thơ, Luận văn Thạc sỹ luật học. - Phạm Văn Beo (2010), Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 - Phần các tội phạm), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Trần Minh Hưởng (chủ biên), TS.Đỗ Đức Hồng Hà, TS. Trịnh Tiến Việt và tập thể tác giả (2010), Tìm hiểu Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã 3 hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb. Lao động, Hà Nội. - Trần Minh Hưởng (2002), Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. - Trương Quang Vinh (2008), Bình luận các điều 241 đến 256, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Đức Mai(2001), Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, trong số các công trình kể trên, có một số công trình nghiên cứu được tiến hành khá lâu, do vậy về mặt lý luận cũng như thực tiễn sẽ có phần hạn chế. Mặt khác, có những công trình nghiên cứu lại chỉ thiên về mặt lý luận, pháp lý như: dấu hiệu pháp lý hình sự, trách nhiệm hình sự… của tội gây rối trật tự công cộng theo Bộ luật Hình sự năm 1999 mà chưa gắn nó với thực tiễn xét xử, cũng như các quy định có liên quan tại Bộ luật Hình sự năm 2015. Mặt khác, xét riêng đối với tỉnh Hà Tĩnh, cho tới nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về tội gây rối trật tự công cộng gắn với thực tiễn xét xử tại tỉnh này, trong khi đó diễn biến của loại tội này ngày càng phức tạp, khó lường. Do đó việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận và thực tiễn, phục vụ trực tiếp cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội gây rối trật tự công cộng nói riêng địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của các tội xâm phạm trật tự công cộng, đồng thời đi sâu vào phân tích 4 thực tiễn xét xử đối với tội gây rối trật tự công cộng theo từng thời gian cụ thể trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tội gây rối trật tự công cộng như: Khái niệm, dấu hiệu pháp lý, hình phạt... - Nghiên cứu các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng, nhất là những quy định bất cập của Bộ luật Hình sự năm 1999. -Nghiên cứu thực tiễn xét xử tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong những năm gần đây (từ năm 2010 đến năm 2015), nhất là những vướng mắc, tồn tại trong định tội, định khung và quyết định hình phạt và nguyên nhân của những vướng mắc, tồn tại đó trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. - Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực tiễn áp dụng xử lý đối với Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam, những vấ n đề gây ảnh hưởng đế n loa ̣i tô ̣i này từ thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu trong phạm vi chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, thời gian 06 năm (từ năm 2010 đến năm 2015), trên phạm vi địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. 5 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí trong và ngoài nước. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước trong đấu tranh, phòng chống tội phạm. Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp điều tra án điển hình… để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn làm rõ các vấn đề chung của tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định trong luật hình sự nước ta về tội phạm này từ năm 1945 đến nay, làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam và về các tội tương tự trong Bộ luật Hình sự một số nước trên thế giới. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đánh giá thực tiễn xét xử tội gây rối trật tự công cộng địa bàn 6 tỉnh Hà Tĩnh (từ năm 2010 đến năm 2015), qua đó chỉ ra những vướng mắc và nguyên nhân, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm này. Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên,học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình sự Việt Nam liên quan đến tội gây rối trật tự công cộng, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội hiện nay ở nước ta, đặc biệt là địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, nơi mà loại tội phạm này ngày càng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội gây rối trật tự công cộng. Chương 2: Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn áp dụng các quy định này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Chương 3: Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về tội gây rối trật tự công cộng và một số giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng các quy định này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG 1.1. Khái niệm tội gây rối trật tự công cộng Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009), các nhà làm luật nước ta đã ghi nhận khái niệm tội phạm như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng,sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [33, Điều 8]. Khái niệm tội phạm cụ thể - Tội gây rối trật tự công cộng, là sự cụ thể hóa khái niệm tội phạm (chung), hiện nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam còn nhiều quan điểm khác nhau, mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét. Có tác giả cho rằng: "Tội gây rối trật tự công cộng xâm hại đến trật tự chung, vi phạm quy tắc, nếp sống văn minh cũng như cản trở hoạt động bình thường của những người khác nơi công cộng" [57, tr. 649]. quan điểm này có ưu điểm là đã nêu bật được khách thể của tội phạm xâm phạm đến, nhưng vẫn chưa nêu cụ thể hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội phạm này. Quan điểm lại cho rằng: "Gây rối trật tự công cộng là hành vi làm náo loạn trật tự nơi công cộng" [29, tr. 261]. Quan điểm này mới chỉ nêu định nghĩa hành vi gây rối trật tự công cộng chứ chưa làm rõ khái niệm tội gây rối 8 trật tự công cộng, hơn nữa, hành vi phạm tội khác tội phạm, vì khái niệm tội phạm đòi hỏi phải đầy đủ như khái niệm trong Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 hiện hành. Trên cơ sở quy định của Bộ luật Hình sự và những điểm hợp lý của các quan điểm trên, dưới góc độ khoa học luật hình sự, rút ra khái niệm tội gây rối trật tự công cộng như sau: Tội gây rối trật tự công cộng là hành vi hò hét, làm náo động, phá phách, hành hung người khác hoặc có hành vi khác làm rối loạn các hoạt động ở những nơi công cộng, gây thiệt hại cho trật tự an toàn công cộng do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Từ khái niệm nêu trên, có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội gây rối trật tự công cộng như sau: Một là, tội gây rối trật tự công cộng nằm trong nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng, do đó, xâm phạm đến trật tự công cộng. An toàn công cộng, trật tự công cộng là những lĩnh vực gắn bó mật thiết với nhau. Theo đó, các lĩnh vực an toàn công cộng, trật tự công cộng gắn liền với việc bảo đảm các lợi ích vật chất,tinh thần của toàn xã hội cũng như của mỗi người với tư cách là từng thành viên sống trong xã hội và là một trong những tiêu chí để đánh giá sự ổn định, phát triển và văn minh, dân chủ của một quốc gia. Do đó, để có an toàn, trật tự công cộng - một trạng thái xã hội lành mạnh, ổn định, có tổ chức, có kỷ luật đòi hỏi Nhà nước, các cơ quan, tổ chức và mỗi thành viên trong xã hội phải có trách nhiệm xây dựng, thực hiện và bảo vệ các quy tắc của trật tự sinh hoạt chung trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đi ngược lại điều này là xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng và bị xử lý theo quy định của pháp luật. Hai là, tội gây rối trật tự công cộng là hành vi hò hét, làm náo động, 9 phá phách, hành hung người khác hoặc có hành vi khác làm rối loạn các hoạt động ở những nơi công cộng, gây thiệt hại cho trật tự an toàn công cộng, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Ba là, tội gây rối trật tự công cộng do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi với hình thức cố ý trực tiếp. Người thực hiện tội gây rối trật tự công cộng không có mục đích chống chính quyền nhân dân mà mục đích là gây áp lực với chính quyền để thỏa mãn yêu cầu của mình. Tội gây rối trật tự công cộng xâm phạm trực tiếp đến những quy tắc, luật lệ, điều lệ, nội quy...về trật tự công cộng, vi phạm nếp sống văn minh, quy tắc cuộc sống, gây ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của mọi người ở nơi công cộng. Ngoài ra, tội gây rối trật tự công cộng còn gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động của những người trong cơ quan nhà nước và xã hội làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự công cộng. Tội gây rối trật tự công cộng thể hiện bằng hành vi gây rối trật tự công cộng được mô tả trong điều luật là hành vi của một người có lời nói, cử chỉ tiếp xúc với người khác ở nơi công cộng với thái độ tỏ ra coi thường trật tự xã hội chung, gây mất trật tự hoặc là những hành vi càn quấy, hành hung người khác nhưng chưa gây thương tích, gây lộn xộn, náo loạn ở nơi công cộng như: rạp hát, vườn hoa, nhà ga, bến tàu, công viên, quảng trường; v.v... Nơi công cộng là những chỗ tập trung đông người như rạp hát, rạp chiếu bóng, nhà văn hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, trụ sở cơ quan, xí nghiệp, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, hợp tác xã, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, bến xe, trên các phương tiện giao thông, trên đường phố, ở khu vực cửa khẩu, cảng hoặc ở nơi công cộng khác có những quy tắc thành văn hoặc bất thành văn mà buộc mọi 10 người có mặt phải có văn hóa ứng xử và chấp hành, tôn trọng người khác. Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối bằng nhiều phương thức khác nhau như: Tập trung đông người ở nơi công cộng gây náo động làm mất trật tự công cộng; đuổi đánh nhau, hò hét gây náo động ở nơi công cộng; đập phá các công trình ở nơi công cộng, đập phá các tài sản trong các quán ăn, quán giải khát có đông người. v.v… Hậu quả của hành vi gây rối trật tự công cộng là thiệt hại vật chất và phi vật chất được xác định là nghiêm trọng cho xã hội. Hậu quả vừa là dấu hiệu bắt buộc, vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng hoặc chưa bị kết án về tội này hoặc tuy đã bị kết án về tội này nhưng đã được xoá án tích. Không phải là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Ngoài hành vi, hậu quả do hành vi vi phạm gây ra, nhà làm luật không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Chủ thể của tội phạm là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Chủ thể của tội phạm nói chung và chủ thể của tội gây rối trật tự công cộng nói riêng là con người cụ thể, đang sống - thể nhân. Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Bộ luật Hình sự 1999 quy định: "1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [33, Điều 12]. Trên cơ sở quy định tại Điều 245 và Điều 12 Bộ luật Hình sự cho thấy, tội gây rối trật tự công cộng - khoản 1 là tội phạm ít nghiêm trọng, khoản 2 là tội phạm nghiêm trọng, do đó, chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. Tội phạm này được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, 11 cụ thể là: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi gây rối trật tự công cộng của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi gây rối trật tự công cộng của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. 1.2. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với một số tội phạm khác Căn cứ vào dấu hiệu pháp lý của tội gây rối trật tự công cộng có thể phân biệt được tội phạm này với các tội phạm khác; cụ thể như sau: 1.2.1. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội phá rối an ninh Trường hợp một người có hành vi gây rối trật tự công cộng, xâm phạm các quy định của Nhà nước về trật tự xã hội, an toàn xã hội, hoạt động bình thường, ổn định của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng có mục đích chống chính quyền nhân dân, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phá rối an ninh (Điều 89 Bộ luật Hình sự). Điều 89. Tội phá rối an ninh 1. Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà kích động, lôi kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, nếu không thuộc trường hợp qui định tại Điều 82 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 2. Người đồng phạm khác thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm [33, Điều 89]. 1.2.2. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội giết người, cố ý gây thương tích và hủy hoại tài sản Trường hợp một người ngoài có hành vi gây rối trật tự đã cấu thành tội phạm còn có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của 12 người khác thì người phạm tội còn có thể bị xử lý thêm về các tội giết người (Điều 93), tội cố ý gây thương tích... (Điều 104) hoặc tội hủy hoại tài sản... (Điều 143 Bộ luật Hình sự) trên những cơ sở chung. Điều 93. Tội giết người 1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết nhiều người; b) Giết phụ nữ mà biết là có thai; c) Giết trẻ em; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn. 2. Phạm tội không thuộc các trường hợp qui định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm [33, Điều 93]. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan