Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƯ PHÁP
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
SINH VIÊN THỰC HIỆN
Lê Quỳnh Phương Thanh
Phan Trung Thành
MSSV: B110075
Lớp: Luật Hành Chính K37
Cần Thơ
4 2014
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
1
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
2
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………….5
2. Mục tiêu nghiên cứu……………………………………………………5
3. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………….6
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………….6
5. Cơ cấu đề tài……………………………………………………………6
CHƯƠNG 1……………………………………………………………………….
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN………………7
1.1 Khái niệm chung về các tội xâm phạm sở hữu……………………..7
1.2 Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu..……………..8
1.2.1 Về mặt khách thể ……………………………………...........8
1.2.2 Về mặt chủ thể ……………………………………..... ……10
1.2.3 Về mặt khách quan…………………………………... ……11
1.2.4 Về mặt chủ quan………………………………………….. 12
1.3 Khái quát chung về Tội Cướp giật tài sản………………………...12
1.3.1 Khái niệm về Tội Cướp giật tài sản…………………...........12
1.3.2 Đặc trưng của Tội Cướp giật tài sản……………………....13
1.3.3 Thủ đoạn của Tội Cướp giật tài sản…………………...........13
1.3.4 Nguyên nhân và điều kiện của Tội Cướp giật tài sản………15
1.3.5 Hậu quả của Tội Cướp giật tài sản…………………………16
1.4 Lượt sử phát triển của luật hình sự việt Nam quy định về Tội
Cướp giật tài sản……………………………………………………….............16
1.5 Ý nghĩa của việc nghiên cứu Tội Cướp giật tài sản………………21
CHƯƠNG 2
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH……………………………………………………………...........23
2.1Các dấu hiệu pháp lý của Tội Cướp giật tài sản………………......24
2.1.1Các dấu hiệu về khách thể của Tội Cướp giật tài sản
điều 136 Bộ luật hình sự………………………………………………………...24
2.1.2 Các dấu hiệu về khách quan của Tội Cướp giật tài sản……24
2.1.3 Các dấu hiệu về chủ thể của Tội Cướp giật tài sản………...27
2.1.4 Các dấu hiệu về chủ quan của Tội Cướp giật tài sản………27
2.2Trường hợp phạm tội cụ thể………………………………………..27
2.2.1Phạm Tội Cướp giật tài sản không có các tình tiết định khung
hình phạt………………………………………………………….......................27
2.2.2 Cướp giật tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 136 Bộ luật hình sự………………………………………..........................28
2.2.3 Cướp giật tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3
Điều 136 Bộ luật hình sự………………………………………..........................36
2.2.4 Cướp giật tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều
136 Bộ luật hình sự…………………………………………………..................38
2.2.5 Hình phạt bổ sung đối với Tội Cướp giật tài sản………….39
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
3
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
2.3 So sánh Tội Cướp giật tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu
khác………………………………………………………………………….…40
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
PHÒNG, CHỐNG TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN……………….....................45
3.1 Tình hình Tội Cướp giật tài sản ở nước ta……………………….45
3.1.1Tình hình Tội Cướp giật tài sản trong phạm vi cả nước……45
3.1.2 Tình hình Tội Cướp giật tài sản trên địa bàn Thành Phố Cần
Thơ ……………………………………………………………………………...45
3.2 Những bất cập về tội phạm cướp giật tài sản…………………….46
3.2.1 Những bất cập về mặt pháp luật……………………..........46
3.2.2 Những bất cập khác…………………………………..........49
3.3 Một số giải pháp nhằm khắc phục những bất cập trong giải quyết
các vụ án Cướp giật tài sản…………………………………………………...53
3.3.1 Một số giải pháp cho những bất cập về mặt pháp luật…….53
3.3.2 Một số giải pháp nhằm khắc phục những bất cập khác trong
việc phòng chống các vụ án Cướp giật tài sản………………………………….55
KẾT LUẬN……………………………………………………………………..62
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………............64
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
4
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Ngày nay nước ta đang bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn tiến lên
xây dựng một đất nước ổn định và bền vững. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN tình hình kinh tế xã hội nước ta đã có
những bước phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, năng
động do nền kinh tế thị trường mang lại thì mặt trái của nền kinh tế thị trường
chính là tình hình tội phạm xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống như kinh
tế, chính trị, xã hội ngày càng trở nên tinh vi, xảo quyệt và phức tạp hơn với
nhiều hình thức, thủ đoạn phạm tội mới đặc biệt là các tội xâm phạm sở hữu mà
cụ thể hơn nữa là Tội Cướp giật tài sản loại tội phạm này đã và đang là vấn đề
nổi cộm, nóng bỏng nhất hiện nay và hằng ngày, hằng giờ không ngừng gia tăng
cả về số lượng quy mô lẫn tính nguy hiểm cho xã hội. Để phù hợp với công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và Tội Cướp giật tài sản nói riêng,
ngày 21 tháng 12 năm 1999 Quốc Hội nước ta đã thông qua Bộ luật hình sự mới
và sau đó phát triển một cách hoàn thiện hơn bằng lần sửa đổi bổ sung Bộ luật
hình sự vào ngày 19 tháng 6 năm 2009. Bộ luật hình sự (BLHS) nước ta không
chỉ thể hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm hiện nay và trong những năm sắp tới góp phần
đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, lợi ích hợp
pháp của tổ chức và của công dân, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự
quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong môi trường xã hội lành
mạnh và an toàn. Như vậy ta thấy rằng, việc nghiên cứu về Tội Cướp giật tài sản
đang là một yêu cầu mang tính cấp thiết và cũng qua đó ta sẽ rút ra được những
thành tựu và hạn chế của pháp luật nhằm đưa ra những giải pháp có ý nghĩa thiết
thực. Đây cũng chính là lý do để người viết quyết định chọn đề tài này.
2.Mục tiêu nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, Tội Cướp giật tài sản đang được xã hội đặc biệt
quan tâm chú ý. Người viết sẽ đi sâu tìm hiểu và phân tích rõ Tội Cướp giật tài
sản được quy định tại Điều 136, Chương XIV của Bộ luật hình sự (BLHS) năm
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
5
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Qua đó góp phần vào công tác đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này một cách có hiệu quả. Một mặt, có thể giúp cơ quan điều
tra hiểu rõ hơn về nguyên nhân, phương pháp, thủ đoạn gây án của bọn tội phạm,
mặt khác có thể nâng cao ý thức của người dân trong việc tự bảo vệ tài sản của
mình. Muốn được như vậy thì việc tuyên truyền chính sách pháp luật trong quần
chúng nhân dân là điều rất quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân phải quyết tâm đấu
tranh loại bỏ tội phạm này trong xã hội một cách triệt để, góp phần bảo vệ tài sản
của công dân và đồng thời giữ gìn trật tự xã hội, xây dựng một môi trường lành
mạnh, văn minh
3. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung đè tài luận văn mang tính chất là nghiên cứu những vấn đề
chuyên sâu vào tội phạm cướp giật tài sản, nên đòi hỏi phải có sự quan tâm và
hiểu biết về loại tội phạm này. Việc nghiên cứu với góc đọ là luận văn nên chỉ
tâm trung, xoáy sâu vào phân tích những vấn đề cơ bản đi vào nội dung những
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản. Trên cơ sở đó
nhằm thấy được những hạn chế, những vướng mắc và từ đó đề ra những giải
pháp nhằm nâng cao công tác phòng chống có hiệu quả với tội phạm này.
4.Phương pháp nghiên cứu
Bài viết được xây dựng trên kiến thức đã học, thu thập và tổng hợp tài liệu
có liên quan đến quyền sở hữu của công dân kết hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó,
người viết cũng đã kết hợp phương pháp nghiên cứu, tổng hợp số liệu, tài liệu,
sau đó so sánh đối chiếu, phân tích đánh giá những vấn đề có liên quan. Để thấy
được các mặt tích cực cũng như mặt hạn chế trong các điều.
5. Cơ cấu đề tài
Với đề tài này người viết xin được trình bày qua 3 chương
Chương 1: Khái quát chung về Tội Cướp giật tài sản
Chương 2: Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam
Chương 3: Thực trạng Tội Cướp giật tài sản và các giải pháp nhằm phòng,
chống Tội Cướp giật tài sản.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài mặc dù đã có sự hướng dẫn tận tình của
cô Lê Quỳnh Phương Thanh ( Giảng viên khoa Luật trường Đại học Cần Thơ) và
sự nỗ lực của bản thân. Tuy nhiên, do gặp khó khăn về thời gian, nguồn tài liệu
và khả năng nghiên cứu của bản thân còn hạn hẹp nên bài viết vấp phải một số
thiết sót là điều không tránh khỏi. Vì vậy, rất mong quý thầy cô bỏ qua, người
viết xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý thầy cô có nhiều sức khỏe, hạnh
phúc và công tác tốt.
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
6
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1 Khái niệm chung về các tội xâm phạm sở hữu
Trong mọi thời đại, tài sản có thể được hiểu là của cải được con người sử
dụng và là một vật cụ thể mà có thể nhận biết được bằng các giác quan của con
người sử dụng trong cuộc sống hằng ngày. Nó là phương tiện để làm thỏa mãn
các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người là đối tượng để con người phấn
đấu đạt tới.
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những nội dung quan trọng
của pháp luật bất kì Nhà nước nào. Hằng năm, trong tổng số các tội phạm được
thực hiện và đưa ra xét xử ở nước ta thì các tội xâm phạm sở hữu chiếm một tỉ lệ
rất lớn. Nếu như có một số loại tội phạm xảy ra tập trung ở một số loại địa bàn,
một số ngành, lĩnh vực thì có thể nói rằng các tội xâm phạm sở hữu xảy ra bất kỳ
ở nơi đâu và trên phạm vi cả nước.
Quyền sở hữu đối với tài sản là quyền quan trọng được Nhà nước bảo vệ,
Nhà nước ta cũng tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của Nhà nước, của
các tổ chức và mọi công dân. Điều này được ghi nhận rõ trong Điều 15 của Hiến
Pháp 1992: “Nhà nước phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần với các tổ chức kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể
làm nền tảng”.
Các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong chương XIV của BLHS
năm 1999 được sửa đổi bô sung năm 2009 là các tội được sáp nhập từ các tội
xâm phạm sở hữu XHCN quy định tại chương IV và các tội xâm phạm sở hữu
của công dân quy định tại chương VI của BLHS năm 1985. Ta thấy rằng, trước
sự chuyển biến không ngừng của tình hình kinh tế - xã hội trong nước và trên thế
giới BLHS năm 1985 mặc dù đã trãi qua bốn lần sửa đổi, bổ sung, một số điều
của BLHS đã được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997.
Song, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm. BLHS được Quốc Hội thông qua ngày 21-12-1999 đã thay thế
cho BLHS 1985 trên cơ sở kế thừa và phát huy những nguyên tắc, chế định pháp
luật hình sự nước ta. Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại chương XIV
BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 từ Điều 133 đến Điều 145 bao gồm
13 tội danh, trong đó có tới 8 tội có tính chất chiếm đoạt
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
7
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
Quan hệ sở hữu tài sản phản ánh quyền sở hữu về tài sản của chủ sở hữu
thể hiện thông qua ba quyền năng: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định
đoạt. Hành vi phạm tội xâm phạm khách thể có thể là xâm phạm cả ba quyền
năng trên hoặc có thể chỉ xâm phạm một trong ba quyền năng như xâm phạm
quyền sử dụng (ví dụ Tội Sử dụng trái phép tài sản được quy định ở Điều 142
BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009).
Như vậy, khi nghiên cứu về tội xâm phạm sở hữu ta thấy rằng tội xâm
phạm sở hữu chính là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS. Đó là những hành vi có lỗi, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
quan hệ sở hữu về tài sản của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và sự gây thiệt hại này
thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
1.2 Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu
1.2.1Về mặt khách thể
Các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong Chương XIV BLHS có
khách thể bị xâm hại là quan hệ sở hữu, có nghĩa là các tội xâm phạm sở hữu
phải là những hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu
và sự gây thiệt hại này phải phản ánh được đầy đủ nhất tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi đó.
Sở hữu là quan hệ xã hội mà trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt về tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm đến các quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt về tài sản. Thực tế có những hành vi tuy có xâm phạm
đến quan hệ sở hữu nhưng không phải là tội xâm phạm sở hữu, vì những hành vi
này còn đồng thời xâm phạm tới những quan hệ sở hữu khác và được pháp luật
hình sự bảo vệ thông qua một chế định khác.
Một số tội xâm phạm sở hữu đồng thời xâm phạm hai khách thể, đó là quan
hệ nhân thân và quan hệ sở hữu, sự xâm phạm một trong hai loại quan hệ xã hội
này đều chưa thể hiện hết bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Do đó, hai quan hệ trên đều là khách thể trực tiếp của những tội này. Việc xếp
những tội này vào Chương các tôi xâm phạm sở hữu xuất phát từ quan điểm cho
rằng mục đích chính của người phạm tội là nhằm vào sở hữu tài sản. Việc xâm
hại quan hệ nhân thân chỉ là phương tiện để người phạm tội đạt được mục đích là
chiếm đoạt tài sản.
* Đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu
Đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu là tài sản thuộc các hình
thức sở hữu toàn dân; sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
8
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu tổ chức xã hội - nghề nghiệp; sở hữu hỗn
hợp; sở hữu chung.
Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu là tài sản (là vật thể, đối tượng
của quan hệ xã hội)1 nhưng ở một số tội phạm, ngoài tài sản còn có một số đối
tượng tác động là con người, như ở Tội Cướp tài sản (Điều 133), Tội Bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134)… Đối tượng (con người) trong trường hợp
này, phải có quan hệ tài sản mới là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu, nếu
bị gây thiệt hại một cách độc lập sẽ cấu thành tội phạm ở các chương khác nhau
của BLHS.
Tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu có những đặc điểm:
Phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị và giá trị sử dụng, tài sản
này là thước đo giá trị lao động của con người được kết tinh, đồng thời phải thõa
mãn được các nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của con người.
Phải có chủ thể với các quy định có tính pháp lý thể hiện quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Hành vi phạm tội khi xâm hại đến quyền sở hữu
phải tác động đến những tài sản được xác lập quyền sở hữu bằng những quy định
pháp lý đối với một chủ sở hữu nhất định.
Phải có khả năng chuyển hoá được giữa các chủ sở hữu với nhau. Ví dụ
tác giả của tác phẩm văn học nghệ thuật, sáng chế, phát minh khoa học… là chủ
sở hữu của các tác phẩm đó nhưng không thể chuyển đổi, nên khi có hành vi xâm
hại đến quyền tác giả thì không cấu thành tội phạm sở hữu mà cấu thành tội xâm
phạm quyền tác giả (Điều 131 BLHS).
Phải là tài sản thông thường, những tài sản có tính chất đặc biệt sẽ là đối
tượng của các tội phạm quy định trong BLHS. Chẳng hạn: Tài sản có ý nghĩa
quan trọng đối với an ninh quốc gia như: Vũ khí, phương tiện kĩ thuật quân sự,
chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ,… là đối tượng của các tội xâm phạm
an ninh quốc gia hoặc các tội phạm khác được quy định trong BLHS.
Tài sản bị tác động gây thiệt hại thông qua hành vi vi phạm các quy định
của các văn bản quản lý cũng không thuộc đối tượng của các tội xâm phạm sở
hữu. Chẳng hạn hành vi gây thiệt hại cho chủ sở hữu ở Tội vi phạm các quy định
về điều khiển giao thông đường bộ (Điều 202 BLHS)… không cấu thành các tội
xâm phạm sở hữu mặc dù có xâm hại sở hữu.
Tuy nhiên, pháp luật nói chung cũng như luật hình sự nói riêng bảo vệ, về
nguyên tắc phải là tài sản hợp pháp. Nhưng điều đó không có nghĩa những hành
vi xâm phạm tài sản bất hợp pháp của công dân khác không bị coi là phạm tội.
Hành vi xâm phạm tài sản khác, dù là tài sản đó là tài sản bất hợp pháp, vẫn bị
1
Kiều Đình Thụ,TSKH Lê Cảm chủ biên. Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung) Chương VIII (tr142 –
143) - Khách thể của tội phạm. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
9
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
coi là trái pháp luật và có thể cấu thành tội phạm sở hữu. Việc coi những hành vi
đó là trái pháp luật và có thể bị xử lý về mặt hình sự là hòan tòan cần thiết, để
đảm bảo trật tự chung của xã hội2.
1.2.2 Về mặt chủ thể
Chủ thể của tội phạm nói chung và của các tội xâm phạm sở hữu nói riêng
là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng không phải ai thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ thể của tội phạm mà chỉ những
người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định mới là chủ thể
của tội phạm. Trong các tội xâm phạm sở hữu có một tội đòi hỏi chủ thể ngoài
những dấu hiệu của chủ thể thường phải có thêm đặc điểm đặc biệt khác. Chủ thể
đặc biệc đó có đặc điểm là người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý tài
sản hoặc có nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản (Tội Thiếu trách nhiệm gây thiệt
hại nghiêm trọng đến Nhà nước được quy định tại Điều 144 BLHS 1999 được
sửa đổi bô sung năm 2009).
1.2.3 Về mặt khách quan
• Hành vi nguy hiểm cho xã hội
Hành vi phạm tội ở Chương này được pháp luật quy định rất đa dạng và
phong phú. Nó có thể là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm
chiếm đoạt, có thể là hành vi chiếm đoạt bằng các thủ đoạn khác; các hành vi
chiếm giữ trái phép tài sản; các hành vi sử dụng trái phép tài sản; các hành vi hủy
hoại, làm hư hỏng, làm mất mát, lãng phí. Trong những hành vi đó có thể thực
hiện bằng hình thức hành động và không hành động (hành vi hủy họai); có hành
vi chỉ được thực hiện bằng hành động (chiếm đọat).
Hành vi chiếm đoạt tài sản
Đó là những hành vi của người phạm tội cố ý chuyển dịch một cách trái
pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản của
mình. Nó làm cho chủ sở hữu tài sản mất khả năng thực hiện quyền sở hữu, đồng
thời tạo khả năng cho người phạm tội có thể thực hiện được việc chiếm giữ, sử
dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Việc xác lập quyền sở hữu đối với tài
sản được thực hiện bằng hành vi chiếm đoạt là trái với các căn cứ xác lập quyền
sở hữu tài sản quy định của Bộ luật dân sự, nên nó bị coi là bất hợp pháp. Hành
vi chiếm đoạt là một quá trình được bắt đầu từ khi người phạm tội thực hiện hành
vi chiếm đoạt và kết thúc khi đã tạo ra cho mình khả năng thực hiện các quyền
của quyền sở hữu và cũng có nghĩa là chủ sở hữu đã mất đi khả năng thực hiện
2
Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 2.Trường Đại học luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
10
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
các quyền đó… Hành vi chiếm đoạt bao giờ cũng được thực hiện bằng hành
động tích cực, cụ thể và luôn là cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết tài sản thuộc
sở hữu của người khác và đang trong sự quản lý của họ, nhưng vẫn thực hiện
hành vi chiếm đoạt và mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình hoặc
người khác mà mình quan tâm. Cách thức và hình thức chiếm đoạt rất đa dạng và
được mô tả khái quát thành những tội danh cụ thể ở từng Chương.
Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản
Đây cũng là hành vi thể hiện sự chuyển dịch tài sản từ chủ thể khác, chủ
thể quản lý tài sản mà mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu đối với tài sản.
Tuy nhiên, mức độ của hình thức này so với hành vi chiếm đoạt thì thấp hơn. Ở
đây, chủ thể phạm tội cũng khẳng định sự mong muốn chiếm hữu tài sản không
phải của mình bằng cách thể hiện những thái độ định đoạt tài sản.
Hành vi sử dụng trái phép tài sản
Đó là việc khai thác giá trị, giá trị sử dụng các tài sản mà không được
phép, không được sự đồng ý của chủ sở hữu hoặc người có chức năng quản lý về
nghiệp vụ đối với lọai tài sản bị khai thác nói trên.
Hành vi hủy hoại, làm hư hỏng, làm mất mát, lãng phí tài sản
Đó là những hành vi được thực hiện thông qua đối tượng tác động làm
mất mát hoàn toàn giá trị sử dụng tài sản, gây thiệt hại cho chủ sở hữu.
Mặc dù khác nhau về hình thức thể hiện nhưng các hành vi này đều xâm
hại đến quan hệ sở hữu tức là xâm phạm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền
định đọat của chủ tài sản làm cho chủ sở hữu mất khả năng thực hiện quyền sở
hữu của mình.
Các hành vi xâm phạm sở hữu có thể được thực hiện bằng hành động hoặc
được thực hiện bằng không hành động (ví dụ Tội Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, hành vi chỉ cấu thành tội phạm nếu gây
hậu quả nghiêm trọng). Riêng các tội phạm có tính chất chiếm đọat chỉ có thể
được thực hiện bằng hành động. Mức giá trị tài sản bị chiếm đọat cũng được quy
định cụ thể và là một trong những căn cứ chính để quy định khung hình phạt tăng
nặng đối với tội phạm sở hữu.
• Hậu quả tác hại
Hậu quả mà những hành vi nói trên gây ra trước hết là những thiệt hại gây
ra cho chủ sở hữu, thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất cụ thể như tài sản bị mất,
tài sản bị hư hỏng, bị hủy họai, tài sản bị sử dụng… Ngoài ra, còn gây thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của chủ sở hữu tài sản; ảnh hưởng
đến trật tự an tòan xã hội; ảnh hưởng đến các họat động của các cơ quan, tổ chức
(ví dụ Tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn để lừa đảo chiếm đọat tài sản, để lạm
dụng tín nhiệm chiếm đọat tài sản, để sử dụng trái phép tài sản, xâm phạm đến
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
11
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
họat động bình thường của các cơ quan, tổ chức). Dấu hiệu hành vi là dấu hiệu
bắt buộc trong tất cả các cấu thành tội phạm. Đối với tội (Cướp, Cưỡng đoạt,…),
hậu quả xảy ra không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tội
phạm được hoàn thành kể từ thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Dấu hiệu hậu
quả không phải là bắt buộc ở đa số các tội xâm phạm sở hữu, trừ một vài trường
hợp cá biệt như: Tội Sử dụng trái phép tài sản (Điều 142), Tội Hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143), Tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều144); Tội Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản (Điều 145)… Hậu quả ở các tội phạm này là gây thiệt hại về vật chất
ở mức độ nghiêm trọng mới cấu thành tội phạm, nên nó là ranh giới để phân biệt
với vi phạm giữa các khung hình phạt khác nhau.
1.2.4 Về mặt chủ quan
* Lỗi: Có tới 11/13 tội danh ở chương này chủ thể thực hiện tội phạm với
lỗi cố ý như ở Tội Cướp giật tài sản. Có 2/13 tội danh chủ thể thực hiện tội phạm
với lỗi vô ý như ở Tội Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.
* Động cơ phạm tội và mục đích phạm tội: Có thể là vụ lợi hoặc không vụ
lợi.
1.3 Khái quát chung về Tội Cướp giật tài sản
1.3.1 Khái niệm về Tội Cướp giật tài sản
Ta có thể định nghĩa Tội Cướp giật tài sản như sau:
Cướp giật là hành vi nhanh chóng giật lấy tài sản của người khác một
cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát.
Đặc điểm nổi bật của Tội Cướp giật tài sản là người phạm tội lợi dụng sơ
hở của người quản lý tài sản để nhanh chóng giật lấy tài sản mà người quản lý
khó có thể giữ được hoặc giằng lại được. Tính chất công khai, trắng trợn của
hành vi cướp giật tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi
phạm tội của mình, trước, trong hoặc ngay sau khi bị mất tài sản, người bị hại
biết ngay người giật tài sản của mình.
Tội Cướp giật tài sản quy định tại Điều 136 BLHS năm 1999 đã được
nhập lại từ Điều 131 và Điều 154 BLHS năm 1985. So với BLHS năm 1985 thì
BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất
là đối với các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, quy định cụ thể hơn, dễ áp
dụng hơn.
Tội Cướp giật tài sản quy định tại Điều 136 BLHS nói chung có khung
hình phạt nặng hơn so với Tội Cướp giật tài sản của công dân quy định tại Điều
154 và nhẹ hơn so với Tội Cướp giật tài sản XHCN quy định tại Điều 131 BLHS
1985.
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
12
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
Về cơ cấu, Tội Cướp giật tài sản quy định tại Điều 136 BLHS năm 1999
được sửa đổi bổ sung năm 2009 được cấu tạo thành 5 khoản (Điều 131 và Điều
154 BLHS năm 1985 quy định về tội này chỉ có 3 khoản).
Nhà làm luật quy định thêm nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt
mà Điều 131 và Điều 154 BLHS năm 1985 chưa quy định như thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; giá trị tài sản; gây hậu quả nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng…
Hình phạt bổ sung cũng được quy định trong điều luật.
1.3.2 Đặc trưng của Tội Cướp giật tài sản
Hành vi của Tội Cướp giật tài sản là hành vi chiếm đọat, cấu thành tội
phạm Tội Cướp giật tài sản đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi chiếm đọat.
Yếu tố bất ngờ trong Tội Cướp giật tài sản là một dấu hiệu đặc trưng của tội
phạm này. Chiếm đọat không còn là mục đích hành động mà phải thực hiện trong
thực tế. Hành vi chiếm đọat ở Tội Cướp giật tài sản có hai dấu hiệu để phân biệt
với những hành vi chiếm đọat ở tội phạm khác. Đó là dấu hiệu công khai và
nhanh chóng. Đặc điểm nổi bật của Tội Cướp giật tài sản là người phạm tội lợi
dụng sơ hở của người quản lý tài sản để nhanh chóng giật lấy tài sản mà người
quản lý khó có thể giữ hoặc giằng lại được. Cũng chính vì vậy, tài sản mà người
phạm tội Cướp giật chỉ có thể là tài sản gọn nhẹ như: hoa tai, dây chuyền vàng,
đồng hồ, túi xách, điện thọai di động… Tuy nhiên cũng có một số ít trường hợp
người phạm tội còn cướp giật cả những vật cồng kềnh như xe đạp, xe máy, vì sau
khi người phạm tội giật được tài sản lại dùng ngay những tài sản vừa giật được
làm phương tiện tẩu thóat. Chạy trốn cũng là một dấu hiệu đặc trưng của Tội
Cướp giật tài sản, người phạm tội có chạy trốn hay không còn tùy vào trường
hợp cụ thể, nếu như trong hoàn cảnh nhất định người phạm tội thấy không cần
phải chạy trốn mà vẫn không bị bắt thì họ không cần phải chạy trốn vẫn không bị
lộ tung tích.Yếu tố bất ngờ trong Tội Cướp giật tài sản cũng là một dấu hiệu đặc
trưng của tội phạm này.
1.3.3 Thủ đoạn của Tội Cướp giật tài sản
Để thực hiện hành vi cướp giật tài sản, người phạm tội có thể sử dụng
nhiều thủ đoạn khác nhau, dưới đây là một số thủ đoạn mà bọn tội phạm Cướp
giật hiện nay thường sử dụng:
Thứ nhất, về phương thức hoạt động của loại tội phạm này thể hiện ở hai
dạng: cướp giật chạy bộ và cướp giật có sử dụng phương tiện. Tuy nhiên, phổ
biến vẫn là bọn cướp có sử dụng bằng phương tiện. Bọn chúng hoạt động theo
băng, ổ, nhóm, thường từ 2 tên trở lên, sử dụng xe gắn máy phân phối lớn của gia
đình, hay mượn bạn bè, người thân hoặc thuê của chủ xe để tiến hành gây án trên
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
13
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
đường. Khi hoạt động trên đường phố chúng thường đeo bảng số giả, bẻ cong
hoặc làm mờ biển số để tránh sự phát hiện của quần chúng nhân dân và cơ quan
Công an.
Trước khi đi gây án bọn chúng thường có sự phân công nhiệm vụ trước
cho từng tên: xe nào giật, xe nào làm nhiệm vụ cản đường và có xe chịu trách
nhiệm đánh lạc hướng sự truy đuổi của quần chúng nhân dân và lực lượng công
an… Tiếp đó, để đạt được mục đích, bọn chúng gây án bất ngờ, táo bạo, sau khi
gây án lập tức tăng tốc độ phóng nhanh khỏi hiện trường trước sự sững sốt, bàng
hoàng và bất lực của người bị hại. Chúng thường hoạt động vào ban ngày, đặc
biệt vào thời gian ngoài giờ cao điểm, lợi dụng lúc đông người hoặc ở nơi vắng
vẻ để hành động3.
Thứ hai, thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm này là thường cho xe lượn
lờ trên các trục đường chính ngoài giờ cao điểm như vào đêm khuya, cuối giờ
chiều, sáng sớm, thậm chí là vào ban ngày nơi công cộng. Lợi dụng chủ sở hữu
hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản đang sơ hở, bị vướng mắc hoặc đang
điều khiển phương tiện giao thông, thấy có điều kiện thuận lợi là ra tay ngay.
Nạn nhân của chúng thường là phụ nữ đi xe gắn máy, xe đạp (hoặc có khi là đi
bộ) có đeo hoa tai, dây chuyền vàng, điện thoại di động hoặc túi xách có đựng
tiền bạc (có khi chúng dùng dao để cắt dây túi xách khi chúng không giựt được).
Thứ ba, thủ đọan chen lấn, xô đẩy người giữ tài sản để người này không
chú ý đến tài sản của mình. Có trường hợp chúng ăn mặc lịch sự đang hoàng (đây
là vỏ bọc khá kín để có thể thoát khỏi tầm ngắm của lực lượng công an và tránh
được sự nghi ngờ của nạn nhân), táo bạo hơn chúng dùng thủ đoạn gian dối như
mặc quần áo cảnh sát hoặc người có công vụ để làm cho người bị hại không một
chút nghi ngờ, sau đó chúng sẽ lợi dụng sự sơ hở mà hành động.
Thứ tư, thủ đoạn cướp giật vào buổi sáng. Đối với những người có tuổi,
việc tập thể dục vào buổi sáng. Tuy nhiên, khi rời khỏi nhà những người này
thường chủ quan là vẫn đeo đồ trang sức (dây chuyền vàng, hoa tai, lắc vàng…),
“đây là miếng mồi ngon” để cho bọn tội phạm tấn công. Lợi dụng điều kiện trời
còn tối hoặc mờ sáng ít người, các đối tượng giả vờ cũng chạy tập thể dục, lượn
qua lượn lại quanh họ, rồi bất ngờ giật lấy trang sức đó và bỏ trốn. Trong lúc nạn
nhân còn hoảng hốt chưa kịp trấn tĩnh thì bọn tội phạm đã tẩu thoát khỏi hiện
trường.
Thứ năm, thủ đoạn tấn công trực diện. Bọn tội phạm cũng thường đóng
vai là người mua hàng, lợi dụng lúc cửa hiệu vắng khách, ngoài đường thưa
3
PGS.TS.Trần Phương Đạt, Phạm Ngọc Cường, Phạm Văn Long. Sổ tay phòng chống tội phạm - NXB Công an
nhân dân,NXB 2006.
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
14
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
người (buổi trưa, chập choạng, trời mưa…) chúng mới xuất hiện để giả vờ mua
hàng. Lợi dụng sơ hở của chủ cửa hàng, chúng tung vôi bột (hay tiêu tán nhỏ, ớt
bột) vào mắt người chủ rồi giật lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát.
Thứ sáu, một thủ đoạn mới và đang có nguy cơ phát triển của bọn cướp
giật vừa được phát hiện: Đó là giả vờ hỏi thăm đường ở các nút giao thông hoặc
khi nạn nhân đang dừng đèn đỏ, làm phân tán sự chú ý của người đi đường rồi
nhanh tay cướp giật tài sản của người đi đường.
Thứ bảy, bọn cướp giật còn bám theo những cô gái trẻ đi một mình trên
đường phố để giả vờ tán tỉnh, khi người bị hại mất cảnh giác, chúng ra tay thực
hiện hành vi phạm tội.
Sau khi cướp được chúng thường móc nối bán tài sản cho hiệu vàng tư
nhân hoặc dịch vụ cầm đồ để tiêu thụ tài sản bất hợp pháp.
1.3.4 Nguyên nhân và điều kiện của Tội Cướp giật tài sản
Thiếu ý thức cảnh giác của quần chúng nhân dân là nguyên nhân đầu tiên
để tạo điều kiện cho bọn tội phạm thực hiện hành vi phạm tội của mình. Đa số
phụ nữ hay phô trương tài sản, hay đeo đồ trang sức khi đi trên đường. Do giá trị
tài sản gọn nhẹ dễ tiêu thụ… nên dễ kích động hành động của bọn tội phạm. Đặc
biệt, do một số người có tâm lý ngại tiếp xúc với cơ quan pháp luật, cho nên khi
bị cướp mất tài sản đã không đến trình báo với cơ quan có chức năng. Điều này
đã làm cho bọn cướp giật ngày càng lộng hành bất chấp pháp luật.
Tệ nạn nghiện hút ma túy, lối sống đua đòi buông thả, nghiện game đang
là vấn đề gây nhức nhối cho xã hội hiện nay, nó hằng ngày hằng giờ gia tăng
nghiêm trọng và kéo theo hàng loạt những tệ nạn khác. Cướp giật tài sản cũng
bắt nguồn từ nguyên nhân đó, ta thấy rằng phần lớn đối tượng cướp giật tài sản là
những thanh thiếu niên có độ tuổi từ 17 đến 25, trong đó đa số là thành phần có
tiền án, tiền sự, chiếm 80% - 90% số đó là con nghiện, để có tiền hút hít, tiêm
chích, bọn nghiện hút hành động rất liều lĩnh, mất hết lý trí. Bọn chúng thường
có thủ đoạn táo bạo, liều lĩnh, coi thường luật pháp, bất chấp sự nguy hiểm đến
tính mạng mà bọn chúng có thể gây ra cho nạn nhân.
Lớp trẻ hiện nay đang là đối tượng sa vào hành vi phạm tội này. Một mặt,
do sự quản lý con cái từ phía gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc đúng mực,
Mặt khác, lứa tuổi vị thành niên hiện nay do qua đua đòi, ăn chơi xa xỉ, thích lối
sống hưởng thụ, sự ảnh hưởng của văn hóa phẩm đồi trụy, kích động bạo lực từ
bên ngoài xâm nhập vào nước ta là điều kiện để họ bị bọn xấu dụ dỗ đi vào con
đường phạm pháp.
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
15
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
Tình trạng thiếu việc làm, cuộc sống gia đình nghèo khó, trình độ văn hóa
thấp, không còn cách nào khác để kiếm tiền nên một số người buộc phải làm liều,
họ bất chấp hậu quả việc làm của mình.
Sự quản lý chưa chặt chẽ của cơ quan chức năng còn là nguyên nhân để
bọn tội phạm này lộng hành. Có một bộ phận người dân chưa tin tưởng vào pháp
luật, đó là lý do vì sao khi trở thành nạn nhân thì họ ngại đến trình báo với cơ
quan có thẩm quyền.
1.3.5 Hậu quả của Tội Cướp giật tài sản
Hậu quả của Tội Cướp giật tài sản trước hết là những thiệt hại về tài sản,
ngoài ra còn có những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc những thiệt hại
khác. Mặc dù điều văn của điều luật không quy định, nhưng về lý luận Tội Cướp
giật tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất, do đó chỉ khi nào người phạm Tội
Cướp giật được tài sản thì tội phạm mới hoàn thành, nếu có hành vi giật nhưng
chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tội Cướp giật tài
sản là tội phạm nghiêm trọng nên nhà làm luật không quy định mức tài sản bị
chiếm đoạt là dấu hiệu cấu thành tội phạm như đối với các tội khác như Tội
Trộm cắp, Tội Công nhiên chiếm đoạt, Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Do đó
người phạm Tội Cướp giật tài sản có giá trị lớn hay chỉ có giá trị rất nhỏ (hoa tai
giả, dây chuyền giả) vẫn là tội phạm Cướp giật tài sản. Tuy nhiên, nếu như chiếm
đoạt tài sản có giá trị lớn thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc
khoản 4 Điều 136 (BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009) thì tùy theo
giá trị tài sản bị chiếm đoạt mà định khung hình phạt.
Các thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và các thiệt hại khác là những dấu
hiệu định khung tăng nặng của Tội Cướp giật tài sản. Ví dụ: Gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến
30% thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, từ 31% đến 60% thuộc trường
hợp quy định tại khoản 3, từ 61% trở lên thuộc trường hợp quy định tại khoản 4
của Điều 136 BLHS.
Ngoài ra, thực tiễn cho thấy Tội Cướp giật tài sản còn gây ra những hậu
quả phi vật chất như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự an toàn xã hội,…
Trong các trường hợp này phải tùy vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức
độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng.
1.4 Lượt sử phát triển của luật hình sự việt Nam quy định về Tội Cướp giật
tài sản
Trãi qua lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện một Nhà
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
16
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
nước độc lập, tự chủ, vững mạnh, để lại cho các thế hệ sau nhiều di sản quý báu
về kinh nghiệm quản lý và điều hành đất nước. Một trong những di sản quý báu
đó là thành quả to lớn và tính sáng tạo trong xây dựng nền pháp luật độc lập, tự
chủ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử. Trong đó,
những thành tựu về kinh nghiệm về lập pháp hình sự có vị trí trọng yếu. Với tư
cách là công cụ có hiệu quả trong công cuộc bảo vệ và duy trì Nhà nước độc lập
tự chủ ta thấy rằng Nhà nước Việt Nam qua các triều đại lịch sử luôn quan tâm
đến việc ban hành các quy định pháp luật về hình sự và luôn thể hiện đậm nét
bản sắc văn hóa dân tộc trong di sản văn hóa quý báu ấy.
Qua nhiều thập kỷ xây dựng, Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu
trong việc xây dựng những văn bản pháp luật về hình sự và đã giúp Nhà nước ta
quản lý xã hội đạt hiệu quả, bảo vệ chế độ XHCN vững chắc.
Ngày nay, trong tiến trình xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng và Nhà
nước đã đặt ra nhiều cách đổi mới trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu
pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những vấn đề cần thiết, góp phần tiếp
thu, phát huy những thành quả quý báu của ông cha ta trong việc tìm giải pháp
khả thi trước yêu cầu cấp bách trong bối cảnh đổi mới.
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội Cướp giật tài sản trước
Cách Mạng Tháng Tám năm 1945
• Thời kì Nhà Lê
Ngay từ thế kỷ thứ XV, nước ta đã có Lê triều hình luật4 (còn gọi là Bộ
luật Hồng Đức) và Hồng Đức thiện chính thư - một văn bản pháp luật chứa đựng
một số quy phạm pháp luật hình sự gồm 6 quyển với 13 Chương và 722 Điều.
Trong Bộ luật Hồng Đức thì Tội Cướp giật tài sản không được quy định
một cách cụ thể ngay trong điều luật nhưng theo quy định tại Điều 454 Bộ luật
Hồng Đức thì “những kẻ lập mưu đi cướp, nhưng khi đi thì không cướp được của
đem về chia nhau. Người không đi này cũng lấy phần chia thì xử tội như cùng đi
ăn cướp, nếu không lấy phần chia nhau thì xử lưu châu gần”. Trước kia từng ăn
cướp nhưng khi đó không đi, thì dù gì không nhận vẫn xử như có đi ăn cướp.
Ngoài quy định Điều 454 thì tại Điều 453 Bộ luật Hồng Đức còn quy định:
“Những người thừa cơ hội khi trộm, cướp, cháy mà vơ vét tiền của người khác
hay giữa ban ngày mà cướp giật tiền của người ta thì bị xử tội những người này
sẽ được giảm hơn một bực”.
Từ sự phân tích trên, có thể rút ra kết luận là BLHS thời kì nhà Lê vừa khá
hòan chỉnh, vừa phản ánh được những đặc điểm của xã hội đương thời. Điều đó
4
Lê Triều Hình Luật. NXB Văn hóa thông tin, NXB 1997.
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
17
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
đã thể hện sự độc lập và sáng tạo của các nhà lập pháp thuộc giai cấp phong kiến
nước ta trong thời kì chế độ phong kiến đang phát triển và phồn thịnh trên cơ sở
tham khảo pháp lụât hình sự của Trung Hoa phong kiến.
• Thời kì nhà Nguyễn
Về mặt lập pháp nói chung, Vua Gia Long giao cho tiền quân Bắc thành
tổng trấn Nguyễn Văn Thành (1757 - 1817) là Tổng tài sọan thảo Bộ luật có tên
Hòang Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long)5 gồm hai phần, 22 quyển với 398 Điều.
Hòang Việt luật lệ không có điều khoản nào trực tiếp quy định về Tội
Cướp giật tài sản, tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Gia Long về hình công có
176 Điều trong đó có tội cưỡng đạo (cướp giật mạnh, trộm cướp gia trọng) quy
định tại Điều 235: “Phàm cướp giật mạnh nhưng không lấy được tiền, đều phạt
100 trượng, lưu 3000 dặm, được tiền của người chủ nó, thì không chia thủ tòng
đều chém hết. Tuy nhiên, về sau theo tang vật buộc tội theo cố ý, không chia xử
theo tang vật là cứ phạt 100 trượng, lưư đày 3000 dặm. Phàm những kẻ cướp giật
mạnh tự thú mà không thực, không kể hết tội không nên xử theo luật danh lệ tự
thú, đến tội chết thì giảm một bực luận tội không kể đến chỗ nặng nhất”.
Từ sự phân tích nói trên, có thể rút ra kết luận là pháp luật hình sự thời kì
nhà Nguyễn mặc dù chịu ảnh hưởng của pháp luật hình sự phong kiến Trung
Quốc rất nặng nề, nhưng cũng đã tiếp thu các giá trị lập pháp hình sự của thời kì
nhà Lê và bên cạnh đó, có những sáng tạo nhất định, thể hiện kĩ thuật lập pháp
hình sự ở trình độ cao so với các nước trong khu vực.
Quy định của pháp luật Việt Nam về Tội Cướp giật tài sản từ sau
Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1985
Sau Cách Mạng Tám 1945, Nhà nước đã ban hành nhiều sắc lệnh nhằm
đáp ứng yêu cầu giữ gìn chính quyền nhân dân, góp phần xây dựng và chuẩn bị
lực lượng sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài của đất nước. Sắc lệnh số
73 - SL ngày 17-8-1947 và sắc lệnh số 12 -SL ngày 12-03-1949 quy định trừng
trị rất nặng tội trộm cắp vặt, tội trộm sắp tài sản nhà binh trong thời bình và trong
thời kì chiến tranh…
Tuy còn sơ khai nhưng PLHS về các tội xâm phạm sở hữu thời kì này đã
khái quát được những hành vi xâm hại sở hữu trong thực tế quy định thành các
tội phạm cụ thể làm cơ sở cho họat động xét xử của Tòa án. Cùng với việc tội
phạm hóa, những văn bản này còn quy định đường lối xử lý các tội xâm phạm sở
hữu, thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sở nguyên tắc
trừng trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị với gíao dục cải tạo.
5
Nguyễn Quốc Thắng. Lược khảo Hòang Việt Luật Lệ. NXB Văn hóa thông tin
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
18
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
Do pháp luật chưa hòan chỉnh, do tội phạm và hình phạt đuợc ban hành
trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành, nên dẫn tới khó khăn
trong việc thống nhất áp dụng pháp luật. Song, để đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nên Nhà nước ta còn cho phép áp
dụng nguyên tắc “tương tự trong xét xử”.
Ngày 19-01-1955, thủ tướng ban hành Công văn số 442/TTg về việc trừng
trị nghiêm khác đối với những phần tử lưu manh, chuyên sinh sống bằng nghề
trộm, cướp.
Ngày 21-12-1970 Ủy ban Thường vụ Quốc thông Pháp lệnh trừng trị các
tội xâm phạm sở hữu bao gồm xâm phạm tài sản XHCN và xâm phạm tài sản của
công dân Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy định 16 tội,
trong đó có 12 tội trực tiếp xâm phạm tài sản XHCN, đặc biệt pháp lệnh đã phân
biệt rõ ba tội: Tội Cướp tài sản XHCN, Tội Cướp giật tài sản XHCN, Tội Cưỡng
đọat tài sản XHCN. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công
dân quy định 13 tội, trong đó phần lớn giống với tội được quy định ở Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN. Nhà nước ta quy định chính sách xử lý
tội phạm xâm phạm sở tài sản XHCN nghiêm khắc hơn so với các tội xâm phạm
tài sản riêng của công dân. Ví dụ: Tội Cướp tài sản XHCN bị phạt tù từ 5 năm
đến 15 năm (khung 1), còn Cướp tài sản riêng của công dân bị phạt tù từ 3 năm
đến 12 năm (khung 1). Ngòai ra pháp lệnh cũng trừng trị nghiêm khắc đối với tội
bao che cho kẻ xâm phạm tài sản XHCN, tài sản riêng của công dân.
Ngày 15-03-1976, Chính phủ Cách mạnh lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-76 quy định các tội phạm và hình phạt
được áp dụng ở Miền Nam Việt Nam, trong đó so quy định về các tội xâm phạm
sở hữu. Nội dung Sắc luật này và hai Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
XHCN và tài sản riêng của công dân (ban hành 21-10-1970) về cơ bản là thống
nhất.
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội Cướp giật tài sản từ
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1999.
Ngày 27-6-1985, tại kì họp thứ 9 Quốc hội khóa VII đã thông qua BLHS
đầu tiên của nuớc Cộng hòa XHCN Việt Nam các tội xâm phạm sở hữu được
quy định ở hai chương: Chương IV: “Các tội xâm phạm sở hữu XHCN” (Tội
Cướp giật hoặc Công nhiên chiếm đọat tài sản XHCN quy định tại Điều 131),
Chương VI “Các tội xâm phạm sở hữu của công dân” (Tội Cướp giật hoặc Công
nhiên chiếm đọat của công dân quy định tại Điều 154) - Phần các tội phạm.
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
19
SVTH: Phan Trung Thành
Luận văn tốt nghiệp
Tội Cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam hiện hành
Bộ luật hình sự 1985 quy định các tội xâm phạm sở hữu của công dân là
nhằm bảo vệ sở hữu của công dân về mặt hình sự.
Ở hai Chương đều quy định ba khung hình phạt đối với tội phạm này
Khung cơ bản đối với Tội Cướp giật tài sản XHCN có mức phạt tù từ 1
năm đến 5 năm, Tội Cướp giật tài sản của công dân có mức phạt tù từ 3 tháng
đến 3 năm.
Khung tăng nặng đối với Tội Cướp giật tài sản XHCN có mức phạt tù từ 3
năm đến 12 năm, của Tội Cướp giật tài sản của công dân có mức phạt tù từ 2
năm đến 10 năm, khi có một trong các tình tiết sau:
Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp.
Dùng thủ đọan nguy hiểm, hành hung để tẩu thóat.
Chiếm đọat tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.
Tái phạm nguy hiểm.
Khung đặc biệt tăng nặng của Tội Cướp giật tài sản XHCN có mức phạt tù
từ 10 năm đến 20 năm, của Tội Cướp giật tài sản công dân có mức phạt tù từ 7
năm đến 15 năm khi phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng6. Từ sự
phân tích trên, có thể thấy, BLHS năm 1985 thật sự là công cụ sắc bén của Nhà
nước ta để bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, của công dân, chống mọi hành vi phạm
tội, giáo dục mọi người dân ý thức tôn trọng và tuân theo pháp luật. Lần đầu tiên,
ở nước ta đã có quy định rõ ràng, đầy đủ về cơ sở của trách nhiệm hình sự; quy
định một hệ thống hình phạt tương đối đầy đủ và hòan chỉnh, thể hiện chính sách
hình sự nhân đạo của Nhà nước của Đảng và Nhà nước ta. Có thể nói BLHS năm
1985 đã kế thừa và phát huy những thành tựu của pháp luật hình sự Việt Nam
nhất là thời kì từ sau Cách Mạng Tháng Tám. Tổng kết kinh nghiệm trong phòng,
chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội
phạm trong thời gian tới.
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội Cướp giật tài sản trong
Bộ luật hình sự năm 1999
• Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1985
BLHS năm 1985 được ban hành trước ngày Đảng Cộng Sản Việt Nam đề
ra đường lối đổi mới và được Nhà nước cụ thể hóa đường lối thành Hiến Pháp
năm 1992. Vì vậy BLHS năm 1985 chưa có điều kiện thể chế hóa đường lối đổi
mới của Đảng được thể hiện trong Hiến Pháp 1992.
6
Luật hình sự Việt Nam. Phần các tội phạm. Trường đại học tổng hợp Hà Nội - Khoa luật Hà Nội 1994
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh
20
SVTH: Phan Trung Thành
- Xem thêm -