ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THẮNG
TÒA ÁN TRỌNG TÀI THƯỜNG TRỰC LA HAYE
VÀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÁ DIẾN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Thắng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các biểu đồ, sơ đồ, bản đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÒA TRỌNG TÀI THƢỜNG
TRỰC LA HAYE ............................................................................... 4
1.1.
Lịch sử hình thành và phát triển của Tòa trọng tài thƣờng trực
La Haye (PCA) .................................................................................... 4
1.1.1. Lịch sử hình thành thiết chế trọng tài ................................................... 4
1.1.2. Quá trình thành lập và phát triển của PCA........................................... 5
1.2.
Cơ cấu tổ chức của PCA .................................................................. 10
1.2.1. Hội đồng hành chính (Administrative Council) ................................. 11
1.2.2. Thành viên của Tòa (Members of the Court) ..................................... 11
1.2.3. Văn phòng quốc tế hoặc Ban Thư ký (International Bureau) ............ 12
1.2.4. Cơ quan khác (Tòa) ............................................................................ 12
1.2.5. Các văn kiện pháp lý cơ bản ............................................................... 12
1.3.
Thẩm quyền của PCA ...................................................................... 13
1.3.1. Thẩm quyền về vụ việc....................................................................... 13
1.3.2. Thẩm quyền về dịch vụ pháp lý của PCA .......................................... 14
1.3.3. Thời hạn .............................................................................................. 15
1.4.
Đặc điểm của PCA ............................................................................ 16
1.5.
Vị trí, vai trò của PCA trong tài phán quốc tế và phát triển luật
quốc tế................................................................................................. 17
1.5.1. Vị trí và vai trò của PCA đối với tài phán quốc tế ............................. 17
1.5.2. Vai trò của PCA đối với việc phát triển pháp luật quốc tế ................. 20
Chƣơng 2: THỦ TỤC TỐ TỤNG VÀ LUẬT ÁP DỤNG CỦA PCA ....... 22
2.1.
Luật áp dụng ..................................................................................... 22
2.1.1. Nguyên tắc thủ tục .............................................................................. 22
2.1.2. Nguyên tắc lựa chọn luật áp dụng ...................................................... 22
2.2.
Trình tự, thủ tục giải quyết tại PCA ............................................... 23
2.2.1. Theo Công ước La Haye 1899 và Công ước La Haye1907 ............... 23
2.2.2. Theo các quy tắc tố tụng ban hành sau Công ước La Haye 1899
và Công ước La Haye 1907 ................................................................ 29
Chƣơng 3: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA PCA .................................. 43
3.1.
Thực tiễn cung cấp các dịch vụ pháp lý của PCA ......................... 43
3.1.1. Thực tiễn trọng tài .............................................................................. 43
3.1.2. Các dịch vụ khác................................................................................. 44
3.2.
Một số tranh chấp chủ quyền điển hình PCA đã giải quyết ........ 45
3.2.1.
Vụ tranh chấp chủ quyền đảo Palmas giữa Hà Lan và Mỹ (năm 1928)... 45
3.2.2. Vụ tranh chấp quần đảo Hanish giữa Eritrea và Yemen (năm
1998 đến 1999) .................................................................................. 51
3.2.3. Vụ tranh chấp biên giới trên biển giữa Barbados và Trinidad &
Tobago (năm 2006) ............................................................................ 63
Chƣơng 4: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA TÒA TRỌNG TÀI
THƢỜNG TRỰC LA HAYE VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ
XUẤT NHẰM BẢO VỆ CHỦ QUYỀN TRÊN BIỂN ĐÔNG
CỦA VIỆT NAM .............................................................................. 73
4.1.
Những bài học kinh nghiệm của PCA trong giải quyết tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ .................................................................. 73
4.1.1. Những ưu điểm của phương thức PCA .............................................. 73
4.1.2. Những hạn chế của phương thức PCA ............................................... 74
4.2.
Giải pháp và đề xuất cho Việt Nam trong việc sử dụng phƣơng
thức PCA giải quyết tranh chấp chủ quyền biển Đông ................... 75
4.2.1. Tình hình tranh chấp biển Đông hiện nay .......................................... 75
4.2.2. Đề xuất các giải pháp cho Việt Nam tại PCA .................................... 77
4.2.3. Trình tự, thủ tục đưa vụ việc ra PCA ................................................. 86
4.2.4. Những vấn đề Việt Nam cần chuẩn bị để đưa vụ việc ra PCA .......... 89
4.2.5. Những vấn đề có thể phát sinh khi Việt Nam đưa tranh chấp chủ
quyền biển đảo trên biển Đông tại thiết chế PCA ............................ 103
KẾT LUẬN .................................................................................................. 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 115
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTTG I
Chiến tranh thế giới thứ nhất
CTTG II
Chiến tranh thế giới thứ hai
ICC
Tòa trọng tài quốc tế của Phòng thương mại quốc tế
ICJ
Tòa án công lý quốc tế của Liên hợp quốc
ICSID
Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế
ITLOS
Tòa án quốc tế theo Công ước luật biển năm 1982
La Haye I
Công ước La Haye 1899
La Haye II
Công ước La Haye 1907
PCA
Tòa trọng tài thường trực Lahaye
UNCITRAL Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
UNCLOS
Công ước luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ, BẢN ĐỒ
Số hiệu
Tên Biểu đồ, Sơ đồ, Bản đồ
Trang
Biểu đồ 3.1: Số lượng các vụ việc trọng tài tồn đọng qua các
năm từ năm 2000 đến năm 2012
43
Biểu đồ 3.2: Số lượng các yêu cầu liên quan đến thẩm quyền
chỉ định của Tổng thứ ký PCA từ năm 2000 đến
năm 2012
Sơ đồ 2.1:
44
Quy trình thủ tục tố tụng theo Công ước Lahaye
1899 và Công ước Lahaye 1907
23
Sơ đồ 2.2: Quy trình thủ tục tố tụng theo Quy tắc trọng tài
PCA năm 2012
Bản đồ V:
31
Bản đồ thể hiện đường biên giới trên biển giữa
Barbados và Trinidad & Tobago theo phán quyết
của Hội đồng trọng tài
69
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh tình hình tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, đặc biệt là
những tranh chấp quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
đang diễn ra rất phức tạp thì việc tìm hiểu và áp dụng một cách thuận lợi các quy tắc
tố tụng của các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết các tranh chấp một cách hòa
bình, tránh các cuộc xung đột vũ trang là một trong những nhu cầu cấp thiết của Việt
Nam, đây cũng là nhiệm vụ đặt ra cho nhưng nhà làm luật, những chuyên gia và các
nhà nghiên cứu luật quốc tế của Việt Nam. Với mong muốn đưa ra một số luận cứ
khoa học, pháp lý cũng như những bài học kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp
liên quan đến chủ quyền lãnh thổ nhằm hỗ trợ cho việc đấu tranh giành chủ quyền
biển đảo Việt Nam nên học viên đã lựa chọn đề tài: “Tòa án trọng tài thường trực
La Haye và việc giải quyết các tranh chấp quốc tế” cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tòa trọng tài thường trực La Haye
(PCA), chính thức tham gia Công ước La Haye 1899 từ ngày 29 tháng 12 năm 2011
và Công ước La Haye 1907 từ ngày 27 tháng 02 năm 2012. Cho đến nay đã có một
số bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến PCA của một số chuyên gia pháp
lý, các nhà làm luật, tuy nhiên số lượng vẫn còn rất hạn chế và cũng chưa có một
công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về PCA đã được công
bố. Hi vọng luận văn sẽ có những đóng góp nhất định về mặt khoa học cũng như
thực tiễn trong việc lựa chọn một thiết chế tài phán quốc tế để giải quyết các tranh
chấp quốc tế mà Việt Nam có liên quan.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn, học viên mong muốn giới thiệu một cách đầy đủ,
toàn diện cũng như những ưu điểm và hạn chế của Tòa trọng tài thường trực La
Haye - một thiết chế tài phán quốc tế có lịch sử lâu đời và nhiều kinh nghiệm trong
1
việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến chủ quyền lãnh thổ nhưng vẫn chưa
được biết đến nhiều tại Việt Nam như một số thiết chế tài phán quốc tế khác như
Tòa án công lý quốc tế của Liên hiệp quốc (ICJ), Trọng tài thương mại quốc tế
(ICC) hay Tòa án quốc tế theo Công ước luật biển của Liên hợp quốc (ITLOS)…
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi khuôn khổ để tài, luận văn đi sâu tìm hiểu về quá trình hình
thành, phát triển, các quy tắc tố tụng và thực tiễn hoạt động của PCA kể từ khi
thành lập cho đến nay, trong đó bao gồm các nội dung như vai trò, chức năng, cơ
cấu tổ chức, bản chất của PCA, quy trình thủ tục tố tụng của PCA, các giai đoạn
phát triển của PCA và thực tiễn hoạt động tương ứng với từng giai đoạn phát triển.
Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu và giới thiệu một số vụ việc liên quan đến tranh
chấp chủ quyền biển đảo đã được giải quyết tại PCA, qua đó rút ra những bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển
đảo. Một nội dung quan trọng khác nữa của luận văn là áp dụng những quy tắc tố
tụng hiện hành của PCA vào việc giải quyết những tranh chấp liên quan đến biển
đảo tại Việt Nam. Luận văn phân tích những ưu điểm và hạn chế của PCA, những
thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam lựa chọn phương thức PCA để giải quyết các
tranh chấp trên biển Đông. Những điểm cần lưu ý để phát huy những ưu điểm và
hạn chế những khó khăn khi lựa chọn phương thức PCA.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu mang tính xây dựng, trên cơ sở tham khảo bài viết của
các nhà nghiên cứu, nhà khoa học về vấn đề này đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị để Việt Nam có thể sử dụng PCA để giải quyết tranh chấp Biển Đông.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ vấn đề trên, Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp,
đánh giá, quy nạp, diễn dịch, thống kê, so sánh... để từ đó rút ra những nhận xét có ý
nghĩa về mặt khoa học cũng như thực tiễn. Các phương pháp này được thực hiện
2
trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng. Ngoài ra luận văn còn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu truyền thống và hiện đại khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Giới thiệu tổng quan về PCA bao gồm lịch sử hình thành và phát
triển, cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, vị trí và vai trò của PCA.
Chương 2: Các nguyên tắc, trình tự và thủ tục tố tụng và luật áp dụng của PCA.
Chương 3: Thực tiễn trọng tài và cung cấp dịch vụ pháp lý của PCA từ năm
2000 đến nay, giới thiệu ba vụ việc điển hình liên quan đến tranh chấp chủ quyền
biển đảo đã được giải quyết tại PCA.
Chương 4: Bài học kinh nghiệm của PCA và những giải pháp đề xuất nhằm
bảo vệ chủ quyền trên biển Đông của Việt Nam.
3
Chương 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÒA
TRỌNG TÀI THƢỜNG TRỰC LA HAYE
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Tòa trọng tài thƣờng trực La
Haye (PCA)
1.1.1. Lịch sử hình thành thiết chế trọng tài
Cho đến nay, dường như khoa học pháp lý vẫn chưa khẳng định được một
cách chính xác phương thức trọng tài bắt đầu xuất hiện từ khi nào, nhưng có thể
khẳng định đây chính là hình thức tiền thân của việc hình thành các tòa án sau này.
Tòa Trọng tài là một trong những phương thức cổ xưa nhất để giải quyết bất hòa giữa
người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã biết
sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp. Quy định sơ khai về trọng tài
trong luật mua bán hàng hóa cho phép các lái buôn được tự phân xử bất hòa của mình
không cần có sự can thiệp của Nhà nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng
phạm vi tranh chấp, không chỉ trong biên giới lãnh thổ, mà còn ở những nước La Mã
có trao đổi hàng hóa, có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu.
Trong hệ thống luật của Anh, văn bản pháp luật đầu tiên về trọng tài phải kể
đến Luật Trọng tài 1697, nhưng vào thời điểm luật được thông qua, đây đã là một
phương thức rất phổ biến (phán quyết đầu tiên của trọng tài ở Anh được đưa ra vào
năm 1610). Tuy nhiên các quy định sơ khai về trọng tài trong hệ thống luật common
law thể hiện một hạn chế cơ bản là bất cứ bên tham gia tranh chấp nào cũng có thể
khước từ việc thực hiện phán quyết của trọng tài nếu thấy phán quyết đó bất lợi cho
mình. Hạn chế này đã được khắc phục trong Luật năm 1697. Trong Hiệp ước Jay
năm 1794, Anh và Mỹ đã thống nhất đưa các vấn đề còn đang tranh chấp liên quan
đến các khoản nợ và biên giới ra giải quyết ở trọng tài. Việc giải quyết tranh chấp
này kéo dài 7 năm và được coi là kết thúc thành công. Năm 1872, Mỹ và Anh trên
cơ sở Hiệp ước Washington năm 1871 đã dựa vào biện pháp trọng tài để giải quyết
vụ Alabama, trong đó Mỹ kiện Anh vi phạm vai trò trung lập của mình trong cuộc
4
chiến tranh ly khai ở Mỹ. Tòa trọng tài gồm năm Trọng tài viên do người đứng đầu
các nước Anh, Mỹ, Barazil, Ý và Thụy Sỹ lựa chọn. Tòa trọng tài đã kết luận cho
Mỹ thắng kiện và nước Anh phải trả một khoản bồi thường cho những hoạt động
trái pháp luật của mình. Từ đầu thế kỷ XX, các nước (trong đó có Pháp và Mỹ) bắt
đầu thông qua các đạo luật quy định và khuyến khích việc phân xử ở cấp trọng tài
thay cho kiện tụng ở tòa án vốn được cho là kém hiệu quả hơn.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng phát triển dẫn tới việc hình thành những tổ
chức trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các hợp đồng
thương mại quốc tế. Tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
ngày càng được thừa nhận rộng rãi, đặc biệt là trong các thập kỷ gần đây. Cuối thế
kỷ 19, người ta đã cố gắng hợp thức hoá tính cách pháp lý cho hình thức trọng tài
qua hai Hội nghị quốc tế. Đó là hội nghị Hoà bình tổ chức tại La Haye vào năm
1899 và năm 1907. Hai hội nghị này đã đi đến việc soạn thảo quy chế và thủ tục và
nỗ lực hướng dẫn các quốc gia áp dụng triệt để các hiệp ước trọng tài và khái niệm
“Trọng tài” được đề cập nhiều trong luật quốc tế. Định nghĩa sớm nhất về trọng tài
được nêu trong Công ước La Haye năm 1899, theo đó: “Trọng tài là nhằm để giải
quyết những bất đồng giữa các bên thông qua một người thứ ba do chính các bên
lựa chọn trên cơ sở tôn trọng luật pháp”. Công ước La Haye 1907 qui định: “Trọng
tài quốc tế có đối tượng giải quyết là những tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can
thiệp của những trọng tài viên do các quốc gia tranh chấp tự chọn và đặt trên cơ sở
của sự tôn trọng luật pháp”.
1.1.2. Quá trình thành lập và phát triển của PCA
1.1.2.1. Quá trình thành lập của PCA
Với mong muốn tìm kiếm các giải pháp giải quyết các xung đột giữa các
quốc gia mà không cần sử dụng lực lượng quân sự, ý tưởng về tổ chức Hội nghị hòa
bình thế giới được Sa hoàng Nicholas II đưa ra ngày 29/08/1898. Ngày 18/05/1899
Hội nghị hòa bình thế giới lần thứ nhất đã được nhóm họp tại La Haye (viết theo
tiếng Pháp), (Hague viết theo tiếng Anh), (Den Haag theo tiếng Hà Lan) của Hà Lan
5
dưới sự chủ trì của Sa hoàng Nicholas II và ông Mikhail Nikolayevich Muravyov,
Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nga. Có 26 quốc gia đã tham dự hội nghị bao gồm các nhà
lãnh đạo của Bắc Mỹ và Nam Mỹ, vua Nam Tư, hoàng đế của đế quốc Ottoman,
quốc vương Thái Lan, đại diện của Thanh Triều (Trung Quốc),...
Hội nghị hòa bình La Haye lần thứ nhất đã thảo luận rất nhiều vấn đề liên
quan đến chiến tranh cũng như giải quyết các xung đột giữa các quốc gia. Kết quả
của hội nghị là sự ra đời của Công ước La Haye 1899 (còn được gọi là Công ước La
Haye I). Công ước La Haye 1899 được ký kết vào ngày 29/07/1899 và bắt đầu có
hiệu lực từ ngày 04/09/1900. Nội dung cơ bản của Công ước La Haye năm 1899 tập
trung vào vấn đề giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. Một
trong những nội dung cơ bản của Công ước là quy định về việc thành lập Tòa trọng
tài thường trực với tư cách là một thiết chế quốc tế giúp các quốc gia có tranh chấp
có thể giải quyết các tranh chấp của mình theo phương pháp hòa bình[48]. Trên cơ
sở của Công ước La Haye 1899, Tòa trọng tài thường trực đã được thành lập vào
năm 1900, có trụ sở chính tại cung điện Hòa Bình, thành phố La Haye của Hà Lan.
Tòa trọng tài thường trực La Haye (PCA) bắt đầu đi vào hoạt động từ năm
1902, tuy nhiên, một thời gian sau đó quy chế hoạt động của Tòa trọng tài đã bắt
đầu bộc lộ nhiều hạn chế cần phải điều chỉnh. Xuất phát từ yêu cầu này, Hội nghị
hòa bình thế giới lần 2 đã được nhóm họp tại La Haye từ ngày 15 đến ngày
18/10/1907, kết quả hội nghị đã ký kết Công ước La Haye 1907 (còn gọi là Công
ước La Haye II). Công ước La Haye 1907 sửa đổi một số nội dung của Công ước La
Haye 1899 đồng thời cũng bổ sung rất nhiều nội dung mới so với Công ước La
Haye 1899[48]. Công ước La Haye 1907 chủ yếu tập trung quy định cụ thể về thủ
tục tố tụng trọng tài, đặc biệt là những quy định về thẩm quyền của Tòa trọng tài
thường trực (Điều 43); trình tự, thủ tục chọn Trọng tài viên (Điều 44 – Điều 46); và
quan trọng nhất là trình tự, thủ tục để Tòa trọng tài giải quyết một tranh chấp cụ thể
(Điều 51 – Điều 85), bổ sung thêm thủ tục tố tụng trọng tài rút gọn (Điều 86 – Điều
90). Những quy định của Công ước La Haye đã góp phần hoàn thiện quy chế tổ
chức và hoạt động của PCA, góp phần quan trọng vào sự phát triển của PCA ở
những giai đoạn sau này [12].
6
1.1.2.2. Quá trình phát triển của PCA
a. Giai đoạn trước năm 1980
Trong thời gian giữa hai Hội nghị hòa bình (1900-1907), PCA chưa có nhiều
đóng góp trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế, vai trò của PCA chưa được
thể hiện tương xứng với những gì các quốc gia mong muốn khi thành lập, số lượng
thành viên của Tòa cũng không thay đổi nhiều so với lúc mới thành lập. Nguyên
nhân là quy chế hoạt động của Tòa chưa thật sự phù hợp, nhiều quốc gia cũng chưa
có thói quen sử dụng Tòa trọng tài như một cách thức giải quyết các tranh chấp,
mâu thuẫn và quan trọng nhất, phần lớn các quốc gia trên thế giới giai đoạn này đều
là thuộc địa phụ thuộc vào các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu, chỉ có một số nước ở
các châu lục khác giữ được chủ quyền của quốc gia mình (Nhật Bản, Thái Lan,...).
Sau Hội nghị hòa bình lần 2 (1907) quy chế hoạt động, thủ tục tố tụng của
PCA đã được hoàn thiện hơn, cơ chế hoạt động của Tòa cũng hiệu quả hơn. Chính
vì vậy, PCA đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong việc thực hiện chức năng
giải quyết các tranh chấp quốc tế. Số lượng thành viên là 42 (trong đó chủ yếu gia
nhập sau Hội nghị hòa bình lần 2 năm 1907). Phân bố theo châu lục: châu Âu có 18
quốc gia, châu Mỹ có 19 quốc gia, châu Á có 5 quốc gia, châu Phi và châu Đại
Dương không có quốc gia nào [19].
Giữa thập niên 30 của thế kỷ XX, những dấu hiệu của một cuộc chiến tranh
thế giới thứ hai ngày càng rõ ràng, các thiết chế quốc tế hiện có đã hoàn toàn bất lực
trong việc ngăn chặn cuộc chiến tranh này. Sau chiến tranh thế giới thứ hai (19391945) một lần nữa yêu cầu về một thiết chế quốc tế đủ khả năng ngăn chặn các mâu
thuẫn, xung đột giữa các quốc gia phát triển thành các cuộc chiến tranh ngày càng
trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Ngày 25/06/1945 Hiến chương Liên Hợp Quốc
được thông qua và bắt đầu có hiệu lực chính thức từ ngày 24/10/1945. Cùng với
việc thông qua Hiến chương Liên Hợp Quốc, quy chế của Tòa án công lý quốc tế
(International Court of Justice- ICJ) cũng được thông qua và Tòa án công lý quốc
tế, cơ quan tài phán chính của Liên Hợp Quốc đã được khai sinh, “mở ra một
chương mới trong lịch sử tài phán quốc tế” [8]. Ngày 05/02/1946 Đại hội đồng Liên
7
Hợp Quốc đã tiến hành bầu chọn các thẩm phán của Tòa án công lý quốc tế và Tòa
án chính thức đi vào hoạt động từ ngày 06/02/1946, trở thành cơ quan tài phán
chính của Liên Hợp Quốc cho đến ngày nay. Sau khi Tòa án công lý quốc tế đi vào
hoạt động, PCA vẫn tiếp tục tồn tại song song với Tòa án công lý quốc tế, tuy nhiên
những hoạt động của PCA cũng bị rơi vào trạng thái khủng hoảng, hoạt động cầm
chừng và gần như bị lãng quên, cụ thể trong suốt 40 năm kể từ sau chiến tranh thế
giới thứ II chỉ có một vụ việc trọng tài được đưa ra giải quyết tại PCA và bộ máy tổ
chức của PCA đã phải giảm xuống mức thấp nhất và ở một góc nhỏ của Cung điện
Hòa Bình - tòa nhà đươc xây dựng với tham vọng và sự mong đợi của ông Andrew
Carnegire rằng PCA sẽ phát triển lớn mạnh để sử dụng hết công năng của tòa nhà.
Mỗi năm, trong các cuộc họp của Hội đồng hành chính, các quốc gia thành viên của
PCA thảo luận rất nhiều làm sao để khắc phục sự thiếu vắng các vụ việc xong các
vụ việc vẫn không được đưa đến PCA[53].
b. Giai đoạn sau năm 1980
Dấu hiệu sự phục hồi đầu tiên của PCA bắt đầu vào những năm 80 của thế kỷ
20. Năm 1976, Ủy ban LHQ về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), đã thông qua
một bộ luật trọng tài phi nguyên tắc để sử dụng “trong việc giải quyết các tranh chấp
nảy sinh trong các mối quan hệ thương mại quốc tế, đặc biệt là các hợp đồng thương
mại”. Luật này còn quy định việc chỉ định trọng tài và quyết định phản đối trọng tài.
“Thẩm quyền chỉ định” được thiết lập bởi sự thoả thuận của các bên. Trong những
trường hợp mà các bên không thể thống nhất về việc lựa chọn thẩm quyền chỉ định,
thì cần thiết phải có một tổ chức quốc tế đáng tin cậy. Bởi vậy theo Điều 6 khoản 2 và
Điều 7 khoản 2b của uỷ ban LHQ về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL Rules):
“Nếu các bên không thống nhất được thẩm quyền chỉ định, hoặc nếu thống nhất được
nhưng người có thẩm quyền chỉ định từ chối; hoặc không thể chỉ định trọng tài… thì
một trong các bên có thể yêu cầu Tổng thư ký của PCA chỉ định”
Vào năm 1981 Tổng thư ký của PCA lần đầu tiên được yêu cầu bổ nhiệm
một thẩm quyền chỉ định, không phải cho một trọng tài thương mại, mà là Tòa án
theo yêu cầu của Iran và Mỹ. Kể từ năm 1981, gần 200 yêu cầu cho sự bổ nhiệm
8
một thẩm quyền chỉ định đã được đệ trình lên Tổng thư ký, phần lớn trong số đó là
từ giữa những năm 1990. Sự tăng lên này, cũng như sự gia tăng của các vụ việc
phức tạp, đã trực tiếp đưa PCA đến lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế. Tổng thư
ký ngày càng được yêu cầu giải quyết trực tiếp như thẩm quyền chỉ định, hơn là chỉ
đơn thuần bổ nhiệm tổ chức hoặc cá nhân khác.
Vào năm 1991, PCA đã triệu tập một nhóm những chuyên gia làm việc với
mục đích đưa ra những khuyến cáo để cải thiện chức năng của PCA. Kể từ đó, PCA
đã mở rộng và quốc tế hóa bộ phận nhân viên của mình, làm tăng thêm sự nhận thức
toàn cầu về khả năng và vai trò của PCA, thúc đẩy và hiện đại hóa chức năng của hệ
thống giải quyết tranh chấp căn bản bằng việc thông qua những nguyên tắc về thủ
tục mà hầu như dựa trên các quy tắc của UNCITRAL. PCA nhận thấy rằng, những
nguyên tắc của UNCITRAL đã phản ánh thực tiễn và nguyên tắc hoạt động được
thừa nhận trong văn hoá trọng tài trên toàn thế giới và sẽ quy định những thủ tục có
hiệu quả và công bằng trong việc hoà bình giải quyết các tranh chấp giữa các quốc
gia về việc giải thích, áp dụng, thực hiện điều ước và những thoả thuận khác mặc dù
những thủ tục này được dùng trong trọng tài thương mại.
c. Số lượng thành viên và số lượng vụ việc PCA đã và đang giải quyết
Đến nay, PCA có 115[29] quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên của một
hoặc cả hai công ước, phân bổ như sau: châu Âu có 38 quốc gia, châu Mỹ có 23
quốc gia; châu Á có có 30 quốc gia; châu Phi có 22 quốc gia, châu Đại Dương có 02
quốc gia [17]. Như vậy, các châu lục đều có quốc gia tham gia và gần như các nước
lớn trên thế giới đều đã là thành viên của Tòa trọng tài thường trực (Anh, Pháp, Mỹ,
Nga, Trung Quốc,...)
Số lượng các vụ việc PCA giải quyết qua từng thời kỳ cũng có nhiều biến
động. Giai đoạn trước năm 1946 PCA giải quyết 24 vụ việc (có 20 vụ việc giải
quyết sau Công ước La Haye 1907) trong đó có những vụ tranh chấp nổi tiếng như
vụ Nga kiện Thổ Nhĩ Kỳ về bồi thường thiệt hại (1912); vụ tịch biên Manouba và
Carthade giữa Pháp và Italia (1913); vụ tranh chấp giữa Hà Lan và Bồ Đào Nha đối
với biên giới trên đảo Timor (1914); vụ tranh chấp chủ quyền giữa Hà Lan với Mỹ
9
đối với đảo Palmas (1928). Các phán quyết của Tòa trọng tài thường trực La Haye
giai đoạn này đã góp phần giải thích một số nguyên tắc cơ bản trong giải quyết
tranh chấp về lãnh thổ, đặc biệt là tranh chấp về biển đảo (điển hình là vụ tranh chấp
chủ quyền giữa Hà Lan và Mỹ đối với đảo Palmas).
Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1999 là giai đoạn hoạt động rất trầm lắng
của PCA và chỉ có 10 vụ việc được đưa ra giải quyết tại PCA trong suốt thời gian
này, đặc biệt trong một thời gian dài từ năm 1946 đến năm 1986 chỉ có 1 vụ việc
trọng tài được đưa ra giải quyết tại PCA (tranh chấp liên quan đến Hợp đồng xây
dựng và các Bên tranh chấp không phải là quốc gia, năm 1966).
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay, PCA đã tiếp nhận giải quyết 152 vụ việc,
con số này cao hơn rất nhiều so với 34 vụ việc trong suốt 100 năm đầu kể từ khi
thành lập, trong đó có những vụ quan trọng liên quan đến tranh chấp lãnh thổ quốc
gia như vụ tranh chấp quần đảo Hanish giữa Eritrea và Yemen (năm 1998 và 1999);
vụ tranh chấp chủ quyền các đảo xung quan eo biển Malacca giữa Singapore và
Malaixia (năm 2003); vụ tranh chấp biên giới trên biển giữa Barbados và Trinidad
& Tobago (năm 2006); vụ việc tranh chấp liên quan đến phân định biên giới trên
biển giữa Guyana và Suriname năm 2004-2007; hiện tại PCA đang giải quyết theo
UNCLOS tranh chấp chủ quyền xung quanh quần đảo Chagos giữa Cộng hòa
Mauritius và Vương quốc Anh năm từ năm 2010; vụ tranh chấp liên quan đến ranh
giới trên biển giữa Cộng hòa Bangladesh và Ấn Độ từ năm 2009; tranh chấp lãnh
thổ trên biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc năm 2013. Ngoài ra Tòa trọng
tài còn tham gia nhiều vụ việc khác với tư cách là bên trung gian hòa giải, là cơ
quan đăng ký vụ việc,... Những vụ việc Tòa trọng tài giải quyết đã góp phần đáng
kể vào việc ngăn chặn các cuộc xung đột giữa các quốc gia, đặc biệt là tranh chấp
liên quan đến lãnh thổ. Các phán quyết của Tòa cũng góp phần đáng kể vào việc
giải thích pháp luật quốc tế, áp dụng vào từng trường hợp cụ thể, đặc biệt là các quy
định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS).
1.2. Cơ cấu tổ chức của PCA
Về cơ cấu tổ chức của PCA đã được quy định bởi Công ước La Haye 1899
10
và Công ước La Haye 1907. PCA không phải là một toà thực sự với các thẩm phán
thường trực. Đây thực tế chỉ là một danh sách các Trọng tài viên thường trực, có thể
được các quốc gia lựa chọn khi giải quyết các tranh chấp quốc tế sử dụng biện pháp
này. Cấu trúc của PCA gồm có 3 bộ phận chính gồm: Hội đồng hành chính, Thành
viên Tòa và Văn phòng quốc tế (hoặc Ban thư ký).
1.2.1. Hội đồng hành chính (Administrative Council)
Hội đồng hành chính là cơ quan chủ quản của PCA, bao gồm đại diện ngoại
giao tại La Hay của tất cả các quốc gia thành viên tham gia Hội nghị hòa bình năm
1899 và Hội nghị hòa bình năm 1907 và do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Lan làm
chủ tịch Hội đồng hành chính. Hội đồng hành chính nhóm họp mỗi năm hai lần tại
La Hay, đưa ra sự chỉ đạo chung cho công việc của PCA, giám sát và phê duyệt
ngân sách và chi tiêu của PCA. Tổng thư ký báo cáo thường niên với Hội đồng
hành chính về hoạt động của PCA.
1.2.2. Thành viên của Tòa (Members of the Court)
Các thành viên của Toà án lập một danh sách các Trọng tài viên, người mà
các bên tham gia tranh chấp có thể, nhưng không bắt buộc, chỉ định trong thủ tục tố
tụng trọng tài tại PCA, mỗi quốc gia thành viên của PCA có thể chỉ định tối đa bốn
Trọng tài viên với nhiệm kỳ sáu năm, Trọng tài viên được để cử phải là những cá
nhân có chuyên môn sâu về luật quốc tế, có kinh nghiệm, uy tín và luôn sẵn sàng
thực hiện các nhiệm vụ của một Trọng tài viên (Điều 44 Công ước La Haye 1907).
Mặc dù công ước quy định rằng các trọng tài phải được lựa chọn từ danh sách thành
viên (Điều 45 Công ước La Haye 1907), nhưng rõ ràng rằng, trong lịch sử của PCA,
các bên muốn có sự tự do để chỉ định trọng tài ngoài danh sách đó, (ngoài việc
thành lập một Hội đồng trọng tài, các thành viên của PCA từ mỗi nước ký kết có
quyền chỉ định một nhóm quốc gia, mà nhóm này có quyền cử các ứng viên vào
Tòa án công lý quốc tế của Liên Hợp Quốc (ICJ)).
Đến thời điểm ngày 31/12/2013, PCA quản lý danh sách gồm 360 trọng tài
đến từ 96 quốc gia[29], Việt Nam có 4 trọng tài được bổ nhiệm vào PCA tháng
9/2012 [Phụ lục].
11
1.2.3. Văn phòng quốc tế hoặc Ban Thư ký (International Bureau)
Văn phòng quốc tế hoặc Ban thư ký là cơ quan thương trực của PCA, có trụ sở
đóng tại Cung điện Hòa Bình ở La Haye. Văn phòng quốc tế đứng đầu là Tổng thư ký
và bao gồm một đội ngũ các chuyên viên pháp lý và hành chính giàu kinh nghiệm
đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Thông qua Văn phòng quốc tế, PCA cung cấp các
dịch vụ đăng ký và hỗ trợ hành chính cho Tòa án tại bất cứ nơi nào trên thế giới. Văn
phòng quốc tế duy trì danh sách những Trọng tài viên của PCA trên cơ sở sự đề cử
của các Quốc gia thành viên. Văn phòng quốc tế là kênh thông tin liên lạc chính thức
của PCA, nhận những thông báo trực tiếp gửi đến PCA (bao gồm những yêu cầu về
trọng tài), cung cấp các nguồn thông tin chính thức và bảo đảm sự an toàn của các tài
liệu trong trọng tài quốc tế và các thủ tục giải quyết các tranh chấp,... Ngôn ngữ chính
thức được sử dụng trong PCA là tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng các vụ kiện có thể
tiến hành bằng bất kỳ một ngôn ngữ nào được các bên đồng ý.
1.2.4. Cơ quan khác (Tòa)
PCA không hẳn là một cơ quan tài phán thường trực vì vậy không có một tòa
thực sự nào. Một Tòa án hoặc một bộ phận giải quyết các tranh chấp được thiết lập
theo từng vụ việc cụ thể được đệ trình, và phương pháp thành lập Tòa án sẽ dựa trên
Công ước La Haye 1899, Công ước La Haye 1907 và các văn bản ban hành sau đó.
1.2.5. Các văn kiện pháp lý cơ bản
- Công ước La Haye 1899 và Công ước La Haye 1907 tạo thành những văn
kiện cơ bản của PCA.
- Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết tranh chấp bằng
hình thức trọng tài giữa 2 quốc gia (1992).
- Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết tranh chấp bằng
hình thức trọng tài giữa 2 bên mà chỉ có một bên là quốc gia (1993).
- Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết bằng hình thức
trọng tài liên quan đến các tổ chức quốc tế và các quốc gia (1996).
- Những nguyên tắc không bắt buộc cho giải quyết bằng hình thức trọng tài
giữa các tổ chức quốc tế và các bên cá nhân (1996).
12
- Xem thêm -