Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tố tâm (hoàng ngọc phách) dưới góc nhìn thể loại (2016)...

Tài liệu Tố tâm (hoàng ngọc phách) dưới góc nhìn thể loại (2016)

.PDF
62
360
65

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== TRẦN THỊ PHẤN TỐ TÂM (HOÀNG NGỌC PHÁCH) DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lý luận văn học Người hướng dẫn khoa học TS. MAI THỊ HỒNG TUYẾT HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận với đề tài “Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) dưới góc nhìn thể loại”, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy suốt thời gian học tập, nghiên cứu và rèn luyện ở trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2. Tôi xin chân thành cảm ơn TS.Mai Thị Hồng Tuyết – người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện khóa luận này. Cuối cùng tôi xin được cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên cạnh, động viên, khuyến khích tôi trong suốt thời gian qua. Hà Nội, ngày tháng năm Người viết Trần Thị Phấn LỜI CAM ĐOAN Dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình của Ts. Mai Thị Hồng Tuyết, sau một thời gian cố gắng, tôi đã hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp: “Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) dưới góc nhìn thể loại”. Tôi xin cam đoan rằng số liệu nghiên cứu trong bài viết này là trung thực, không trùng lặp với các đề tài khác.Tôi cũng xin cam đoan rằng tất cả những thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được ghi rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày tháng năm Người viết Trần Thị Phấn MỤCLỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6 7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 6 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 7 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỂ LOẠI TIỂU THUYẾT ......... 7 1.1. Sự hình thành và phát triển của thể loại tiểu thuyết................................... 7 1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết .............................................................................. 7 1.1.2. Sự hình thành và phát triển của thể loại tiểu thuyết ................................ 8 1.2. Đặc trưng của thể loại tiểu thuyết ............................................................ 12 1.2.1. Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống “hiện tại” không ngừng biến đổi .......... 12 1.2.2. Chất văn xuôi của tiểu thuyết ................................................................ 13 1.2.3. Con người “đời tư”, “nếm trải” trong tiểu thuyết ................................. 14 1.2.4. Yếu tố “thừa” trong tiểu thuyết ............................................................. 16 1.2.5. Sự xóa bỏ “khoảng cách sử thi” trong tiểu thuyết ................................ 17 1.2.6. Khả năng tổng hợp của tiểu thuyết ....................................................... 17 1.3. Khái quát chung về tiểu thuyết hiện đại ở Việt Nam ............................... 18 1.3.1. Sự du nhập và phát triển của tiểu thuyết hiện đại ở Việt Nam ............. 18 1.3.2 Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ........................................ 19 1.3.3. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 ....................................... 21 1.3.4. Tiểu thuyết giai đoạn 1975 đến nay ...................................................... 22 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ LOẠI TRONG TỐ TÂM (HOÀNG NGỌC PHÁCH) ............................................................................. 24 2.1 Cuộc sống “đương đại” đang diễn ra trong tác phẩm ............................... 24 2.1.1 Bức tranh xã hội Việt Nam buổi giao thời ............................................ 24 2.1.2 Hiện thực chưa hoàn kết trong tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ............................................................................................................... 26 2.2 Cách tiếp cận con người trong Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách)……..29 2.2.1 Sự tiếp cận con người từ góc độ đời tư của Tố Tâm ............................. 29 2.2.1.1 Con người cá nhân chủ nghĩa trong Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách 29 2.2.1.2 Bức tranh ái tình trong Tố Tâm ........................................................... 32 2.2.2 Hình tượng con người nếm trải trong Tố Tâm ....................................... 35 2.2.2.1 Con người bị lưu đày trong cõi tình ái ................................................ 35 2.2.2.2 Con người xung đột giữ lí trí và tình cảm ........................................... 40 2.3 Sự xóa bỏ “khoảng cách sử thi” trong Tố Tâm ......................................... 43 2.4 Tiểu thuyết Tố Tâm dưới góc nhìn lịch sử ................................................ 45 2.4.1 Ngôn ngữ trong Tố Tâmchưa thoát li khỏi khuôn mẫu trung đại .......... 45 2.4.2 Tố Tâm - loa phát ngôn luân lí ............................................................... 47 2.4.3 Hiệu ứng xã hội của cuốn tiểu thuyết Tố Tâm đối với xã hội đương thời ......................................................................................................................... 49 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tiểu thuyết - sáng tạo và đổi mới, nó mang trong mình sự vận động liên tục cả về nội dung và nghệ thuật. Sự vận động ấy chuyển mình nhờ vào khả năng tìm tòi, sáng tạo của mỗi nhà văn. Nói cách khác đó là sự nhào nặn tư duy thụ cảm và thẩm mĩ của chủ thể sáng tạo trước hiện thực vốn có của cuộc sống. Bởi vậy, Bakhtin có lí khi nhận định: “Tiểu thuyết là một thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình” [20, tr.23]. Khám phá tiểu thuyết là sự nhìn nhận mang tính thời sự, độc đáo với nhiều phát hiện mới mẻ. “Tố Tâm” là tiểu thuyết đầu tay và duy nhất của Hoàng Ngọc Phách, xuất bản năm 1925. Cuốn tiểu thuyết được đánh giá là “trái chín bói đầu tiên của cả một mùa vụ hiện đại hóa…” [13, tr.5]. “Tố Tâm” mang đến hơi thở hiện đại cho bầu không khí văn học Việt Nam buổi giao thời. Tác phẩm là “hiện thân của một lựa chọn, một thái độ, một hướng thi hành cải cách xã hội và nhân tâm người Việt Nam trước các làn sóng Âu hóa về tư tưởng và lối sống”[13,tr.5]. Có thể nói, sự ra đời của “Tố Tâm” mang tính chất mở màn cho sự xuất hiện tiểu thuyết hiện đại ở Việt Nam. Tiếp cận tác phẩm từ góc nhìn thể loại là một hướng đi mới, hiệu quả trong văn học. Nó không những tạo nên cái nhìn sâu hơn về tác giả, tác phẩm mà còn cụ thể hóa đóng góp của họ về mặt thể loại. Hoàng Ngọc Phách với những cách tân độc đáo về thể loại kết tinh trong “Tố Tâm” đã mang đến một cái nhìn mới về tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Bộ mặt già nua của tiểu thuyếttrung đại với những khuôn mẫu, lề thói và chuẩn mực được thay thế bằng chân dung một người thiếu nữ hiện đại với những đường nét mềm mại, mới mẻ và tươi tắn. Xuất phát từ những phương diện trên, chúng tôi đi vào nghiên cứu đề 1 tài: “Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) dưới góc nhìn thể loại” để từ đó tìm hiểu, phân tích những đặc trưng cơ bản của thể loại tiểu thuyết. Đồng thời, khẳng định được tài năng của Hoàng Ngọc Phách, xứng đáng là “cây bút tiên phong” của trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam đầu thế kỉ XX. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tiểu thuyết “Tố Tâm”của Hoàng Ngọc Phách được viết năm 1922 và đến với công chúng năm 1925. Tác phẩm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đối với cả nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ.“Tố Tâm” truyền tải một cách độc đáo những giá trị đạo đức và luân lí của nhà văn đến với công chúng. Bởi lẽ ấy, “Tố Tâm” đã mang đến cho bạn đọc sự thích thú, tìm tòi và trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều tác giả. Cùng nhìn nhận dưới góc độ những đóng góp về đề tài, tư tưởng mới về tình yêu đôi lứa buổi giao thời, Hà Minh Đức (1988), “Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách”, Nxb ĐH và Trung cấp chuyên nghiệp Giáo dục chỉ rõ mối tình sâu đậm của Tố Tâm và Đạm Thủy trong mối tương quan với xã hội. Chuyện ái tình trong buổi giao thời, những con người tân tiến như Tố Tâm, Đạm Thủy vẫn chịu sự kiềm tỏa của chế độ phong kiến. Họ không dám vượt ra khỏi những khuôn phép đã trở thành chuẩn mực ấy. Dưới sự nhìn nhận, phân tích, đánh giá của Hà Minh Đức, Tố Tâm hiện lên là người phụ nữ nhất mực thủy chung trong tình yêu, là hạng người ít có và là con người tổng hòa giữa cái cũ và cái mới, Hà Minh Đức khẳng định: “Tố Tâm” là cuốn tiểu thuyết ái tình, có điểm tựa là cái tôi cá nhân. Qua tác phẩm, Hoàng Ngọc Phách đã tạo nên một bức tranh ái tình mới mẻ, sáng tạo với những gam màu đặc sắc từ kết cấu đến cách miêu tả tâm lí, tả tình, tả cảnh, tạo nên những nét độc đáo riêng cho thể loại tiểu thuyết. Bởi lẽ ấy, Hà Minh Đức cho rằng: “Tố Tâm” là tiểu thuyết đặt nền móng đầu tiên cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam thời kì mới. Tác giả Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng trong bài “Tiểu thuyết của Hoàng Ngọc 2 Phách: Tố Tâm”, Văn Học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930, Nxb GD, 1997, cũng đưa ra những nhận định xác đáng. Các tác giả cho rằng cốt lõi vấn đề trong tiểu thuyết là câu chuyện chân thực của cuộc sống của chính tác giả và xung quanh tác giả. Xung đột chính tạo nên bi kịch ái tình của Tố Tâm và Đạm Thủy là ở quan hệ đối lập giữa lí trí và tình cảm tồn tại song hành trong hai con người này. Nếu như Đạm Thủy yêu tha thiết Tố Tâm nhưng rồi cũng vì lời đính ước của gia đình với một cô gái khác mà bỏ nàng thì Tố Tâm dù yêu Đạm Thủy đêm ngày mong nhớ nhưng cũng chấp nhận lấy cậu Tú B. Xung đột tình yêu và lí trí tạo nên dạng thức nửa vời trong tình yêu, không dám đấu tranh cho cái gọi là tình yêu tự do. Trong tiểu thuyết “Tố Tâm” không phải không có ít nhiều cái cao thượng có tính chất truyền thống, song ở đây chủ yếu là cuộc sống bình thường, trần tục. Theo các tác giả, cái mới mà Hoàng Ngọc Phách tạo dựng được đó là việc khắc phục lối kết cấu chương hồi, đưa ra kết cấu mới theo quy luật tâm lí, nội tâm phong phú của nhân vật. Đồng thời tác giả khẳng định: “Tố Tâm chưa đạt tới một tiểu thuyết lãng mạn chủ nghĩa, song là cuốn tiểu thuyết mở ra con đường tiến tới chủ nghĩa lãng mạn của văn học Việt Nam”. Trong việc đánh giá về nhân vật trong tiểu thuyết “Tố Tâm”, hiện cũng có các công trình nghiên cứu khác nhau, đáng kể như: Đỗ Minh Thúy, “Cái tôi lãng mạn và nhân vật Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách”, Tạp chí Văn học số tháng 2, 1997, tr 69-72. Tác giả đã nhìn nhận Tố Tâm trong sự đổi mới, đó là những cách tân của tiểu thuyết mở đầu cho văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời, Đỗ Minh Thúy cũng phân tích tính chất giao thời của tác phẩm chuyển từ văn học trung đại sang văn học Việt Nam hiện đại. Đặc biệt, tác giả khảo sát về cái tôi lãng mạn, cái tôi được đặt giữa đời thường, mang diện mạo con người đời thường của nhân vật. Đây được xem là hướng đi tích cực cho sự cách tân thể loại tiểu thuyết. 3 Về sự sáng tạo, đổi mới của tác phẩm trên chặng đường phát triển của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam cũng được các tác giả tập trung nghiên cứu, như công trình của Trần Thị Trâm, “Bí quyết thành công của Hoàng Ngọc Phách”, Tạp chí Văn học số tháng 5, 1995, tr17-21. Tác giả đi sâu phân tích bí quyết thành công của Hoàng Ngọc Phách, giải quyết nỗi trăn trở của độc giả trên con đường lí giải tại sao tiểu thuyết ấy là tiểu thuyết đầu tiên của nền văn học hiện đại Việt Nam. Tác giả chỉ rõ những đổi mới táo bạo của Tố Tâm, đó là sự đổi mới quan niệm về hiện thực phản ánh, Hoàng ngọc Phách đã mở ra một cuộc cách mạng vào cõi thầm kín và tiếp cận thực tại từ góc độ đời tư. Đây là một đóng góp quan trọng về mặt thể loại cho tiểu thuyết hiện đại. Đồng thời, tác giả chỉ rõ sáng tạo của Hoàng Ngọc Phách, đó là việc đưa ra những quan niệm mới về tiểu thuyết và nét đạo đức mới cho nhân vật. Qua đó, bí quyết thành công của tác giả Tố Tâm được thể hiện một cách cụ thể và độc đáo. Tác giả Phong Lê trong bài viết “Tố Tâm với nền tiểu thuyết mới và với dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam” trên Tạp chí Văn Học số tháng 8, 1996, tr13-19, đã đề cập đến “Tố Tâm” trong sự sáng tạo cả về nội dung và hình thức. Trong Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách tiếp cận đời sống theo phương thức hướng nội, khám phá bề trong của đời sống tinh thần con người trong tình yêu. Bức tranh tiểu thuyết mới mẻ hiện diện, kết cấu theo dòng hồi tưởng nhân vật và một kết thúc biết trước. Tố Tâm mang đến một luồng tư tưởng mới về giải quyết những nhu cầu bức xúc xã hội. Đó là sự vượt thoát, giải phóng con người khỏi những kiềm tòa của tình cảm, lễ giáo phong kiến. Tác phẩm là ngọn lửa khởi nguồn của trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết “Tố Tâm” cũng được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau về đặc trưng thể loại trong các khóa luận tốt nghiệp như: “Tố Tâm với thể loại tiểu thuyết” của Lê Minh Huệ (2005); “Quan niệm nghệ thuật về con người từ 4 Tố Tâm đến Đoạn Tuyệt” của Nguyễn Văn Học; Luận văn thạc sĩ “Tiểu thuyết Tố Tâm trên con đường đi đến hiện đại tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam” của Nguyễn Thị Thu Hà. Qua đó, tác phẩm được phân tích trên nhiều phương diện từ vấn đề con người đến các yếu tố thể loại. Có thể nói, tiểu thuyết “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích trên nhiều phương diện. Ở mỗi phương diện lại có những đóng góp nhất định cả về nội dung và hình thức tác phẩm. Nói cách khác, trên con đường giải mã tác phẩm, các nhà nghiên cứu đã mở ra nhiềukí hiệu độc đáo của cuốn tiểu thuyết mang tính mở màn. Các yếu tố thể loại cũng phần nào được gợi mở và soi xét. Tuy nhiên chưa có đề tài nào tìm hiểu một cách cụ thể và toàn diện vềđặc trưng thể loại của cuốn tiểu thuyết, tức là đi sâu khám phá đóng góp về mặt thể loại tiểu thuyết của “Tố Tâm” cũng như những hạn chế của “trái chín bói đầu mùa” này. Trước yêu cầu về một sự tìm hiểu cụ thể và toàn diện những đóng góp thể loại của “Tố Tâm”, chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài “Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) dưới góc nhìn thể loại”. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu đặc trưng thể loại tiểu thuyết qua tác phẩm “Tố Tâm” của Song An Hoàng Ngọc Phách. 4. Mục đích nghiên cứu Qua việc khảo sát, phân tích tiểu thuyết “Tố Tâm” của Song An Hoàng Ngọc Phách dưới góc nhìn thể loại, khóa luận hướng tới mục đích:  Nghiên cứu một cách có hệ thống những đặc trưng cơ bản của thể loại tiểu thuyết.  Làm rõ hơn những giá trị của tác phẩm - một cuốn tiểu thuyết quan trọng nhưng ít được nghiên cứu.  Khẳng định tài năng, đóng góp của nhà văn đối với thể loại tiểu 5 thuyết nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. 5. Phương pháp nghiên cứu  Phương pháp phân tích, tổng hợp  Phương pháp so sánh  Phương pháp liên ngành 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận có những đóng góp cơ bản sau:  Khẳng định được những đặc trưng cơ bản của thể loại tiểu thuyết qua tác phẩm “Tố Tâm” của Song An Hoàng Ngọc Phách.  Thấy được giá trị tư tưởng, đạo đức luân lí đầy cách tân mà nhà văn muốn truyền tải đến độc giả.  Khẳng định tài năng, vị trí, vai trò của nhà văn trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. 7. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của khóa luận gồm hai chương: Chương 1: Khái quát chung về thể loại tiểu thuyết Chương 2: Một số vấn đề về thể loại trong “Tố Tâm” (Hoàng Ngọc Phách) 6 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỂ LOẠI TIỂU THUYẾT 1.1. Sự hình thành và phát triển của thể loại tiểu thuyết 1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết Tiểu thuyết là thể loại có cấu trúc đặc sắc và đa dạng. Nó truyền tải nội dung và tư duy nghệ thuật độc đáo. Xung quanh khái niệm tiểu thuyết có nhiều quan niệm khác nhau. Vì đây là một thể loại chưa định hình và đang vận động nên việc đưa ra một định nghĩa đầy đủ và hoàn chỉnh là điều khó khăn. Các nhà nghiên cứu dựa vào từng góc độ mà nhấn mạnh vào đặc điểm này hay đặc điểm kia của tiểu thuyết. Bởi lẽ ấy, cái nhìn về tiểu thuyết hiện lên đa diện và phong phú. Hêghen gọi tiểu thuyết là “sử thi tư sản hiện đại” và nhấn mạnh tính chất văn xuôi của tiểu thuyết. Trong sự nhìn nhận tương đồng, Banzắc xem “tiểu thuyết là những tấn bi kịch của xã hội tư sản”. Bêlinxki có sự nhìn nhận cụ thể hơn khi cho rằng: tiểu thuyết là sử thi của đời tư. Đồng thời đó là sự tái hiện thực tại với sự thực trần trụi của nó, là xây dựng bức tranh toàn vẹn, sinh động và thống nhất. Ông đã chỉ ra một cách khái quát nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách. Nhìn nhận trong sự đối sánh giữa tiểu thuyết với sử thi, M. Bakhtin đã khái quát vai trò và đặc điểm của thể loại tiểu thuyết. Ông nhấn mạnh thể loại là nhân vật chính của lịch sử văn học. Tiểu thuyết là thể loại quan trọng nhất, đang vận động biến đổi và chưa hoàn tất. Ở Việt Nam, khái niệm tiểu thuyết cũng được xây dựng từ nhiều phương diện khác nhau. Ngay từ buổi giao thời, trong các bài Bàn về tiểu 7 thuyết trên Nam phong tạp chí, Phạm Quỳnh khẳng định: “Tiểu thuyết là một loại truyện viết bằng văn xuôi, đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội hay những sự tích lạ đủ làm cho người ta có hứng thú”. Đồng quan điểm, Nguyễn Văn Chung trong “Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên” đề nghị hiểu tiểu thuyết theo lối Tây phương như là một thể văn xuôi, kể một câu chuyện, tuy là tưởng tượng nhưng phải dựa vào thực tế đời sống hàng ngày, có thể có thực và người đọc không thể dự đoán trước mọi diễn biến hay kết thúc của câu chuyện kể (nghĩa là truyện không nhất thiết phải có hậu). Bước sang thời hiện đại với những đổi mới về tư duy và nhận thức, khái niệm tiểu thuyết được đánh giá tương đối cụ thể, chính xác trong Từ điển Thuật ngữ Văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên. Các tác giả định nghĩa “tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cõ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian.Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính chất đa dạng” [7, tr.328] Có thể nói tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định. 1.1.2. Sự hình thành và phát triển của thể loại tiểu thuyết Tiểu thuyết được đánh giá là một “thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình” [20,tr.23]. Bởi lẽ ấy, sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết vẫn nằm trong tiến trình mang tính đương đại, gắn với cuộc sống thực tại đang diễn ra. 8 1.1.2.1. Sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết ở phương Đông Tên gọi “tiểu thuyết” xuất hiện trong thư tịch Trung Quốc từ rất sớm. Trong thiên Ngoại vật, Trang Tử đã nói đến tiểu thuyết như là những đạo lí vụn vặt trong sinh hoạt. Ban Cố đời Đông Hán (đầu thế kỉ I) trong “Nghệ văn chí” thì xem tiểu thuyết là những chuyện đơm đặt của hạng quan bé, những chuyện nghe được từ đầu đướng xó chợ. Nội dung đó khác xa với khái niệm tiểu thuyết ngày nay, nhưng có một điểm nổi bật đáng lưu tâm: “tiểu thuyết bắt đầu từ những sự việc trong sinh hoạt đời thường. Có việc mới có chuyện, có chuyện mới có người kể thành truyện, có truyện thì mới có tiểu thuyết”.Vào thời Ngụy - Tấn (thế kỉ III - IV) ở Trung Quốc, tiểu thuyết manh nha dưới dạng những tác phẩm chí quái, chí nhân. Bước sang thời kì thống trị của nhà Đường, tiểu thuyết khoác lên mình một tấm áo mới với sự xuất hiện của tiểu thuyết truyền kì. Đời Tống có thêm dạng thoại bản, tất cả những dạng thức ấy đều là tiền đề quan trọng cho sự xuất hiện của tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại. Bước sang giai đoạn Minh-Thanh, tiểu thuyết phát triển mạnh mẽ với nhiều tác phẩm tiểu thuyết chương hồi, nổi tiếng như: “Tam quốc chí” của La Quán Trung. Thời hiện đại, tiểu thuyết Trung Quốc vượt qua những thể loại truyền thống, vươn tầm ảnh hưởng đến các trào lưu văn học phương Tây đương thời. Đặc biệt với các sáng tác của Lỗ Tấn, Mạc Ngôn, Giả Bình Ao…. Đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, khái niệm tiểu thuyết hiện đại xuất hiện ở Trung Quốc, phân thành ba loại: tiểu thuyết trường thiên, trung thiên và đoản thiên. 1.1.2.2. Sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết ở phương Tây Ở phương Tây, về mặt nguồn gốc, có rất nhiều ý kiến khác nhau, nhiều ý kiến cho rằng tiểu thuyết ra đời ở châu Âu vào thời đại cuối cùng của nền nghệ thuật cổ đại Hi Lạp huy hoàng với các sáng tác văn xuôi cổ đại như Hêliôđo, Apulây… với cảm hứng chủ đạo về con người riêng lẻ, lần đầu tiên 9 số phận cá nhân được các nhà văn quan tâm. Trong thời đại anh hùng ấy, đây quả là một nét khám phá mới mẻ. Ở thời Phục Hưng, tiểu thuyết phát triển nở rộ với nhiều hướng đi mới.Mở đầu là truyện hiệp sĩ thời Trung cổ với những tác phẩm viết bằng tiếng Rôman (Rôman là tên gọi chung của nhiều ngôn ngữ ở phương Tây bấy giờ). Tác phẩm được viết với nội dung chính xoay quanh hai yếu tố chính là phiêu lưu và ái tình. Song song với những hình tượng kịch chứa đựng đầy lí tưởng nhân văn cao cả như Hămlet, Rômêô và Juliét (Sếchxpia), tiểu thuyết hiệp sĩ cũng xây dựng những hình tượng mang tính đa dạng về tính cách như chính bản thân sự phức tạp của đời sống xã hội. “Tiểu thuyết thời Phục hưng không chỉ dừng lại mô tả những chi tiết đời tư của “con người riêng lẻ” mà còn mở rộng phạm vi mô tả tới những bức tranh xã hội lớn với ý thức phê phán rõ rệt.” [5, tr.186]. Có thể nói thời Phục hưng đã tạo cơ sở thuận lợi cho sự phát triển của tiểu thuyết. Tiểu thuyết gắn mình với những tìm tòi tư tưởng triết lí như Đônkihôtê của Xécvantéc. Những giá trị hiện thực lớn lao được khẳng định, xây dựng được những tính cách và hoàn cảnh mang ý nghĩa điển hình. Tiểu thuyết đã tập trung trong sinh thể của nó những thiên tính vốn có về mặt thể loại, mở đường cho sự phát triển rực rỡ của tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XIX. Sau thời Phục hưng, khi văn học tao nhã là chủ đạo thì xu hướng phát triển tiểu thuyết chỉ bộc lộ rõ trong các sáng tác thuộc thể loại tiểu thuyết du đãng khai thác các đặc điểm trào phúng, sự hư cấu tự do, vai trò của kinh nghiệm cá nhân tác giả trong sáng tạo nghệ thuật. Sang thời đại khai sáng và cận đại, từ thế kỉ XVIII, tiểu thuyết đã đi một chặng đường dài với sự hình thành kết cấu chính. Sự phát triển tiểu thuyết hiện thực với đóng góp nổi bật của Banzắc. Thế kỉ XIX, với sự xuất hiện của các tên tuổi của Banzắc, Stăngđan, 10 Huygô, Flôbe, Tháckơrây, S.Brônti, Đôxtôiépxki, L.Tônxtôi…, đã tạo nên thời kì hoàng kim của tiểu thuyết phương Tây. Với các tác phẩm đã trở thành mẫu mực như “Tấn trò đời” (Banzắc), “Dòng họ Rugông Macsca” (Dôla), “Chiến tranh và hòa bình” (L.Tônxtôi)… Tiểu thuyết giai đoạn này không dừng lại ở sự phiêu lưu, thần kì, ở đó độc giả còn khám phá ra bản chất vô nhân đạo và những bất công ngang trái của xã hội đương thời. Đặc biệt với tài năng nghệ sĩ tuyệt vời, các nhà văn đã thể hiện rõ khả năng phân tích sâu sắc các mối quan hệ xã hội phức tạp, bút pháp tâm lí sâu sắc trong những phương pháp khắc họa tính cách. Hành trình phát triển của tiểu thuyết trở nên hấp dẫn và đặc sắc ở thế kỉ XX. Với sự ra đời của trào lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, các nhà tiểu thuyết mới lần lượt xuất hiện như: M.Gorki, A.Tônxtôi, Sôlôkhốp, Êrenbua… đã đóng góp cho nền văn học châu Âu và văn học nhân loại nhiều tác phẩm bất hủ. Trong các tác phẩm, nhà văn đã đăt vấn đề số phận cá nhân trong mối liên hệ với số phận giai cấp, nhân dân và dân tộc. Tiểu thuyết mang trong mình những tìm tòi mang ý nghĩa chân chính. Nó giống như một hơi thở mới lan tỏa trong từng sinh thể tiểu thuyết châu Âu hiện đại. Trong thế kỉ XX, tiểu thuyết phương Tây phát triển không theo một con đường thẳng, mà ở đó có sự đa dạng, đối lập nhau về nhiều mặt. Sự xuất hiện hướng sáng tác mới của M.Proust, J.Joyce, F.Kafka, sự thay đổi của một loạt các nguyên tắc tiểu thuyết truyền thống. Ở đó có sự sử dụng các nguyên tắc mới, độc đáo: độc thoại nội tâm bao trùm tác phẩm như là một thủ pháp của tiểu thuyết dòng ý thức; sự xáo trộn liên tục của các bình diện thời gian, không gian, các mảng đời sống hiện thực hòa quyện cùng huyền thoại, xuất hiện người kể chuyện không toàn năng khi trong lời kể có cái biết và cái không biết, cái khách quan lẫn chủ quan. Các vấn đề “ngôi” và “thời” của lời trần thuật và các “điểm nhìn trần thuật” trở thành chìa khóa cho viêc tìm hiểu 11 tiểu thuyết theo khuynh hướng phức điệu, đa thanh. Đồng thời, đó là sự xuất hiện của các trào lưu tư tưởng đương thời như: hiện tượng học, thuyết phi lý, chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, chủ nghĩa hậu hiện đại, phê bình nữ quyền, hậu thực dân… cũng góp phần tạo nên những dạng thức phản tiểu thuyết, tiểu thuyết mới, hoặc làm nảy sinh tư tưởng về cái chết của tác giả và tiểu thuyết cáo chung. Trong tiến trình lịch sử, tiểu thuyết vẫn là một thể loại văn học đang vận động và phát triển. Tiểu thuyết phản ánh hiện tại, bởi lẽ ấy nó không lúc nào ngừng biến đổi. Đồng thời, sự ra đời của tiểu thuyết có vai trò quan trọng trong việc thể hiện giá trị tư tưởng trác tuyệt của nhân loại gắn với những tác phẩm của những nhà văn vĩ đại. 1.2. Đặc trưng của thể loại tiểu thuyết 1.2.1. Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống “hiện tại” không ngừng biến đổi Trong dòng chảy của lịch sử, tiểu thuyết là loại hình đương đại, nó hình thành trong mình những đặc trưng riêng có của thể loại. Theo nhà nghiên cứu văn học Nga M.Bakhtin, nếu sử thi thể hiện quá khứ anh hùng dân tộc mà cơ sở là kí ức cộng đồng truyền thống thì tiểu thuyết miêu tả cuộc sống “hiện tại” không ngừng biến đổi, sinh thành trên cơ sở kinh nghiệm cá nhân. Chính bởi nét đặc trưng ấy mà đối tượng của sử thi là những con người quá khứ, tồn tại trong sự kính trọng và tôn thờ của thế hệ sau. Còn đối tượng của tiểu thuyết lại là những con người hiện tại, đi ra từ cuộc sống đương đại. Đó là những con người bình thường trong cuộc sống, là bạn bè, hàng xóm… Cuộc sống trong những thành phố nhộn nhịp hay dòng đời của những con người sau lũy tre làng. Viết về những con người quá khứ, những người anh hùng mà giữa người kể với nhân vật sử thi luôn tồn tại một bức tường vô hình không thể nào vượt qua. “Khoảng cách sử thi” chính là kết quả được tạo dựng bởi đối tượng mà sử thi hướng đến. Ở tiểu thuyết, khoảng cách ấy được xóa 12 bỏ. Điều đó cho phép nhà văn dùng kinh nghiệm cá nhân của mình để lí giải nhân vật, dùng con mắt suồng sã, gần gũi để đắm mình cùng nhân vật. Tiểu thuyết đi ra từ cuộc sống hiện tại, không ngừng biến đổi, đặc biệt nó trưởng thành từ kinh nghiệm cá nhân. Khám phá và phản ánh để tạo nên những bức tranh đa diện về cuộc sống đương đại. Bởi lẽ ấy, các nhà tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XVIII - XIX có lí khi cho rằng: “nhân vật tiểu thuyết không nên là “anh hùng” trong cái nghĩa sử thi và bi kịch của từ đó, mà nên thống nhất trong bản thân các nét vừa chính diện vừa phản diện, vừa tầm thường vừa cao cả, vừa buồn cười vừa nghiêm túc”. Có thể nói, tiểu thuyết miêu tả cuộc sống “hiện tại” không ngừng biến đổi là cơ sở tạo nên đặc trưng của nhân vật tiểu thuyết. Nó tạo nên sự khác biệt về mặt thể loại để phân biệt tiểu thuyết với các loại hình tự sự khác trong quá trình “tiểu thuyết hóa”. 1.2.2. Chất văn xuôi của tiểu thuyết Theo quan điểm của M.Bakhtin, tiểu thuyết khác với truyện thơ, trường ca, thơ trường thiên và sử thi là ở chất văn xuôi. Nói cách khác, đây là nét tiêu biểu để tạo nên đặc trưng về thể loại của tiểu thuyết. “Chất văn xuôi” được nhìn nhận là một sự tái hiện cuộc sống với những chi tiết giống như thật, không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tưởng hóa. Chính chất văn xuôi làm cho tiểu thuyết có khả năng miêu tả cuộc sống giống như một thực tại cùng thời đang sinh thành, cuộc sống được thể hiện ở sự chi tiết, như thật. Bởi lẽ ấy mà W.Booth thật đúng khi cho rằng, ở tiểu thuyết, điều quan trọng không chỉ là kể mà là làm cho sự sống hiển hiện để người đọc tự cảm thấy. Mọi yếu tố thi vị, chất thơ không được tiểu thuyết hấp thụ. Ở tiểu thuyết, người ta bắt gặp cái ngổn ngang, bề bộn của cuộc đời, bao gồm mọi mặt mĩ học, bao gồm cái cao cả lẫn cái tầm thường, cái nghiêm túc và cái buồn cười, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ…. 13 Chất văn xuôi làm cho tiểu thuyết thể hiện được thế mạnh của mình trong miêu tả tâm lí nhân vật, tìm tòi và phát hiện những biến thái tinh vi của tâm hồn con người. Có thể nói, trong quỹ đạo của văn học hiện đại, các thể loại khác có thể bị “tiểu thuyết hóa” và dung nạp ít nhiều chất văn xuôi nhưng không thể trở thành một đặc trưng tiêu biểu như ở tiểu thuyết. Chất văn xuôi thểhiện rất đậm trong tiểu thuyết của Balzac, Dostoevski, Chekhov, Solokhop, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… Chất văn xuôi đã mở ra một “vùng tiếp xúc tối đa” vào thời hiện tại đang sinh thành làm cho tiểu thuyết phát huy tối đa khả năng truyền tải nội dung phản ánh của mình. 1.2.3. Con người “đời tư”, “nếm trải” trong tiểu thuyết 1.2.3.1. Con người “đời tư” trong tiểu thuyết Bêlinxki từng nói: “tiểu thuyết là sử thi của đời tư”. Tiểu thuyết không dừng lại ở sự phản ánh đời sống quy mô lớn, vượt qua giới hạn không gian, thời gian, tiểu thuyết còn nhìn nhận cuộc sống từ góc độ đời tư. Đó là những góc khuất ẩn dấu trong cá nhân con người, những giọt nước mắt hạnh phúc, cũng có thể là nụ cười cay đắng trước số phận cá nhân. Sử thi đi vào những vấn đề trọng đại, ngợi ca những con người anh hùng, siêu phàm thì tiểu thuyết giữ trọn vẹn chất đời thường trong bản thể của mình. Mỗi con người, cá nhân trong tiểu thuyết lại vẽ lên một bức tranh độc đáo về chính cuộc đời mình. Những mảnh ghép cuộc đời của mỗi nhân vật được nhà văn khám phá, phản ánh cụ thể. Những khoảnh khắc đời tư được san sẻ, những bước thăng trầm của cuộc sống được thể hiện. Đó là Anđrây, Natasa, Pie, Mary (Chiến tranh và hòa bình-L.Tônxtôi); Grigôri, Acxênhia (Sông Đông êm đềm - Sôlôkhốp); Kiên, Phương (Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh). Chính cái nhìn đời tư khiến tiểu thuyết có đủ năng lực để đi sâu vào những phần nhân tính, nhân bản với những cảm xúc, tình cảm, tư tưởng thầm kín hòa quyện vào nhau. Bakhtin cho rằng: “Nhân vật tiểu thuyết không nên là 14 “anh hùng” trong cái nghĩa sử thi và bi kịch của từ đó, mà nên thống nhất trong bản thân các nét vừa chính diện vừa phản diện, vừa tầm thường, vừa cao cả, vừa buồn cười, vừa nghiêm túc.” [20, tr.453]. Dòng chảy lịch sử văn học cho thấy chất đời tư và tiểu thuyết cũng như chất sử thi và lịch sử luôn đồng thuận với nhau. Nói khác đi, chất đời tư là nguồn nhựa sống tạo nên nhịp đập của tiểu thuyết, tạo nên nét đặc trưng riêng có ở thể loại văn học này. 1.2.3.2. Con người “nếm trải” trong tiểu thuyết Nhân vật trong tiểu thuyết khác với nhân vật trong sử thi, nhân vật kịch, nhân vật truyện trung đại là ở chỗ nhân vật tiểu thuyết là “con người nếm trải”. Nói cách khác hình tượng “con người nếm trải” là đặc trưng tiêu biểu khi bàn về nhân vật trong tiểu thuyết. Nhân vật tiểu thuyết bên cạnh là con người hành động còn xuất hiện với tư cách là con người nếm trải, cảm nhận, tư duy, chịu khổ đau dằn vặt ở đời. Tiểu thuyết tái hiện con người trong hoàn cảnh, không cường điệu sức mạnh, tách nó khỏi hoàn cảnh. Nhân vật được hoàn thiện như một người trưởng thành, biến đổi và do đời dạy bảo. Nó hứng chịu mọi cơn bão táp của cuộc đời. Đó là Thứ, Oanh, San trong “Sống Mòn” của Nam Cao; Nghị Hách, Long, Mịch, Tú Anh trong “Giông Tố” của Vũ Trọng Phụng… Sự nếm trải, tư duy đều hiện hữu trong mỗi nhân vật. M.Bakhtin có lí khi cho rằng nhân vật tiểu thuyết là “con người trong con người”, “con người không trùng khít với chính nó”. Nếu như trong sử thi con người có địa vị như thế nào thì hành động phù hợp với cương vị của mình. Trong tiểu thuyết không có sự trùng khít ấy, nhân cách con người được thể hiện phức tạp hơn. Người có địa vị cao lại có hành động ti tiện, còn những người ở tầng đáy của xã hội thì có những hành động cao thượng. Bởi lẽ ấy, tiểu thuyết len lỏi vào đời sống tâm hồn con người để phát hiện ra những giới hạn tốt - xấu, cao cả - thấp hèn. Việc miêu tả thế giới bên trong, phân tích tâm 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan