Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành – thực trạng v...

Tài liệu Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành – thực trạng và phương hướng hoàn thiện.

.DOC
11
239
102

Mô tả:

A.PHẦN MỞ BÀI: Tòa án nhân dân (TAND) là một trong bốn hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước, là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp. Thực hiện chức năng nhiệm vụ quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Việc tìm hiểu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành là rất cần thiết. Bài viết dưới dây xin trình bày về Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện. B.PHẦN THÂN BÀI: I. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH: 1.Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân (TAND) theo quy định của Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và các văn bản pháp luật liên quan: Trên cơ sở kế thừa những yếu tố tích cực hợp lý về tổ chức và hoạt động của TAND đã được quy định trong các bản hiến pháp 1946, 1959, 1980 và xuất phát từ thực tiễn của đất nước Hiến pháp 1992 đã quy định một số nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của TAND trong đó có những điểm đổi mới rất rõ nét. Trên cơ sở những quy định của Hiến pháp 1992, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức TAND 1992, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Tổ chức TAQS, Pháp lệnh về Thẩm phán và hội thẩm TAND. Theo quy định tại điều 127 Hiến pháp 1992 và Điều 2 Luật tổ chức TAND 1992 thì TAND được xác định là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam. Hệ thống Tòa án theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức TAND 1992 bao gồm TANDTC, các TAND địa phương, các TAQS và các Tòa án khác theo luật định, trong trường hợp đặc biệt Quốc hội có thể thành lập Tòa án đặc biệt. Hiến pháp 1992 tiếp tục kế thừa 1 số nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án như: Việc xét xử ở các TAND phải có hội thẩm tham gia; Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán; khi xét xử TAND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật….thì nguyên tắc bầu Thẩm phán theo quy định trong các Hiến pháp 1959, 1980 được thay thế bằng nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán. Như vậy, so với các bản Hiến pháp trước, có thể thấy, hệ thống cơ quan Tòa án vẫn được giữ nguyên như cũ nhưng điểm khác biệt là Hiến pháp 1992 quy định khả năng thành lập them các Tòa án khác. Điều này bảo đảm khả năng thành lập các Tòa án trong những trường hợp cần thiết để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội. Trong thực tế các Tòa kinh tế, hành chính, lao động được thành lập trong cơ cấu của TAND cấp tỉnh và TANDTC. 2.Tổ chức và hoạt động của TAND theo quy định của Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 và Luật Tổ chức TAND 2002: Đứng trước yêu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, tại kỳ họp thứ X của Quốc hội khóa X, Quốc hội thông qua nghị quyết 51/2001/QH ngày 25/12/2001 sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992, và tại kỳ họp thứ XI Quốc hội khóa X đã ban hành luật Tổ chức TAND năm 2002 ngày 02/04/2002. 2.1. Về hệ thống TAND: Về cơ bản hệ thống TAND theo Hiến pháp sửa đổi bổ sung 2001 và Luật tổ chức TAND 2002 không có gì thay đổi so với Hiến pháp và Luật tổ chức TAND 1992 bao gồm: TANDTC các TAND địa phương, các TAQS và các Tòa án khác theo luật định, trong trường hợp đặc biệt Quốc hội có thể thành lập Tòa án đặc biệt. 2.2.Nguyên tắc tổ chức và hoạt động: Tòa án là một bộ phận cấu thành Bộ máy nhà nước vì vậy tổ chức và hoạt động của Tòa án cũng phải tuân theo nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước. Nhưng xuất phát từ chức năng đặc thù của Tòa án là xét xử nên tổ chức và hoạt động của Tòa án còn phải tuân theo các nguyên tắc đặc thù: Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán, bầu hoặc cử Hội thẩm ( Điều 128 Hiến pháp, Điều 3 Luật Tổ chức TAND) Nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán ( Điều 129 Hiến pháp, Điều 4 Luật Tổ chức TAND) Nguyên tắc TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số ( Điều 31 Hiến pháp, Điều 6 Luật Tổ chức TAND) Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai trừ trường hợp Luật định ( Điều 7 Luật Tổ chức TAND và Điều 31 Hiến pháp) Nguyên tắc TAND chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ( Điều 135 Hiến pháp và Điều 16 Luật Tổ chức TAND) Nguyên tắc TAND thực hiện chế độ 2 cấp xét xử ( Điều 11 Luật Tổ chức TAND). 2.3.Về cơ cấu tổ chức: - Cơ cấu tổ chức của TANDTC: bao gồm Hội đồng Thẩm phán ( Bao gồm Chánh án, phó Chánh án và một số Thẩm phán do UBTV Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án TANDTC nhưng tổng số Ủy viên Hội đồng thẩm phán không quá 17 người và các tòa chuyên trách: TAQS trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính và các Tòa phúc thẩm và bộ máy giúp việc của TANDTC ( Văn phòng, Viện khoa học xét xử, Vụ tổ chức cán bộ, Ban thanh tra, Ban thư ký…..) trong trường hợp cần thiết UBTV Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TANDTC ( Điều 18 Luật tổ chức TAND năm 2002). Về thành phần, TANDTC có: Chánh án, phó Chánh án, các Thẩm phán, Thư ký tòa án. Chánh án TANDTC do Quốc hội bầu ( theo nhiệm kỳ Quốc hội), miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Các phó chánh án và Thẩm phán TANDTC do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức ( Điều 40 Luật Tổ chức TAND). Nhiệm kỳ của các phó Chánh án và Thẩm phán TANDTC là 5 năm kể từ ngày bổ nhiệm. Ngoài ra để phục vụ hoạt động xét xử của Tòa án trong cơ cấu của TAND còn có Thư ký tòa án, Thẩm tra viên, Nghiên cứu viên, và các công chức khác làm việc ở các bộ phận giúp việc cho TANDTC. - Cơ cấu tổ chức TAND cấp Tỉnh: Theo Luật tổ chức TANDTC năm 2002 cơ cấu tổ chức của TAND cấp Tỉnh gồm: Ủy ban Thẩm phán ( bao gồm Chánh án, phó Chánh án và một số Thẩm phán, nhưng không quá 9 người), các Tòa chuyên trách, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính và bộ máy giúp việc, khi cần thiết Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể thành lập các Tòa chuyên trách khác thuộc TAND cấp tỉnh, theo đề nghị của Chánh án TANDTC ( Điều 27 Luật Tổ chức TAND). Về thành phần TAND cấp tỉnh có Chánh án, các phó Chánh án, thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án. Kể từ ngày 01/10/2002 Chánh án TANDTC bổ nhiệm miễn nhiệm cách chức Thẩm phán TAND cấp tỉnh theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán tỉnh. Chánh án, phó Chánh án TAND cấp tỉnh do Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân địa phương. Nhiệm kỳ của Chánh án, phó Chánh án, Thẩm phán TAND cấp tỉnh là 5 năm. Hội thẩm nhân dân của TAND cấp tỉnh do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án TAND cấp tỉnh sau khi thống nhất với Ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân, TAND cấp tỉnh theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. - Cơ cấu tổ chức của TAND cấp huyện bao gồm: Chánh án các phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và thư ký Tòa án. Theo luật Tổ chức TAND năm 2002 thì Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND cấp huyện theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Chánh án, các phó Chánh án, TAND cấp huyện do Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, sau khi thống nhất với thường trực Hội đồng nhân dân địa phương. Nhiệm kỳ của Chánh án, phó Chánh án, Thẩm phán là 5 năm kể từ ngày được bổ nhiệm. Các Hội thẩm nhân dân của TAND cấp huyện do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra theo sự giới thiệu của Ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án, TAND cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp - Cơ cấu của TAQS các cấp bao gồm: TAQS trung ương, TAQS quân khu và tương đương và các TAQS khu vực. Thẩm phán TAQS trung ương là Thẩm phán TANDTC. Chánh án, phó Chánh án TAQS trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. TAQS quân khu và TAQS khu vực có Chánh án, phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký tòa án. Chánh án phó Chánh án TAQS quân khu, TAQS khu vực do Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Bộ quốc phòng. II. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HIỆN NAY: 1. Thực trạng về tổ chức của TAND hiện nay: Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo cơ chế tập quyền, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, TAND là một hệ thống cơ quan nhà nước trong Bộ máy nhà nước, có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động….và giải quyết những vụ việc khác nhau theo quy định của pháp luật. Để thực hiện chức năng đó, hệ thống Tòa án được thành lập theo đơn vị hành chính lãnh thổ bao gồm: ở trung ương có TANDTC, ở địa phương có các TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện. Ngoài ra, còn có các TAQS được tổ chức trong quân đội để xét xử những vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập các Tòa an đặc biệt. Trên phạm vi toàn quốc, hiện nay có 742 Tòa án nhân dân, bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 678 Tòa án nhân dân cấp huyện ( không tính các Tòa án quân sự). Nếu xét theo thẩm quyền xét xử, hệ thống Tòa án nhân dân có thể phân thành 741 Tòa an cấp sơ thẩm ( bao gồm 678 Tòa án cấp huyện và 63 Tòa án cấp tỉnh), 66 Tòa cấp phúc thẩm ( bao gồm 63 tòa phúc thẩm cấp tỉnh và 3 tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao), 69 cơ quan xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm ( bao gồm 63 Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, 5 Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao). Về cơ sở vật chất của các Tòa án. Do trong thời gian dài không được quan tâm đúng mức và do tình hình chia tách địa giới hành chính, cấp tỉnh, cấp huyện trong hơn 10 năm qua nên hiện nay trụ sở làm việc và hội trường xét xử của nhiều Tòa án, nhất là ở cấp huyện còn thiếu thốn, chật chội, thậm chí có đơn vị vẫn chưa được cấp đất để xây dựng trụ sở mà phải thuê nơi làm việc và phòng xét xử. Bên cạnh đó, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách đối với Tòa án được cấp như định mức đối với cơ quan hành chính sự nghiệp là chưa thực sự phù hợp với tính chất đặc thù của công tác xét xử, từ đó làm hạn chế không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của các Tòa án. Có thể thấy rằng, việc tổ chức hệ thống Tòa án theo đơn vị hành chính như hiện nay sẽ duy trì và đảm bảo được tính thống nhất trong hệ thống tổ chức Bộ máy nhà nước, mối quan hệ hữu cơ với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác như Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, tránh được sự xáo trộn lớn về nhiều mặt như tổ chức, biên chế cán bộ, điều kiện vật chất không chỉ cho Tòa án mà cho cả các cơ quan nhà nước khác có lien quan như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, thuận lợi cho nhà nước thực hiện chức năng quản lý. Hơn nữa mô hình này còn đảm bảo sự lãnh đạo thông suốt của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động xét xử của Tòa án, kế thừa và phát huy được những kinh nghiệm truyền thống về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp trong mấy chục năm qua. Tuy nhiên, mô hình tổ chức Tòa án hiện nay đã bộc lộ những hạn chế nhất sau: Thứ nhất, với quy định tổ chức hệ thống tòa án từ trung ương đến địa phương thành ba cấp, trải đều trên tất cả các đơn vị hành chính từ trung ương đến cấp huyện của đất nước làm cho hệ thống TAND rất “ đồ sộ “ với biên chế hang ngàn Thẩm phán. Hiện nay, số lượng các Tòa án còn tương đối nhiều ( 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 678 Tòa án nhân dân cấp huyện). Tương ứng sẽ phải có bằng ấy trụ sở làm việc cùng phương tiện, trang thiết bị cần thiết khác. Hàng năm, Nhà nước còn phải bỏ ra một nguồn kinh phí không nhỏ để sửa chữa, xây mới và duy trì cơ sở vật chất đó. Mặt khác, với việc có quá nhiều các Tòa án ( nhất là cấp huyện) như hiện nay thì sẽ khó có thể tập trung đầu tư về kinh phí nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi, cần thiết cho việc xét xử của Tòa án như trụ sở cơ quan, phòng làm việc, phòng xử án, các trang thiết bị phục vụ xét xử. Nhất là sẽ có sự dàn trải trong việc đầu tư vào phát triển nhân lực, đào tạo cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, chuyên sâu của Thẩm phán. Thứ hai, do được tổ chức theo đơn vị hành chính nên TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện được coi là các TAND địa phương, nên địa vị pháp lý của những Tòa án cấp này chưa được xác định một cách chính xác, hợp lý và phù hợp với vai trò, vị trí của Tòa án trong hệ thống Bộ máy nhà nước. Cụ thể, TAND cấp tỉnh được xác định giống như một cơ quan cấp sở của tỉnh, TAND cấp huyện được xem như một cơ quan cấp phòng của huyện. Do đó, việc xử lý, giải quyết các vấn đề có lien quan đến tổ chức của các Tòa án còn chưa thực sự thỏa đáng . Chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, Thẩm phán Tóa án các cấp được quy định như các ngạch cán bộ, công chức hành chính nhà nước khác là không đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử và không tương ứng với vị trí, vai trò và tính chất hoạt động quan trọng của cơ quan Tòa án trong Bộ máy nhà nước. Hiện tại, việc xây dựng, kiện toàn, bổ sung đội ngũ cán bộ và việc cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các Tòa án gặp nhiều khó khan. Thứ ba, trong cơ cấu tổ chức của TANDTC, mặc dù đã bỏ bớt thiết chế Ủy ban thẩm phán nhưng hiện tại vẫn tồn tại ba tòa phúc thẩm. Điều này không phù hợp với chủ trương, đường lối đã đề ra tại các Nghị quyết số 08, 48, 49 của Bộ chính trị trong đó xác định hướng đổi mới là TANDTC không xét xử mà tập trung vào công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngoài ra, nếu để thiết chế này trong cơ cấu tổ chức của TANDTC sẽ dấn đến tình trạng TANDTC lại có thể xét lại ngay chính bản án, quyết định của mình. Thứ tư, do các Tòa án địa phương được tổ chức theo đơn vị hành chính, chịu sự lãnh đạo của cấp ủy và sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp nên thực tế cho thấy, nơi nào cấp ủy và Hội đồng nhân dân quan tâm theo hướng tích cực và đúng quy định của pháp luật đến công tác tư pháp thì Tòa án nơi đó có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện nhiệm vụ xét xử được giao. Ngược lại, nơi nào cấp ủy, Hội đồng nhân dân không quan tâm đúng mức tới công tác Tòa án hoặc để xảy ra tình trạng buông lỏng sự chỉ đạo, giám sát hay can thiệp quá sâu vào việc xét xử của Tòa án thì hoạt động của Tòa án gặp nhiều khó khan, phức tạp. Thứ năm, Với nguồn nhân lực có hạn (hiện nay với 678 TAND cấp huyện có 7550/7822 người, trong đó có 3250/3690 Thẩm phán, số lượng thẩm phán của TAND cấp huyện thiếu rất nhiều so với biên chế đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội phê duyệt năm 2004), việc phải bố trí biên chế cho đầy đủ tại các Tòa án hiện nay nhưng không sử dụng hết và thường xuyên nguồn nhân lực này ở địa phương (nơi có ít án) sẽ là sự lãng phí lớn trong khi chất lượng công tác xét xử không được cải thiện và nâng cao cho phù hợp với yêu cầu thực thiễn của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và nhà nước đã đề ra. 2. Thực trạng về hoạt động của TAND hiện nay: 2.1. Về thẩm quyền và hoạt động của TAND: Từ việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của TAND (đã được đề cập tại chương I) và thực tiễn thực hiện các quy định trong hoạt động xét xử của các cấp Tòa án hiện nay có thể thấy, việc phân định thẩm quyền của TAND có một số ưu điểm sau: việc phân định thẩm quyền của TAND được dựa trên các căn cứ có tính khoa học, hạn chế những quy định chỉ dựa theo ý chí chủ quan của làm luật; phù hợp với trình độ chuyên môn cũng như các điều kiện khác về tổ chức, con người và cơ sở vật chất ở từng cấp Tòa án; Thẩm quyền xét xử của TAND các cấp, việc ra quyết định của các Hội đồng xét xử đã rõ rang hơn, có tính khả thi của các điều luật cao hơn. Đặc biệt với việc ngày càng mở rộng hơn nữa thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện đã phần nào giảm đi áp lực công việc mà TAND cấp tỉnh và TANDTC đảm nhiệm, tạo điều kiện cho Tòa án cấp trên tập trung vào công tác giải quyết xét xử những vụ án phức tạp; phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, các bản án quyết định của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo kháng nghị. Trong thời gian qua hoạt động xét xử của TAND đạt hiệu quả cao, khách quan, đúng pháp luật, hạn chế đến mức tối đa án oan sai, thiếu chính xác: Số lượng các vụ án mà ngành Tòa án giải quyết hàng năm tang lên đáng kể điều đó thể hiện trình độ chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán đã được nâng cao, công tác xét xử của Tòa án thực sự hiệu quả, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Thứ nhất, thẩm quyền xét xử của mỗi cấp Tòa án hiện đang được xác định vừa theo lãnh thổ, vừa theo tính chất các vụ việc và thủ tục giải quyết xét xử các vụ án. Theo quy định của pháp luật tố tụng, thì TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Các Tòa án cấp trên đều có thẩm quyền xét xử hỗn hợp hoặc vừa phúc thẩm vừa giám đốc thẩm như của TANDTC, hoặc có đầy đủ cả 3 thẩm quyền xét xử theo trình tự giải quyết 1 vụ án, đó là vừa xét xử sơ thẩm vừa phúc thẩm vừa giám đốc thẩm, tái thẩm như ở Tòa án cấp tỉnh. Điều này là không thể hiện đúng, chính xác tính chất hoạt động, vai trò, vị trí của Tòa án mỗi cấp quy định trong hệ thống Tòa án. Trên thực tế mặc dù đã từng bước tang thẩm quyền xét xử cho các TAND nhưng các TAND cấp tỉnh vẫn phải giải quyết số lượng không nhỏ các vụ án theo thủ tục sơ thẩm mà lẽ ra các vụ án này phải được xét xử, giải quyết ở Tòa án cấp huyện với tư cách là Tòa án sơ thẩm trong hệ thống Tòa án. Các bản án quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND cấp tỉnh về mặt lý thuyết và cả trên thực tế vẫn có thể bị hủy bởi TANDTC nên làm hạn chế ý nghĩa pháp lý của trình tự xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Đối với TANDTC vẫn tiếp tục giải quyết xét xử phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị, và trên thực tế không ít các bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa phúc thẩm TANDTC đã bị kháng nghị và bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bởi chính TANDTC nhìn chung đã làm ảnh hưởng đến vai trò, uy tín của TANDTC với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống Tòa án. Thứ hai, trong hệ thống tổ chức của Tòa án tồn tại quá nhiều cơ quan có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm ( 63 Tòa án cấp tỉnh, 5 Tòa chuyên trách của TANDTC và Hội đồng thẩm phán TANDTC ) thì mục tiêu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và xác định đường lối xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ bị ảnh hường. Trên thực tế, đã có những quyết định giám đốc thẩm của Tòa chuyên trách TANDTC bị hội đồng thẩm phán TANDTC hủy. Ngoài ra, việc có nhiều cấp giám đốc thẩm cùng với quy định không hạn chế về điều kiện kháng nghị và thủ tục không rõ rang trong việc xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, một mặt làm cho việc giải quyết vụ việc cáo dài, mặt khác làm mất tính ổn định trong các phán quyết của Tòa án và ở một chừng mực nào đó là vô hiệu hóa nguyên tắc Tòa án thực hiện chế độ 2 cấp xét xử Thứ ba, về nhiệm vụ và tổ chức công việc của Tòa án các cấp. Ở TANDTC vẫn còn nặng về xét xử phúc thẩm bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ rất quan trọng khác là giám đốc việc xét xử của các Tòa án, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, quản lý các Tòa án địa phương về tổ chức. TAND cấp tỉnh với vị trí là Tòa án cấp dưới của TANDTC nhưng có vai trò vừa là Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm vừa là một cấp giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngoài ra TAND cấp tỉnh còn có nhiệm vụ quản lý các tòa cấp huyện về tổ chức theo phân cấp của TANDTC. Vì vậy, sức ép công việc đối với Tòa án cấp tỉnh cũng không phải nhỏ, nhất là đối với Tòa án của các thành phố lớn. Đối với TAND cấp huyện do được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp huyện nên dàn trải nhiều đầu mối, có nơi quá nhiều việc, có nơi quá ít việc. II. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HIỆN NAY: 1.Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân: Đánh giá về thực trạng hoạt động của TAND nói riêng, cơ quan tư pháp nói chung, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị nêu rõ: “Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ cán bộ còn thiếu, thậm chí một số cán bộ còn sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan điều tra tư pháp còn thiếu thốn, khó khăn”. Trước thực trạng đó, Bộ chính trị chỉ đạo phải chú trọng xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TANd theo hướng: Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức TAND theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành. Việc triển khai thực hiện thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực, Tòa án phúc thẩm, Tòa án thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của TANDTC trong thực tế, cần phải đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề cụ thể như: xác định nguyên tắc thành lập; vị trí và mô hình; nhiệm vụ, thẩm quyền; tên gọi; tiêu chí thành lập và xác định số lượng; cơ cấu tổ chức; biên chế; cán bộ và cơ sở vật chất; mối quan hệ với các cơ quan công tố và điều tra; mối quan hệ giữa các cấp Tòa án; sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử; về việc bầu Hội thẩm; quản lý về tổ chức đối với các Tòa án; đưa ra các giải pháp và phân công trách nhiệm tổ chức thực hiện. 2.Bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật: Đây là nguyên tắc nền tảng cho hoạt động tư pháp nói chung của TAND nói riêng. Để dảm bảo nguyên tắc này cần phải giải quyết những vấn đề sau 2.1. Đảng lãnh đạo nhưng không can thiệp vào hoạt động xét xử hay có những tác động tới sự độc lập của Tòa án. Hiện nay, Đảng lãnh đạo Tòa án cả về tổ chức nhân sự và hoạt động xét xử, điều này khó có thể đảm bảo được tính độc lập khi xét xử của Tòa án thực hiện theo đúng nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ( Điều 130 Hiến pháp năm 1992). Nếu lãnh đạo về tổ chức nhân sự thì không can thiệp, chỉ đạo về hoạt động xét xử và ngược lại, nếu lãnh đạo trong khâu xét xử thì không nên lãnh đạo về tổ chức nhân sự. 2.2. Hạn chế tới mức thấp nhất hoặc không còn sự ảnh hưởng, sự can thiệp của các cơ quan, cán bộ viên chức nhà nước. Thực tế hoạt động xét xử của Tòa án nước ta trong thời gian qua cho thấy, một số Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc lập, vẫn đang còn việc lãnh đạo nghe báo cáo án, định hướng đường lối xét xử, như vậy phần nào đã ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Cũng khó có thể tránh khỏi sự can thiệp của các cơ quan quyền lực và các cán bộ nhà nước đối với Tòa án khi mà họ có quyền ảnh đến việc bổ nhiệm thẩm phán, quyết định ngân sách và cung cấp các cơ sở vật chất duy trì hoạt động của Tòa án. Muốn Tòa án độc lập khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật, phải hoàn thiện cơ chế xây dựng tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc và địa giới hành chính. 2.3. Các Thẩm phán và Hội thẩm phải luôn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp: Chỉ khi Thẩm phán có trình độ chuyên môn cao với cái tâm trong sang, tôn trọng sự công bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy nghĩ lệch lạc hoặc những tác động bên ngoài mang tính chất vụ lợi cá nhân. Khi đó, Thẩm phán sẽ có niềm tin nội tâm vững chắc để xét xử đúng pháp luật. Cùng với Thẩm phán, các Hội thẩm cũng phải được bổ nhiệm tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử. 2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án: Nhà nước cần ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các Tòa án; cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án để họ yên tâm công tác và tang khả năng tự vệ phòng, chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. 2.5. Tăng cường vai trò giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án: Đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động xét xử. 2.6. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không chồng chéo, mâu thuẫn với nhau: Các văn bản hướng dẫn thi hành và giải thích luật phải kịp thời. Có như vậy mới tạo điều kiện cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử có cơ sở pháp lý vững chắc và chỉ tuân theo pháp luật. 3. Đổi mới nhiệm kỳ của thẩm phán, trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán: 3.1 Đổi mới về nhiệm kỳ của Thẩm phán: Theo quy định của pháp luật hiện hành, Thẩm phán Tòa án các cấp đều có nhiệm kỳ là 5 năm tính từ thời gian bổ nhiệm. So với thời kỳ thực hiện nguyên tắc bầu thẩm phán, nhiệm kỳ hiện nay đã được kéo dài thêm một cách đáng kể, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý. Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu và thay đổi theo hướng nhiệm kỳ cthaaThẩm phán không phải là 5 năm mà có thể tiến đến bổ nhiệm không kỳ hạn. Nếu thay đổi theo hướng như vậy sẽ tạo ra những thuận lợi đáng kể. Thứ nhất, không phải tuyển chọn, bổ nhiệm nhiều lần đối với một Thẩm phán, điều này sẽ giảm đi một khối lượng công việc đáng kể cho chủ thể có thẩm quyền bổ nhiệm, đặc biệt là đối với việc bổ nhiệm thẩm phán TAND địa phương. Thứ hai, việc bổ nhiệm một lần sẽ tạo điều kiện cho đội ngũ Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án tâm lí ổn định và yên tâm công tác, tránh được tình trạng bị gián đoạn công tác khi chưa tiến hành làm thủ tục tái bổ nhiệm đúng kì hạn đối với Thẩm phán hết nhiệm kì. Thực tế rất nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng chế độ bổ nhiệm thẩm phán suốt đời rất hiệu quả như Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Nga…..Pháp luật của các nước này quy định cho Thẩm phán được hưởng quyền “ bất khả miễn nhiệm”. Đây là một quyền rất quan trọng, là một đảm bảo về mặt pháp lí cho Thẩm phán chuyên tâm vào sự nghiệp xét xử của mình. Xét xử luôn được xác định là chức năng của thẩm phán trừ khi họ tự nguyện chuyển công tác vì lý do sức khỏe mà không đảm nhiệm được công việc, đến tuổi nghỉ hưu hay vi phạm pháp luật. Do ổn định về mặt công tác nên ý thức tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn và trau rồi kĩ năng nghề nghiệp của các thẩm phán cũng được chú trọng hơn. Nhờ đó, nguyên tắc độc lập trong xét xử càng được củng cố, hiệu quả xét xử được nâng cao. Đây thực sự là kinh nghiệm quý báu để chúng ta tham khảo, học hỏi để vận dụng vào việc bổ nhiệm thẩm phán trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, việc bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời cũng chưa thể thực hiện ngay được. Hiện nay, một bộ phận Thẩm phán chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Bởi vậy, trước mắt vẫn cần quy định nhiệm kì thẩm phán để dần dần thanh lọc, xây dựng đội ngũ Thẩm phán có đủ tiêu chuẩn để thực hiện hoạt động xét xử, tiến tới bổ nhiệm Thẩm phán dài hạn. Hiện nay, khi chưa thực hiện được việc bổ nhiệm suốt đời thì biện pháp trước mắt là cần kéo dài nhiệm kì của thẩm phán. 3.2. Đổi mới trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán: Để việc tuyển chọn Thẩm phán được thực hiện có hiệu quả, cần thực hiện các biện pháp để hạn chế tính hình thức trong việc tuyển chọn của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Nó đòi hỏi phải có sự thay đổi đồng bộ từ khâu chuẩn bị hồ sơ, đến việc xem xét tại phiên họp của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán. Trong công tác chuẩn bị nhân sự, việc lấy phiếu tín nhiệm cần được thực hiện nghiêm túc, đúng với bản chất của nó. Với những ý kiến đánh giá xác thực từ cơ sở. Hội đồng tuyển chọn mới có cơ sở để đưa ra quyết định đúng đắn. Bên cạnh đó, trình tự thủ tục bổ nhiệm thẩm phán còn quá rườm rà, bởi vậy, thời gian tới cần đơn giản hóa thủ tục bổ nhiệm để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu về thẩm phán cho công tác xét xử. Hiện nay, cấp ủy Đảng lãnh đạo việc giới thiệu người để Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét đề nghị bổ nhiệm là Thẩm phán. Do đó, Thẩm phán có sự lệ thuộc nhất định vào cấp ủy Đảng. Điều này ảnh hưởng tới tính độc lập của Thẩm phán trong xét xử. Bởi vậy, trong thời gian tới cần xem xét vấn đề này để vừa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ của ngành Tòa án, đồng thời vẫn phải đảm bảo được tính độc lập của hoạt động xét xử. Đối với những trường hợp bổ nhiệm lại, cần đơn giản hóa thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán. Điều này giúp cho hoạt động của Thẩm phán ít bị gián đoạn hơn, góp phần làm giảm tình trạng thiếu Thẩm phán hiện nay. Hơn nữa việc đơn giản hóa thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán là một điều hợp lí bởi “ khi trở thành Thẩm phán đã phải trải qua sự xét tuyển rất nghiêm ngặt, do vậy nếu trong nhiệm kì thẩm phán không vi phạm những quy định đến mức phải kỷ luật mặc nhiên được tiếp tục là thẩm phán” C.PHẦN KẾT LUẬN: Tìm hiểu tổ chức và hoạt động của TAND và tìm hiều thực trạng, phương hướng hoạt động của TAND là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần giúp công tác tư pháp đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ tích cực cho công cuộc đổi mới, phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị, có tình thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: - Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Lê Thành Dương. - Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND trong giai đoạn hiện nay, Nguyễn Văn Tuyển. - Giáo trình lí luận nhà nước và pháp luật, Đại học luật Hà Nội. - Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, Đại học luật Hà Nội - Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan