Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức tiền tệ thế giới imf...

Tài liệu Tổ chức tiền tệ thế giới imf

.PDF
34
372
108

Mô tả:

Tiểu luận Tổ chức tiền tệ thế giới IMF 1 Tổ chức tiền tệ thế giới IMF 1. Tổng quan : a. Định nghĩa Wi ky International Monetary Fund Tòa nhà trụ sở chính của Quỹ tiền tệ quốc tế tại Washington, D.C. Biểu tượng của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) Thành lập 27 tháng 12 năm 1945 (67 năm trước) Phân loại Tổ chức quốc tế Địa điểm Washington DC Thành viên 187 quốc gia Giám đốc Christine Lagarde (acting) Website http://www.imf.org Quỹ tiền tệ quốc tế (t iếng Anh: International Monetary Fund, viết tắt IMF) là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu. Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C., thủ đô của Hoa Kỳ. B. Lịch sử hình thành : Vào thập kỷ 30, đã có nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức để giải quyết những vấn đề tiền tệ thế giới. Tuy nhiên điều đó không có kết quả. Những giải pháp bộ phận và 2 mang tính chất thăm dò đã hoàn toàn tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu. Ðiều cần có là một sự hợp tác với quy mô lớn chưa từng có giữa tất cả các quốc gia để xây dựng nên một hệ thống tổ chức tiền tệ cách tân và một tổ chức để điều hành hệ thống này. Mùa hè năm 1940, một s ự trùng hợp kỳ lạ đã xảy ra. Hai tư tưởng độc đáo và táo bạo của Harry Dester White - Người Mỹ và John Maynard Keynes - Người Anh đã gần như đồng thời đưa ra dự thảo xây dựng một tổ chức tiền tệ quốc tế mà hành động của nó được giám sát thường xuyên bởi một tổ chức hợp tác chứ không phải bằng những cuộc gặp gỡ quốc tế thoảng hoặc. Tuy nhiên, phải sau nhiều lần thương thuyết trong điều kiện khó khăn của thời chiến, cộng đồng quốc tế mới chấp nhận một hệ thống tiền tệ mới và một tổ chức để giám sát nó. Những thương thuyết cuối cùng về thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (viết tắt là IMF) đã diễn ra ở Bretton Woods, NewHams phire, Hoa kỳ vào tháng 7/1944 giữa 44 quốc gia. Bắt đầu từ 1-3-1947 tổ chức IMF chính thức đi vào hoạt động như một cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc (xem phụ lục 1). Khi đó IMF có 49 thành viên. Trụ sở chính của IMF ở Washington D.C và có hai chi nhánh tại Paris và Geneve. Một nước có thể trở thành thành viên của IMF nếu nó sẵn sàng gắn bó, trung thành với các chức năng và nguyên tắc chủ đạo của IMF (xem biểu đồ 1). Từ l945 đến nay con số thành viên của IMF lên tới 187 Quốc gia. Số lượng thành viên tăng đều đặn, không có biến động chứng tỏ uy tín của IMF theo năm tháng là không thay đổi và ngày càng được zcủng cố. Biểu đồ 1: Sự phát triển về số lượng thành viên của IMF 1945-2002 ( số lượng nước) (Năm) Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế là gì, Viện nghiên cứu IMF, Tháng 6. Theo nhận định chung thì IMF được coi là một tổ chức uy tín lớn có tính độc lập cao và cho rằng Quỹ đề ra những chính sách kinh tế tối ưu cho các nước thành viên theo đuổi và áp đặt các quyết định cho các nước thành viên và sau đó giám sát việc thực hiện. 3 Nhưng trái lại, chính các nước thành viên đã định ra các chính sách mà IMF phải thực hiện. Các mệnh lệnh đi từ Chính phủ các nước thành viên đến IMF mà không có lệnh ngược lại. Khi đưa ra các quy định về nghĩa vụ của từng thành viên đối với Quỹ hoặc đưa ra những điều mục của hợp đổng cho vay với một thành viên nào đó, IMF không tự hành động mà chỉ đóng vai trò trung gian giữa ý kiến đại đa số thành viên của quỹ đối với các nước thành viên đó. 2. Sơ đồ bộ máy quản lý  Cơ quan lãnh đạo cao nhất của IMF là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị gồm đại diện của các nước thành viên và do mỗi nước bổ nhiệm, 5 năm 1 l ần. Hiện nay IMF có 187 ủy viên ban quản trị, mỗi ủy viên đại diện cho 1 nước khác nhau. Hội đồng quản trị họp mỗi năm 1 lần. Trong kỳ họp, Hội đồng quản trị phê chuẩn báo cáo hàng năm về hoạt động của IMF, xem xét việc kết nạp thành viên mới và khai trừ thành viên ra khỏi tổ chức, xem xét việc thay đổi vốn pháp định...(xem phụ lục 2).  Cơ quan chấp hành của IMF là Hội đồng giám đốc (còn gọi là Hội đồng điều hành). Hội đồng giám đốc gồm 22 giám đốc chấp hành trong đó 6 giám đốc do 5 nước có mức đóng góp lớn nhất và Arập xêút bổ nhiệm; 16 giám đốc do Hội nghị toàn thể bầu ra có tính đến khu vực địa lý.  Ủy ban lâm thời (Imterm Committee) Hội đồng quản trị của IMF là cơ quan tư vấn về các vấn đề quan hệ tiền tệ được thành lập tháng 10 năm 1974. Thành viên của Ủy ban lâm thời là các Bộ trưởng Tài chính của 22 thành viên. Nhiệm vụ chính của Ủy ban lâm thời là kiểm tra việc quản lý hệ thống tiền tệ thế giới và kiến nghị với Hội đồng quản trị. Nếu Hội đồng quản trị thấy cần thiết, có thể cải tổ Ủy ban lâm thời thành cơ quan thường trực có quyền thông qua nghị quyết.  Một Ủy ban khác là Ủy ban phát triển (Development Committee), phối hợp giữa IMF và ngân hàng phát triển thế giới cố vấn cho Hội đồng quản trị về những nhu cầu đặc biệt của nước nghèo.  Bởi v ì các ủy viên của Hội đồng quản trị và các ủy viên của Hội đồng giám đốc đều bận bịu với công việc ở nước mình nên họ chỉ gặp mặt trong các cuộc họp định kỳ hàng năm để cùng giải quyết các vấn đề của IMF.  IMF có khoảng 2600 nhân viên, đứng đầu là Giám đốc điều hành, đồng thời cũng là Chủ tịch Hội đồng điều hành (hội đồng tự bầu chủ tịch của mình). Theo truyền thống, Giám đốc điều hành là người Châu Âu, nếu không thì cũng phải là người Mỹ. Hiện nay, Tổng giám đốc IMF là bà Christine Lagarde quốc tịch Pháp, nhận chức tháng 5/7/2013, phó tổng giám đốc là Zhumin người Trung Quốc. Nhân viên của IMF là người của khoảng 120 nước và đa phần là nhà kinh tế học, song cũng có cả các nhà thống kê, bác học, các chuyên gia về tài chính công cộng và thuế khoá, các nhà ngôn ngữ học, nhà văn và 4 các nhân viên phục vụ. Ða số các nhân viên đều hoạt động tại trụ sở nhỏ ở Paris, Geneve, Tokyo, tại trụ sở của Liên hợp quốc ở NewYork hoặc tại các văn phòng của IMF được thành lập tạm thời ở các nước thành viên. Khác với các giám đốc chấp hành là những đại diện của từng nước thành viên, các nhân viên của Quỹ chỉ là nhân viên quốc tế, họ có trách nhiệm thực thi chính sách của IMF chứ không đại diện cho lợi ích của bất cứ quốc gia nào. 3. Mục đích và nguyên tắc hoạt động : a. Mục đích :  Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế.  Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh tế.  Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh.  Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên và xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của mậu dịch quốc tế.  Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực dự trữ của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế.  Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của các nước thành viên. b. Nguyên tắc IMF hoạt động theo nguyên tắc phiếu bầu. Mỗi nước hội viên góp với số vốn ban đầu tương đương 250 phiếu bầu. Nếu đóng thêm 100.000 SDR thì được cộng thêm một phiếu bầu. Nếu rút ra 400.000 SDR thì rút ra một phiếu c.  Nguồn vốn hoạt động • Vốn điều lệ: Là nguồn vốn hoạt động chủ yếu của quỹ, được hình thành từ tiền đóng góp của các nước thành viên theo Điều lệ thành lập quỹ. • Vốn đi vay: Để bổ sung vốn hoạt động của mình, IMF có thể đi vay của chính phủ các nước thành viên. • Vốn tích luỹ: Hàng năm, số lãi ròng thu được từ hoạt động cho vay được IMF bổ sung vào nguồn vốn hoạt động Vốn hoạt động: 5 Khi gia nhập IMF, mỗi nước thành viên đều phải đóng một khoản tiền nhất định được coi là một khoản lệ phí hội viên. Tuy nhiên khoản đóng này chỉ thực hiện khi quỹ có nhu cầu: khi có ai cần vay tiền của quốc gia đó thì quốc gia đó mới phải đóng. Chẳng hạn, nếu một nước muốn vay Bảng Anh thì khi đó IMF mới yêu cầu Anh phải đóng. Số tiền này được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: + Thứ nhất, nó tạo thành một khoản vốn IMF có thể trích ra cho các thành viên vay mỗi khi họ gặp khó khăn về tài chính. + Thứ hai, nó là căn cứ để quyết định số lượng tiền mà nước thành viên được vay và là cơ sở để phân bổ rút vốn lớn đặc biệt (SDR) theo từng thời kỳ cho các nước thành viên. Dĩ nhiên, nước thành viên nào càng đóng góp nhiều thì khi cần nó càng được vay nhiều. + Thứ ba, s ố tiền ký quỹ này còn có vai trò quyết định quyền bỏ phiếu của nước thành viên. Bản thân IMF là người quyết định số tiền mỗi nước thành viên phải nộp vào quỹ sau khi phân tích đánh giá mức độ giàu có và tình hình kinh tế của nước đó. Nước càng giàu, lệ phí càng cao (xem phụ lục 3). Mức đóng góp của mỗi nước thành viên vào IMF rất khác nhau. Năm 1985, Mỹ đóng 20,l%, khối EEC đóng 27,9%, còn các nước đang phát triển đóng 32,4%. Mức lệ phí này cứ 5 nă m lại được xem xét lại, có thể tăng lên hoặc giảm đi tùy theo nhu cầu của IMF và mức độ phát đạt của nước thành viên. Tuy nhiên từ l/4/1978, với sự sửa đổi điều lệ lần thứ hai, việc xem xét và điều chỉnh phần đóng góp của mỗi nước thành viên được quy định 3 năm một lần. Năm 1945, 35 thành viên khi đó đóng góp vào IMF 7,6 tỷ USD, năm 1977 con số đó khoảng 200 tỷ USD. Ngày 6/2/1998 Hộ i đồng quản trị của IMF đã phê chuẩn kế hoạch tăng 45% ngân quỹ của tổ chức này, từ 199 tỷ USD lên 288 tỷ USD. Cho đến nay, Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, đóng góp nhiều nhất cho IMF, chiếm khoảng 19% tổng số (40 tỷ USD); Marshall Island, một nước cộng hoà đảo ở Thái Bình Dương đóng ít nhất khoảng 3,6 triệu USD (xem biểu đồ 2). Biểu đồ 2: Những thành viên lớn nhất của IMF tính theo cổ phần, 1997 (tính theo triệu SDR và % tổng số cổ phần) 6 Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế l à gì, Viện nghiên cứu IMF, Trang 6 Khoản tiền đóng góp của các nước thành viên tạo nên nguồn tài chính cho IMF sử dụng. Tổng số tiền đóng góp các nước thành viên cho đến nay khoảng 210 tỷ USD, mặc dù trên thực tế số tiền sử dụng được không thể coi là lớn bởi vì các nước thành viên nộp 75% số lệ phí của họ bằng tiền nội địa và bởi vì hầu hết đồng tiền quốc gia của nhiều nước không phổ biến trong thanh toán quốc tế. Bảng 1: 10 nước góp vốn nhiều nhất từ cuối 1991 đến cuối 1992 Tên nước SDR (tỷ) Tỉ lệ vốn (% ) Tỉ lệ quyền bỏ phiếu (% ) Mỹ 7,918 19,66 18,88 Anh 6,194 6,80 6,54 Đức 5,404 5,93 5,71 Pháp 4,483 4,92 4,74 Nhật 4,223 4,63 4,47 Arập Xêút 3,202 3,51 3,40 Canađa 2,941 3,23 3,12 Ý 2,909 3,19 3,09 Trung Quốc 2,314 2,62 2,54 Hà Lan 2,265 2,48 2,41 7 Nguồn : Kinh tế đốí ngoại, Võ Thanh Thu, tr 289 Các nước thành lập IMF hồi 1944 lập luận rằng Quỹ sẽ hoạt động hiệu quả nhất và các quyết định sẽ được đề ra một cách trách nhiệm nhất nếu gắn liền trực tiếp quyền bỏ phiếu của các thành viên với số lượng tiền đóng vào Quỹ của họ (xem bảng l). Nước nào đóng góp nhiều nhất đương nhiên tiếng nói sẽ có trọng lượng nhất khi quyết định chính sách của Quỹ. Mỹ, Anh, Pháp là những nước khi mới thành lập đóng nhiều hơn hết và cũng là những nước có ảnh hưởng nhiều hơn hết đối với các quyết định của IMF. Mỗi nước có 250 phiếu và cộng thêm l phiếu cho mỗi 100.000 SDR của phần đóng góp. Bởi vậy Mỹ hiện nay có 265.000 phiếu, hay 18% tổng số phiếu, Marshall Islands có 275 phiếu.  Quyền rút vốn đặc biệt (SDR): Ðó là loại tiền đặc biệt mà IMF tạo ra để bổ sung vào tài sản dự trữ mà hầu hết các nước thành viên dùng để đảm bảo nhu cầu thanh toán ngoại tệ và giao dịch với nước ngoài. Việc này đã giải quyết được nguy cơ khan hiếm những phương tiện thanh toán quốc tế. Như đã trình bày trong phần chức năng hỗ trợ tín dụng, giá trị của mỗi đơn vị SDR lúc đầu được ấn định là 0,888671 gr vàng tương đương với hàm lượng vàng của l USD. Năm 1973, do sự thả nổi của đồng USD, giá trị của 16 loại tiền tệ có cân nhắc tỷ trọng tuỳ theo tầm quan trọng của mỗi đơn vị tiền tệ thể hiện qua phần giá trị xuất khẩu của mỗi quốc gia Hội viên trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới. Năm 1981 giá trị tổng hợp đó chỉ còn căn cứ vào 5 đơn vị tiền tệ của 5 nước có khối lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới từ 1975 1979 là USD, FRF, GBP, JPY, DEM (xem biểu đồ 3). Biểu đồ 3: Sự định giá đồng SDR (tính theo phần trăm) Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế là gì, Viện nghiện cứu IMF, Trang 12. Quyền vay đặc biệt này có 2 điểm cần chú ý. Thứ nhất, vay đặc biệt cũng cần lý do cán cân thanh toán thiếu hụt như vay thông thường. Tuy nhiên trong khi vay thông thường phải làm đơn và IMF cử phái đoàn tới kiểm tra, nếu được vay thì phải thực hiện những biện pháp mà IMF yêu cầu, còn vay đặc biệt không cần phải có phái đoàn IMF tới nghiên cứu 8 mới cho vay. Thứ hai, vay thông thường chịu lãi suất 3% còn vay đặc biệt chỉ chịu lãi s uất 15%. Hội nghị thường niên IMF ngày 3/10/1969 đã biểu quyết chấp thuận dự án cấu tạo 9,5 tỷ SDR, lần phân phối SDR đầu tiên là 3,5 tỷ SDR thi hành ngày l/1/1970, hai lần phân phối sau đó mỗi lần 3 tỷ vào đầu năm 1971 và 1972. Ðến năm 1979 thêm 3 đợt phân phối nữa vào đầu năm 1979, 1980, 1981. Tính chung, từ 1970 đến 1986 Quỹ đã tạo ra và phân phối tổng cộng 21,4 tỷ SDR, trị giá gần 29 tỷ USD, chiếm khoảng 2% tổng dự trữ thế giới. 3.2. Những thỏa thuận về trao đổi các đồng tiền Theo quy định của ban điều lệ đầu tiên của IMF, các nước thành viên đều áp dụng hệ thống ngang giá tiền tệ và TGHÐ cố định. Khi hệ thống ngang giá hối đoái chấm dứt, theo điều khoản IV của điều lệ mới của IMF, toàn thể hội viên của IMF đã đồng ý cho mỗi nước thành viên được lựa chọn phương pháp xác định giá trị đồng tiền của mình. Chỉ có một yêu cầu duy nhất, đặt ra cho họ là không được tiếp tục lấy vàng làm thước đo giá trị đồng tiền của mình nữa(1) và phải thông báo một cách xác thực phương pháp định giá cho đồng tiền của mình. 3.3. Việc giám sát Sự chuyển đổi từ hệ thống ngang giá hối đoái sang hệ thống tỷ giá hối đoái mới hiện nay không làm cho ảnh hưởng của IMF đến hệ thống mất đi mà còn mạnh lên. Trên thực tế, toàn thể hội viên đã yêu cầu IMF xem xét, nghiên cứu tỉ mỉ tất cả các khía cạnh của nền kinh tế có ảnh hưởng đến TGHÐ, đánh giá thành tựu kinh tế của các nước thành viên một cách hữu hiệu. ----------------------------------------------------------------(1) Ðiều III, khoản 3 của Hiệp định thành lập IMF quy định mỗi nước, khi gia nhập IMF phải đóng góp 25% tổng số tiền đóng góp bằng vàng của 10% quỹ dự trữ vàng - đô la chính thức của nước đó, tuỳ theo loại nào ít hơn. 75% còn lại được đóng bằng tiền quốc gia. Từ 1/4/1978 vàng bị phế bỏ chính thức 6 hoạt động của IMF ; đình chỉ việc công bố hàm lượng vàng của tiền tệ, phần đóng góp = vàng được thay bằng đóng ngoại tệ dự trữ và đơn vị SDR, không dùng vàng để thanh toán giữa IMF và các nước thành viên. Trong thời gian 1976 - 1979, 1/6 số vàng dự trữ của IMF được hoàn trả lại cho các nước thành viên để đổi lấy tiền quốc gia theo giá 35 SDR/ ounce ; 1/6 được bán đấu giá theo giá thị trường; 2/3 còn lại được thanh toán theo giá công bố chính thức hoặc theo giá thị trường. IMF thực hiện các mục giám sát của mình thông qua các cuộc hội thảo song phương với từng nước được tổ chức hàng năm theo điều khoản IV và giám sát đa phương một năm 2 lần trên cơ sở hoạt động xuất bản ấn phẩm ''triển vọng kinh tế thế giới'' (World Economic 9 Outlook - WEO). Bên cạnh đó IMF còn tiến hành các kế hoạch thận trọng, theo dõi và giám sát chặt chẽ chương trình đối với các nước thành viên sử dụng nguồn tín dụng của IMF. Các kế hoạch thận trọng này nhằm nâng cao lòng tin của cộng đồng quốc tế đổi mới chính sách của nước thành viên. Công tác theo dõi chương trình có thể bao gồm việc đề ra các tiêu chuẩn đã được xây dựng sẵn chứ có không thành lập nên quy định chính thức của IMF. 3.4. Các cuộc hội thảo Bên cạnh các cuộc thảo luận định kỳ, IMF cũng tổ chức các cuộc hội thảo với những nước có chính sách ảnh hưởng lớn đến kinh tế thế giới. Các cuộc hội thảo đặc biệt này đánh giá tình hình kinh tế thế giới và những bước phát triển sắp tới: IMF công bố kết quả đánh giá này l năm 2 lần trong tạp chí ''Triển vọng kinh tế thế giới''. Ấn phẩm này bao gồm nhiều thông tin có giá trị và nhiều dự đoán về kinh tế thế giới. Hơn nữa, bằng cách nhấn mạnh tới các khả năng lựa chọn chính sách khác nhau ấn phẩm này còn giúp cho các nước thành viên kết hợp các chính sách kinh tế của chính nước mình với những thay đổi chính sách ở các nước thành viên khác. 3.5. Trợ giúp tài chính và trợ giúp kỹ thuật  Trợ giúp tài chính: IMF chỉ cho vay đối với các nước thành viên đang gặp phải các vấn đề về thanh toán, tức là các nước không có đủ ngoại tệ để trả cho số hàng nhập khẩu, khi đó các nước phải đối mặt với nhiều thực tế khó khăn nổi bật là việc giảm sức mua tiền tệ và giảm nhập khẩu từ các nước khác, kéo theo tình trạng sản xuất ngưng trệ. Một nước thành viên gặp khó khăn thanh toán có thể ngay lập tức rút từ IMF 25% lượng mà nước này đóng góp bằng vàng hoặc bằng tiền có thể chuyển đổi. Nếu 25% này không đủ cho nhu cầu của nước đó, nước đó có thể yêu cầu IMF cho vay thêm. Khi cho một nước thành viên vay hơn 25% ban đầu, IMF phải tuân thủ theo 2 nguyên tắc. Thứ nhất, khoản tiền mà các nước đóng cho IMF sử dụng phải tồn tại phục vụ cho lợi ích của tất cả các thành viên. Mỗi nước thành viên khi vay đồng tiền của thành viên khác từ Quỹ phải trả lại ngay sau khi khó khăn về thanh toán của nước mình được giải quyết. Bằng cách này, vốn của quỹ có thể quay vòng cho tất cả các thành viên và lúc nào cần cũng có. Thứ hai, trước khi IMF rút tiền ra khỏi Quỹ, nước thành viên muốn vay phải cho biết kế hoạch giải quyết vấn đề thanh toán để có thể trả lại IMF trong thời hạn thông thường là 3 đến 5 năm. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định, thời hạn này được kéo dài đến 10 năm. IMF cho các nước gặp khó khăn về thanh toán vay tiền dưới nhiều cơ chế khác nhau tuỳ theo những vấn đề cụ thể được báo cáo. IMF có 8 loại tín dụng cho vay bằng tiền mặt với các điều kiện khác nhau: 10 1. Tín dụng thông thường (Ordinaryfacility) Cho vay theo chương trình điều chỉnh kinh tế ngắn hạn. - Mức vay tối đa : 100% cổ phần của nước thành viên tại Quỹ. - Cho vay làm 4 đợt (mỗi đợt 25% tổng mức được vay). Ðợt l có thể rút luôn 1 lần 25% tổng mức được vay. Các đợt 2,3,4 vay theo từng quý, thực hiện chương trình đến đâu vay đến đó. - Thời gian vay trả : 5 nă m, thời gian ân hạn 3 năm. - Lãi suất : 6 - 7,5%/năm. 2. Tín dụng tài chính bổ sung (Supplementar Financing facitity STF) Khi bắt đầu vay đợt 2 tín dụng thông thường thì có thể được vay tín dụng bổ sung để bù đắp thiều hụt cán cân thanh toán. - Có thể từ 100 - 350% cổ phần của nước thành viên (mức thiếu hụt tùy thuộc cán cân thanh toán). - Ðiều kiện vay trả, ân hạn, lãi suất như tín dụng thông thường. 3. Tín dụng chuyển đổi hệ thống (Systemic Transformation Facility STF) Ðây là hình thức trợ giúp các nước thành viên gặp khó khăn trong cán cân thanh toán do chuyển đổi từ kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường. 4. Tín dụng điều chỉnh mở rộng ( Extended fund facility EFF) Cho các nước thành viên vay để thực hiện chương trình kinh tế trung hạn. Các khoản vay được cấp theo tiến độ thực hiện chương trình cam kết. - Mức vay tối đa : 140% cổ phần của nước thành viên - Thời hạn vay trả : 10 nă m, thời hạn ân hạn : 4 năm - Lãi suất : 6 - 7,5%/năm 5. Tín dụng bù đắp thất thu xuất khẩu (Compensatory & Contingencyfnancing Facility CACF) Cho các nước đang phát triển vay, khi nước này có đột biến thiếu hụt cán cân thương mại trong một năm. - Mức vay tối đa : 100% cổ phần của nước thành viên - Thời hạn, lãi suất . . . như vay tín dụng thông thường 6. Tín dụng duy trì dự trữ điều hoà 11 (còn gọi là tín dụng kho đệm - Buffer stock Facility) Trong trường hợp các nước tham gia các hiệp hội xuất khẩu có sản phẩm xuất khẩu do sản phẩm đó mang lại, nhằm giữ lại sản phẩm chờ thanh toán lên mới bán. Ðiều kiện này như tín dụng thông thường. 7. Tín dụng điều chỉnh cơ cấu (Structural Adjustment Credit SAC) Cho các nước đang phát triển (có thu nhập < 600 USD/NĂM) vay để thực hiện chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế được quỹ chấp nhận. - Mức tối đa : 62,5% cổ phần của nước thành viên - Rút vốn trong 3 năm : năm thứ nhất 12,5%, nă m thứ hai 20%; thứ ba 30% cổ phần. - Thời hạn vay trả : 10 nă m, thời hạn ân hạn : 5,5 năm 8. Tín dụng điều chỉnh cơ cấu mở rộng (Extentive Structural Adjustment Facility ESAF) Các nước vay SAF cũng được vay ESAF (khi rút vốn đợt 2 của SAF thì được vay ESAF) - Mức tối đa : 110 - 255 cổ phần nước thành viên - Rút vốn 6 lần trong 3 năm. - Thời hạn vay trả : 10 nă m, thời hạn ân hạn : 5,5 năm - Lãi suất : 0,5%/năm . Hai cơ chế thường được sử dụng là các kế hoạch dự phòng và các kế hoạch mở rộng. Hai cơ chế này cung cấp một tín dụng cho thành viên gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ nước ngoài để hỗ trợ cho một chương trình kéo dài l đến 2 năm (tín dụng dự phòng, áp dụng từ năm 1952), hoặc kéo dài 3 đến 4 năm (tín dụng mở rộng, áp dụng từ 1974 cho 1 nước gặp phải sự rối loạn nghiêm trọng trong cán cân thanh toán) nhằm giúp nước đó có thời gian tổ chức lại nền tài chính và tiến hành các biện pháp duy trì tăng trưởng kinh tế. Trong suốt quá trình thực hiện chương trình nước đó có thể vay từ IMF theo định kỳ cho hết giá trị tín dụng để thanh toán nước ngoài, với điều kiện nước đó tiếp tục chương trình điều chỉnh chính sách. Trợ giúp về tài chính bao gồm các khoản vay và tín dụng mà IMF cho các nước thành viên gặp khó khăn về cán cân thanh toán vay nhằm hỗ trợ cho các chính sách điều chỉnh và cải cách. Ngày 31/7/97, IMF đã có thỏa thuận tài chính trên với 50 nước thành viên với 1 khoản tiền là 16,831 tỷ SDR (khoảng 22,865 tỷ USD). Bởi vì mỗi nước thành viên đều có quyền vay của quỹ lương tiền gấp mấy lần khoản lệ phí đóng góp nên IMF có thể không đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu vay của nhiều nước 12 thành viên trong cùng một thời điểm. Ðể đối phó tình huống có thể xảy ra này. Từ năm 1962 IMF đã có được “ mức tín dụng” trị giá 24 tỷ USD với nhiều Chính phủ và ngân hàng trên khắp thế giới. Mức tín dụng này được gọi là “ hiệp định chung về cho vay“ General Agreement to Borrow - GAB, cứ 5 năm lại sửa đổi một lần. Theo hiệp định này, các nước trả lãi vay và hoàn trả vốn trong 5 năm. Thỏa thuận này được củng cố thêm bởi quyết định về “những thỏa thuận mới về vay” New Agreement to Borrow - NAB mà khi có hiệu lực sẽ tập hợp được 40 - 45 tỷ USD. Ngoài ra, IMF còn vay tiền Chính phủ các nước thành viên hoặc các cơ quan tiền tệ để tài trợ cho một số chương trình cụ thể vì lợi ích các thành viên. Trong thập kỷ qua, nhờ việc sử dụng chế độ “đánh giá mức tín nhiệm” (credit rating) có hiệu quả, IMF đã vay tiền để cung cấp cho thành viên đang túng quẫn của mình nhiều hơn, dài hạn hơn và với nhiều điều kiện ưu đãi hơn mà nếu họ tự đi vay thì không thể nào đạt được  Trợ giúp kỹ thuật: Bên cạnh công việc giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế và hỗ trợ tài chính cho các nước thành viên, IMF còn giúp đỡ các nước thành viên bằng việc thiết lập 1 học viện giáo dục tại Washington, hỗ trợ về kỹ thuật cho các nước thành viên trong một số lĩnh vực chuyên môn nhất định mà IMF có thể và bằng cách phát hành nhiều ấn phẩm liên quan tới các vấn đề tiền tệ quốc tế Do nắm bắt được những thông tin về tài chính, tiền tệ và nợ nước ngoài của từng nước thành viên nên IMF là một tổ chức duy nhất có thể chuyển các thông tin như vậy tới tất cả các nước thành viên. IMF coi việc trao đổi số liệu thống kê là điều tối cần thiết đối với quan điểm hợp tác của tổ chức này. Do vậy ngay từ đầu, IMF đã phát hành các ấn phẩm tài chính hàng tháng và hàng năm như cuốn “thống kê tài chính quốc tế ” Ngoài những ấn phẩm thống kê và ấn phẩm ''triển vọng kinh tế thế giới'' xuất bản 6 tháng/1lần IMF còn ấn hành một báo cáo thường niên với các thông tin toàn diện về hoạt động của IMF trong năm: sách, tài liệu chuyên đề về các khía cạnh kinh tế, thể chế và pháp luật của hệ thống tiền tệ quốc tế, bản điều tra của IMF (bán nguyệt san) tập hợp các bài báo về hoạt động của IMF của từng quốc gia của tài chính quốc tế... Ngoài việc truyền thông bằng các tài liệu trên mạng World wide web, IMF sẵn sàng cung cấp nhiều bài viết trong các ấn phẩm của IMF cũng như nhiều bài viết đầy đủ trong tất cả các công văn ra đời từ đầu năm 1977. Quan hệ với Việt Nam: Hiện nay cổ phần của Việt Nam tại quỹ chiếm 0,155% tổng khối lượng cổ phần và có tỷ lệ phiếu bầu là 0,17% tổng số quyền bỏ phiếu. Việt Nam thuộc nhóm nước Đông Nam Á gồm các nước: Singapore, Tonga, Nepal, Myanmar, Malaysia, Lao, Indonexia, Fiji, Campuchia, Brunây. 13 Chính quyền Sài Gòn tham gia Quỹ tiền tệ quốc tế từ ngày 18/08/1956, sau giải phóng Miền Nam tháng 5/1976 Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức thừa kế t ư cách hội viên IMF từ chính quyền Sài Gòn và được quyền hưởng các khoản vay từ IMF. Giai đoạn 1976- 1981 IMF đã cho Việt Nam vay 7 khoản với tổng số 205,7 triệu SDR (Quyền rút vốn đặc biệt) để giải quyết khó khăn trong cán cân thanh toán quốc tế. Đến ngày 15/01/1985 Việt Nam đã trả được 74 triệu SDR. Nhưng sau đó không trả được nợ cho Quỹ tiền tệ quốc tế. Từ năm 1984 Việt Nam đã bắt đầu phát sinh nợ quá hạn đối với IMF. Ngày 15/10 năm 1985 IMF đã quyết định đ ình chỉ quyền vay vốn của Việt Nam với lý do không trả đ ược nợ quá hạn. Tính đến ngày 03/10/1993 tổng nợ qúa hạn của Việt Nam với IMF là 100.179.340 SDR. Tháng 7/1993 Chính phủ Mỹ nới lỏng lệnh cấm vận với Việt Nam, cho phép Việt Nam đ ược tái gia nhập các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và để có thể tiếp tục được vay tiền của Quỹ tiền tệ quốc tế, ngày 05/10/1993 Việt Nam đã thanh toán xong công nợ với Quỹ tiền tệ quốc tế. Để thanh toán được nợ 140 triệu USD, Chính phủ Việt Nam đã huy đ ộ n g v ố n t ừ ha i ngu ồn: Nguồn viện trợ không hoàn lại 56 triệu USD (40%) do Pháp, Nhật, mỗi nước viện trợ 17,5 triệu USD,17,5 triệu USD, khối Bắc Âu 10 triệu, Thuỵ Sỹ 7 triệu, Úc 3 triệu, Phần Lan, Canada mỗi nước 1 triệu… Nguồn vốn vay bắc cầu 84 triệu USD (60%) với lãi suất 2,7 % /năm do liên kết 18 ngân hàng của các nước thực hiện. Ngay sau khi thanh toán xong nợ 06/10/1993, Quỹ tiền tệ tuyên bố sẽ cho Việt Nam vay ngay khoản tiền 233 triệu USD và hàng năm sẽ cho vay khoản 360 triệu USD với lãi suất ưu đãi 5%/năm. Ngoài việc cho Việt Nam vay, Quỹ tiền tệ quốc tế còn hỗ trợ cho phát triển kinh tế Việt Nam dưới 3 h ình thức sau: + Giúp Việt Nam hoạch định chính sách kinh tế và quản lý vĩ mô + Giúp đào tạo cán bộ ngân hàng, tài chính, thống kê… + Tác động đến các chủ nợ là các thành viên của Câu lạc bộ Paris hoãn và giảm nợ cho Việt Nam. Hiện nay, IMF cùng v ới Ngân hàng thế giới hỗ trợ Việt Nam thực hiện cải cách nền kinh tế, tạo ra môi tr ường pháp lý kinh doanh thuận lợi, mang tính hội nhập để các thành phần kinh tế phát triển dưới tác động của cơ chế thị trường. 14 NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WB) I. KHÁI QUÁT CHUNG 1. Hoàn cảnh ra đời Ngân hàng Thế giới (WB) được thành lập vào năm 1944, trụ sở chính đặt tại Washington, D.C. WB hiện có hơn 9000 nhân viên làm việc tại hơn 100 văn phòng đại diện trên toàn thế giới. WB là một tổ chức quốc tế gồm có 5 cơ quan hoạt động tương đối độc lập với nhau gồm: (i) Hiệp hội Phát triển Quốc Tế (IDA); (ii) Ngân hàng Quốc tế về Tái Thiết và Phát triển (IBRD); (iii) Công ty Tài chính Quốc Tế (IFC); (iv) Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa biên (MIGA); và (v) Trung tâm Quốc tế về xử lý tranh chấp Đầu tư (ICSID). Tuy nhiên, nói đến WB là nói đến hai tổ chức IBRD và IDA. Mỗi tổ chức đều có vai trò riêng biệt trong cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân các nước đang phát triển. 2. Mục đích và nguyên tắc hoạt động 15 1.1. Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) là tổ chức trực thuộc nhóm WB, được thành lập năm 1960. IDA chuyên cung cấp các khoản hỗ trợ tài chính cho các quốc gia nghèo nhất thế giới với mục tiêu nhằm xóa đói giảm nghèo thông qua việc cung cấp các khoản cho vay không có lãi s uất (còn gọi là khoản tín dụng) cũng như các khoản viện trợ không hoàn lại cho các chương trình/dự án để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa bỏ bất bình đẳng cũng như cải thiện đời sống. IDA được tài trợ từ nguồn đóng góp của các quốc gia giàu có trên thế giới và nguồn IBRD và IFC. Ba năm một lần, WB, các nhà tài trợ và một số các quốc gia đi vay sẽ nhóm họp để quyết định bổ sung nguồn vốn cho IDA. Kể từ khi thành lập tới nay, IDA đã tổ chức 16 phiên họp để kêu gọi các nhà tài trợ góp vốn bổ sung cho hoạt động của IDA. Tiêu chuẩn để được vay IDA tùy thuộc vào mức độ đói nghèo tương đối của quốc gia đó, được xác định theo tỷ lệ Tổng thu nhập Quốc dân (GNI) theo đầu người dưới ngưỡng quy định của WB và được cập nhật hàng năm (hiện nay ngưỡng này là 1.305 USD). 1.2. Ngân hàng Quốc Tế về Tái Thiết và Phát triển (IBRD) là một tổ chức trực thuộc WB, được thành lập năm 1945. Mục tiêu hoạt động của IBRD nhằm xóa đói và duy trì sự phát triển bền vững cho các nước đang phát triển có thu nhập đầu người tương đối cao thông qua các khoản vay, bảo lãnh và các dịch vụ nghiên cứu và tư vấn. Lãi s uất của các khoản vay được tính theo LIBOR và được điều chỉnh 6 tháng một lần. Thời hạn vay từ 1520 nă m, có 5 nă m ân hạn. 1.3. Công ty Tài chính quốc tế (IFC) là tổ chức được thành lập năm 1956. Mục tiêu hoạt động của IFC là hỗ trợ khu vực tư nhân bằng cách cung cấp các khoản vay dài hạn, đầu tư cổ phần, bảo lãnh, quản lý rủi ro và các dịch vụ tư vấn. Lãi suất tính theo lãi suất thị trường, thay đổi theo từng nước và từng dự án. Thời hạn vay từ 3- 13 nă m, có 8 nă m ân hạn. 1.4. Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa biên (MIGA) là tổ chức được thành lập năm 1988. Mục tiêu hoạt động của MIGA nhằm giúp các nước đang phát triển thu hút đầu tư nước ngoài bằng việc cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài những bảo lãnh đầu tư đối với “ rủi ro phi thị trường”. Ngoài ra, MIGA còn cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật để phổ biến thông tin về cơ hội đầu tư… 16 1.5. Trung tâm Quốc Tế về xử lý tranh chấp Đầu tư (ICSID) là đơn vị được thành lập năm 1966. Mục tiêu hoạt động của ICSID nhằm thúc đẩy nguồn đầu tư quốc tế ngày càng tăng bằng cách cung cấp phương tiện cho việc hòa giải và trọng tài về những tranh chấp giữa các Chính phủ và các nhà đầu tư, đồng thời tiến hành nghiên cứu, xuất bản ấn phẩm trong lĩnh vực luật đầu tư nước ngoài của các nước. II. QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM Ngày 18/8/1956, chính quyền Sài gòn Nam Việt Nam đã gia nhập WB. Ngày 21/9/1976, nước CHXHCN Việt Nam tiếp quản tư cách hội viên tại WB của Chính quyền Sài Gòn cũ. Cổ phần của Việt nam tại WB được phân bổ như sau: + IBRD là 968 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 1218, chiếm 0,07%; + IDA là 14.778 cổ phần với tổng số phiếu bầu là 61.168, chiếm 0,3%; + IFC là 446 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 696, chiếm 0,03%; + MIGA là 388 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 629, chiếm 0,29%; Trong WB, Việt Nam thuộc Nhóm nước Đông Nam Á gồm 11 nước là Brunây, Fiji, Inđônêxia, Lào, Malaysia, Myanma, Nêpan, Singapore, Thái lan, Tông ga và Việt Nam Sau một thời gian dài gián đoạn (tư 1978-1993), Việt Nam chính thức nối lại quan hệ với WB vào tháng 10/1993. Từ đó đến nay, mối quan hệ Việt Nam – WB ngày càng được tăng cường và phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian này, nhiều Đoàn cán bộ cấp cao của WB đã sang thăm và làm việc tại Việt Nam để trao đổi với Chính phủ về tình hình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam và tìm hiểu nhu cầu hỗ trợ giúp của Chính phủ. Ban Giám đốc Điều hành của WB cũng cam kết sẽ tiếp tục cung cấp những hỗ trợ cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của Chính phủ, góp phần hỗ trợ Việt nam thực hiện thành công Chương trình Xoá đói Giảm nghèo và Phát triển Kinh tế Xã hội. Kể từ năm 1993 đến nay, mức cam kết cho Việt Nam ngày càng tăng. Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước vay ưu đãi lớn nhất từ IDA. Bên cạnh nguồn vốn vay ưu đãi IDA, Việt Nam bắt đầu triển khai vay vốn từ nguồn Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD) từ năm 2009. Như vậy, kể từ năm 2009, 17 Việt Nam đã trở thành nước vay hỗn hợp từ WB (tức là vừa vay từ nguồn IBRD và từ nguồn IDA). Vừa qua, WB đã thông qua Nghị quyết về điều chỉnh thời hạn vay IDA của các nước vay hỗn hợp, trong đó có Việt Nam, theo đó, thời hạn vay sẽ giảm từ 35 nă m với 10 năm ân hạn, không có lãi s uất, phí dịch vụ 0,75%/năm tính trên số vốn đã rút và phí cam kết tối đa là 0,5%/năm tính trên số vốn chưa rút xuống còn 25 năm với 5 năm ân hạn, lãi suất 1,25% (phí dịch vụ và phí cam kết vẫn giữ nguyên). Văn phòng đại diện của WB tại Việt Nam: Ngày 14/09/1994, WB chính thức mở Văn phòng tại Hà nội. Từ năm 1993 đến nay, WB đã bổ nhiệm nhiều cán bộ giữ chức vụ Giám đốc Văn phòng WB tại Việt nam: ông Bradley Babson (1993-1997), ông Andrew Steer (1997-2002), ông Klaus Rohland (2002 – 2007), ông Ajay Chibber (2007 – 2009) và hiện nay là Bà Victoria Kwakwa. III. TIN HOẠT ĐỘNG 1. Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia (CPS) Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia (CPS) giai đoạn 2012 – 2016 là Chiến lược hỗ trợ đầu tiên của WB dành cho Việt Nam kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Đây là Chiến lược được WB xây dựng để hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2015. Nội dung CPS lần này của WB tập trung chủ yếu vào hỗ trợ Chính phủ thực hiện các nội dung bao gồm: (i) tăng khả năng cạnh tranh của Việt Nam; (ii) tăng tính bền vững của quá trình phát triển; và (iii) mở rộng điều kiện tiếp cận các cơ hội kinh tế và xã hội. Đây là những nội dung mà Chính phủ Việt Nam cho rằng là phù hợp với các nội dung đột phá của Kế hoạch Phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2015 của Việt Nam (Tăng cường nền tảng thể chế, phát triển cơ sở hạ tầng và con người). 2. Tài trợ cho các chương trình/ dự án: Tính đến tháng 2 năm 2012, các khoản cam kết tài chính của Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam (bao gồm cả IBRD và IDA) trị g iá gần 15 tỷ USD cho 111 dự án.Các khoản tín dụng này tập trung vàolĩnh vực cơ sở hạ tầng, bao gồm giao thông và phát triển đô thị, phát 18 triển nông thôn, năng lượng, quản lý tài nguyên nước, cải cách hành chính công, tài chính, giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội, và môi trường. Chỉ tính riêng trong tài khoá năm 2011 (tính từ tháng 7/2010 đến 30/6/2011), WB tài trợ cho Việt Nam tổng số tiền là 2.348 tỷ USD cho 13 chương trình/dự án (trong đó: vay từ nguồn IBRD là 1,081 IBRD; vay từ nguồn IDA là 1,267). Đối với tài khoá 2012 (bắt đầu từ 01/7/2011 đến 30-6/2012), WB đã cam kết tài trợ cho Việt Nam tổng số tiền 2,197 tỷ USD (trong đó: 1,597 tỷ USD từ nguồn IDA; và 600 triệu USD từ nguồn IBRD) (trong Tài khoá 2012 này, Việt Nam vẫn tiếp tục là một trong những nước được phân bổ nhiều nguồn vốn vay từ IDA). Trong tổng số vốn cam kết này, tính đến tháng 11/2011, ta đã đàm phán với WB 02 dự án với tổng trị giá 307 triệu USD. Dự kiến, số vốn còn lại sẽ được đàm phán với WB trong thời gian từ nay đến tháng 6/2012. 3. Hỗ trợ kỹ thuật và các báo cáo: Các hỗ trợ kỹ thuật của WB dành cho Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực như: hỗ trợ chuẩn bị và xây dựng các dự án do WB tài trợ, phát triển thể chế nhằm xây dựng và nâng cao năng lực quản lý điều hành của một số ngành và cơ quan liên quan đến dự án, xây dựng và phát triển chính sách nhằm nâng cao khuôn khổ chính sách, pháp lý cho các dự án hạ tầng cơ sở... Ngoài ra, hàng năm WB còn cử các đoàn vào Việt Nam phối hợp với các Bộ/ngành soạn thảo và phát hành các báo cáo kinh tế, báo cáo ngành, xây dựng Chiến lược Đối tác Quốc gia (CPS). Đặc biệt, trong thời gian qua WB đã phối hợp với các quan hữu quan của Việt Nam hoàn thành dự thảo Chiến lược Đối tác Quốc gia, làm cơ sở cho các hoạt động hợp tác cho giai đoạn (2011-2015). Theo dự kiến văn bản này sẽ được Ban Lãnh đạo WB thông qua vào ngày 15/12/2011. Ngoài ra, vừa qua, WB đã cam kết sẽ phối phối hợp với IMF để hỗ trợ Việt Nam thực hiện Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính (FSAP) để giúp Việt Nam đánh giá tổng thể khu vực tài chính, từ đó có kế hoạch tăng cường năng lực nhằm đáp ứng với nhu cầu của sự phát triển kinh tế. Trong thời gian tới, WB/IMF sẽ phối hợp với Việt Nam tiến hành các công việc cần thiết để xây dựng Chương trình và chuẩn bị cho quá trình thực hiện (dự kiến triển khai vào cuối năm 2012). 19 4. Tư vấn chính sách: Trong thời gian qua WB còn hỗ trợ Việt Nam trong việc đưa ra tư vấn về chính sách giúp Việt Nam hoàn thiện khuôn khổ thể chế trên mọi lĩnh vực và giúp Việt Nam ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. 5. Điều phối các nhà tài trợ: Hàng năm, Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) do WB đồng chủ tọa được tổ chức nhằm vận động các nhà tài trợ cung cấp hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và điều phối viện trợ giữa các nhà tài trợ cho Việt Nam. Đây là một diễn đàn giữa Chính phủ Việt Nam và đại diện của khoảng 50 các nhà tài trợ song phương và đa phương cho Việt nam. Các tổ chức phi chính phủ Việt Nam và quốc tế, các đại diện của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam tham gia Hội nghị với tư cách quan sát viên. Hội nghị CG được tổ chức 2 lần/năm: Hộ i nghị chính thức thường được tổ chức vào tháng 12 hàng năm tại Hà nội. Hội nghị không chính thức giữa kỳ được tổ chức vào tháng 5 hoặc tháng 6 hàng năm. 6. Hài hoà hoá thủ tục: WB là một trong những nhà tài trợ đi tiên phong trong việc thực hiện Cam kết Hà Nội bằng cách tăng cường tài trợ thông qua các phương thức tiếp cận chương trình, ngành, quốc gia. Cách tiếp cận chương trình có những đặc tính sau: (i) Vai trò lãnh đạo của nước tiếp nhận, (ii) Chương trình tổng hợp và khung ngân sách duy nhất, (iii) Quá trình phối hợp tài trợ và hài hoà thủ tục và (iv) Nỗ lực sử dụng nhiều hơn quy trình và quy định của Chính phủ trong toàn bộ chu trình. Các phương thức cung cấp hỗ trợ của WB ở Việt Nam trong tương lai s ẽ bao gồm dự án, chương trình, hỗ trợ ngân sách chung và hỗ trợ ngân sách có mục tiêu nhằm khuyến khích nâng cao hiệu quả và hiệu lực của việc cung cấp vốn vay. Trong thời gian qua, WB cũng tích cực phối hợp với Chính phủ và 5 Ngân hàng trong việc rà soát, đánh giá và triển khai các sáng kiến hài hoà, đơn giản hoá thủ tục nhằm hướng tới việc đẩy nhanh giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn của các dự án ODA. 7. Các chương trình hỗ trợ ngân sách trực tiếp của WB cho Việt Nam: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan