1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tổ chức lãnh thổ kinh tế là sự sắp xếp các thành phần trong mối liên hệ đa
ngành, đa lãnh thổ ở một vùng nhằm đạt hiệu quả cao nhất về các mặt kinh tế, xã
hội, môi trường và phát triển bền vững trên cơ sở sử dụng hợp lý các nguồn lực.
TCLTKT hợp lí được xem là một trong những giải pháp có tính nghệ thuật hàng
đầu để phát huy tốt nhất các nguồn lực phát triển và có thể khắc phục được tình
trạng chồng chéo, quá tải về sức chứa lãnh thổ cũng như giải quyết tốt tình trạng
phát triển rời rạc giữa các lãnh thổ với nhau và giữa các ngành trong một lãnh thổ
để hướng tới sự phát triển bền vững. [105,tr.349]
Nghệ An là một tỉnh nằm ở vùng Bắc Trung Bộ (BTB), có diện tích tự nhiên
lớn nhất cả nước, điều kiện thuận lợi cho phát triển KT - XH không ít, nhưng vẫn bị
xếp vào một trong những tỉnh có trình độ phát triển kinh tế thấp của cả nước. Cơ
cấu kinh tế của tỉnh chậm phát triển với 28,4% GDP nông nghiệp, lao động nông
nghiệp chiếm hơn 2/3 trong tổng số lao động toàn tỉnh, gần 87% dân cư sống ở
nông thôn, thu nhập bình quân đầu người chỉ bằng 62,3% trung bình chung cả nước
(năm 2010). Người dân xứ Nghệ thông minh, sáng tạo, chịu thương chịu khó nhưng
chỉ số phát triển con người vẫn chỉ ở mức trung bình.
Cho đến nay, Nghệ An đã tiến hành điều tra nghiên cứu, quy hoạch tổng thể
phát triển KT - XH cả theo ngành và theo không gian, một số hình thức TCLTKT chủ
yếu đã hình thành và phát triển như trang trại, vùng CMH; KCN, trung tâm công
nghiệp; điểm, khu, đô thị, tuyến du lịch; khu kinh tế, trung tâm kinh tế, tiểu vùng kinh
tế… Tuy nhiên, TCLTKT của tỉnh chưa thật sự hợp lí, các hình thức TCLTKT chưa
phát huy hết hiệu quả theo thế mạnh của lãnh thổ cho phát triển kinh tế chung. Đây là
một trong những nguyên nhân chính lý giải vì sao phát triển KT – XH của tỉnh Nghệ
An còn ở trình độ thấp.
Nghiên cứu một cách hệ thống về “Tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Nghệ An”
nhằm đánh giá khách quan nguồn lực, thực trạng TCLTKT, làm cơ sở để TCLTKT
hợp lý hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của tỉnh theo hướng công
2
nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH - HĐH), sớm trở thành một tỉnh phát triển khá là
nhiệm vụ cấp thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Đề tài làm sáng tỏ các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng TCLTKT theo ngành,
theo không gian ở tỉnh Nghệ An. Từ đó, đề xuất một số định hướng và giải pháp
nhằm TCLTKT của tỉnh hợp lý, có hiệu quả và bền vững trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là:
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn về TCLTKT; xác định các chỉ
tiêu đánh giá thực trạng TCLTKT cho cấp tỉnh.
- Đánh giá các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến TCLTKT tỉnh Nghệ An.
- Phân tích thực trạng TCLTKT tỉnh Nghệ An theo ngành và theo không gian trong
giai đoạn 2001 – 2010.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm phát triển và hoàn thiện các hình
thức TCLTKT tỉnh Nghệ An một cách hợp lý, hiệu quả và bền vững.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án đánh giá các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến TCLTKT tỉnh Nghệ
An và một số hình thức TCLTKT tiêu biểu của tỉnh theo ngành và theo không gian.
+ Đối với các hình thức TCLTKT theo ngành, đề tài phân tích một số hình thức
tiêu biểu của TCLT các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Trong đó, về
công nghiệp, luận án kế thừa và làm rõ thêm về khu công nghiệp; về nông nghiệp,
hình thức được lựa chọn phân tích là trang trại; trong dịch vụ, TCLT du lịch được
xác định là trọng tâm nghiên cứu với các hình thức: điểm du lịch, khu du lịch, đô
thị du lịch, tuyến du lịch.
+ Đối với các hình thức TCLTKT theo không gian, đề tài tập trung nghiên cứu một số
hình thức đang được triển khai và đặc trưng cho Nghệ An - tỉnh có lãnh thổ lớn nhất
nước ta là: Khu kinh tế (KKT), trung tâm kinh tế và tiểu vùng kinh tế. Riêng về tiểu
vùng kinh tế, đề tài thừa nhận ranh giới các tiểu vùng đã được tỉnh quy hoạch (dựa
3
trên ranh giới hành chính cấp huyện) và đánh giá theo các tiêu chí xác định, đó là
các tiểu vùng: Phía Đông, Tây Bắc và Tây Nam.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu toàn bộ lãnh thổ tỉnh Nghệ An với 17 huyện, 2 thị
xã (TX) và 1 thành phố (TP), trong đó có chú ý so sánh với vùng BTB và cả nước.
- Về thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu giai đoạn 2001 – 2010 và tầm nhìn đến 2020.
4. Lịch sử nghiên cứu đề tài
4.1. Ở nước ngoài
Ngay từ đầu thế kỷ XIX, trên thế giới đã có những công trình mà sau này đã trở
thành lý thuyết cơ sở để nghiên cứu và triển khai việc tổ chức nền sản xuất xã hội
theo lãnh thổ, như: Lý thuyết "Phát triển các vành đai nông nghiệp" của V.Thunen
(1833), lý thuyết "Định vị công nghiệp" của A.Weber (1909), lý thuyết "Vị trí trung
tâm " của W.Christaller (1933)... Trong đó, công trình của W.Christaller đã dựa trên
cơ sở của “lực đẩy”, “lực hút” để xác định khoảng ảnh hưởng của các trung tâm
trong từng vùng và những khu vực trống vắng giữa các trung tâm đô thị [115].
Đến thế kỷ XX, các nghiên cứu về TCLT nền sản xuất được tiến hành sâu rộng
hơn, điển hình là lý thuyết: "Cực tăng trưởng" của Francoi Perroux (1950) nhấn
mạnh lợi thế của phát triển không cân đối theo lãnh thổ.
Năm 1947, nhà bác học người Nga N.N. Koloxopski đã đưa ra lý thuyết về
phát triển tổng hợp sản xuất lãnh thổ, trong đó ông đã đề xuất nhiều vấn đề lý luận
và những giải pháp thực tiễn về TCLT cho những vùng lãnh thổ giàu tài nguyên,
xem tổ hợp nông – công nghiệp như những thành phố hạt nhân [dẫn theo 106]. Lí
thuyết này cũng khẳng định tính liên tục giữa các khâu trong quá trình sản xuất
khép kín để có giải pháp phân bố chúng. Nghiên cứu của Koloxopski đã đưa ra một
phương pháp nghiên cứu liên ngành có hiệu quả, cho phép nghiên cứu vùng một
cách đầy đủ và toàn diện hơn.
Ở Anh, trong các công trình tiêu biểu của Peter Haggett và các cộng sự như:
“Phân tích không gian trong địa lý kinh tế” (1965), “Các mô hình địa lý” (1967) và
“Địa lý học: một sự tổng hợp hiện đại” (1975), TCLTKT được nghiên cứu theo
hướng mô hình hóa, áp dụng các phương pháp định lượng.
4
Nghiên cứu về tổ chức không gian cũng được coi trọng trong địa lý Hoa Kỳ vào
những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX. Điển hình cho sự nghiên cứu này là các
công trình: “Tổ chức không gian, cách nhìn thế giới của các nhà địa lý” của R.Abler,
J.Adams và P.Gould…
Nhìn chung, những nghiên cứu trên tập trung tìm các quy luật TCLT ở các cấp,
quan tâm đến tính chất đúng đắn của việc bố trí các điểm dân cư trong sự tương quan
với phát triển kinh tế để tạo ra một mạng lưới tối ưu các điểm đó. Mặc dù còn nhiều
hạn chế về phương pháp luận và thiên về quan điểm kinh tế chủ nghĩa hoặc quá lạm
dụng các mô hình toán học, vật lý làm mất đặc trưng cơ bản của khoa học Địa lý kinh
tế nhưng những công trình này đã cơ bản đưa ra được những hướng nghiên cứu về
tính kết cấu và các mối liên hệ để xác định quy luật khách quan của sự phân bố. Theo
đó, Địa lý kinh tế mô tả được thay thế bởi Địa lý cấu trúc (Địa lý kinh tế hiện đại),
đánh dấu một bước phát triển mới của Địa lý học [dẫn theo 35].
Cuối thế kỷ XX, nghiên cứu TCLTKT chú trọng đến việc định vị vùng. Đại
diện cho hướng nghiên cứu này là Paul Krugman – một nhà kinh tế học người Mỹ.
Trong nghiên cứu của mình [116], ông đã đề xuất mô hình phát triển kinh tế quốc
gia lấy công nghiệp hóa làm nòng cốt và một nền nông nghiệp ngoại vi. Theo ông,
để tạo ra sự bứt phá trong phát triển kinh tế, các yếu tố đảm bảo là chi phí vận tải
thấp, sản xuất bền vững và xác định vị trí vùng với nhu cầu ngày càng lớn hơn. Việc
xác định đó phụ thuộc vào tính CMH của sản xuất. Sự khởi sắc của vùng trung tâm
hay ngoại vi phụ thuộc vào chi phí vận tải, các nguồn lực phát triển và đóng góp của
sản xuất vào thu nhập quốc gia.
Báo cáo phát triển thế giới 2009 [42] – quan điểm địa kinh tế mới cũng cho thấy
tầm quan trọng và xu hướng TCLTKT hiện nay là sự tích tụ - tập trung ở các thành
phố với sự di cư và CMH. “Không nước nào trở nên giàu có mà không phải thay
đổi…sản xuất theo không gian”, “các thành phố tăng trưởng, con người cơ động,
thương mại sôi động là những chất xúc tác cho sự tiến bộ của các nước phát triển
trong hai thế kỷ vừa qua. Ngày nay, chính những tác lực đó đang truyền lực cho
những nơi năng động nhất trong khối các nước đang phát triển” [42, tr.20].
5
4.2. Ở Việt Nam
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trong phát triển KT - XH đất nước, bắt đầu từ
những năm 60 của thế kỷ XX, Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu về phân bố và
TCLTKT, chẳng hạn nghiên cứu xây dựng KCN Việt Trì, khu gang thép Thái
Nguyên, KCN Biên Hòa, Quy hoạch vùng lúa Đồng Bằng sông Hồng, vùng bò sữa
Ba Vì... [theo 30].
Trong những năm 70, nghiên cứu TCLTKT tiếp tục được triển khai mà kết
tinh là Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất Việt Nam thời kì 1986 –
2000 với sự giúp đỡ của Liên Xô. Công trình đã lập tổng sơ đồ phát triển và phân
bố lực lượng sản xuất cho cả nước, sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất
cho các ngành, các vùng vĩ mô và các tỉnh... Từ năm 2001 đến nay, công tác nghiên
cứu lãnh thổ được gọi là Quy hoạch tổng thể KT - XH vùng và tỉnh, thuộc sự chỉ
đạo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư [theo 30].
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), nghiên cứu về TCLTKT
được tiến hành rộng rãi và thu hút được sự tham gia đông đảo của các nhà khoa học.
Trong đó, tiêu biểu là GS. Lê Bá Thảo với đề tài độc lập và trọng điểm cấp nhà
nước do ông làm chủ nhiệm: “Cơ sở khoa học của TCLT Việt Nam”[63]. Trong
công trình này, các nhà khoa học tiếp cận một cách hệ thống về tổ chức không gian
lãnh thổ Việt Nam, trả lời cho câu hỏi “Nên tổ chức không gian của lãnh thổ Việt
Nam như thế nào để phục vụ mục tiêu CNH – HĐH làm cho Việt Nam đến năm
2020 có thể trở thành một nước công nghiệp”. Cụ thể, các tác giả đã bàn về những
khía cạnh ảnh hưởng đến sự phân bố và các mối liên hệ không gian giữa các ngành
kinh tế, đưa ra sơ đồ định hướng TCLT Việt Nam trên cơ sở đảm bảo tính bền vững
của môi trường, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng khác nhau.
Trong cuốn “Tổ chức lãnh thổ KT – XH: một số vấn đề lý luận và ứng dụng ”
[106] và cuốn “Bàn về phát triển kinh tế (nghiên cứu con đường dẫn tới giàu
sang)”[105], các tác giả đã giới thiệu một cách tổng quát các vấn đề cơ bản về tổ
chức không gian KT - XH. Trong đó, quan trọng nhất là đã xác định được nội dung,
các hình thức TCLTKT, đưa ra các giải pháp để đảm bảo phương án tổ chức không
6
gian được thực hiện và phân tích các mối quan hệ giữa tổ chức không gian KT - XH
với các vấn đề như: phát triển cơ cấu lãnh thổ, xóa bỏ những vùng nghèo, lạc hậu,
CNH – HĐH đất nước, bảo vệ môi trường và đẩy mạnh sự tham gia vào phân công
lao động quốc tế.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về TCLTKT nói chung và ở Việt Nam nói riêng cũng
đã được một số nhà khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội trình bày trong các giáo
trình như Địa lý KT - XH đại cương [84], Địa lý kinh tế – xã hội Việt Nam [67,70].
Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học về TCLTKT cũng đã thực hiện ở quy mô cấp
vùng, liên tỉnh…, xác định các trung tâm kinh tế - cực phát triển và các tuyến trục
kinh tế, như Nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ TCLT và đề xuất các giải pháp
phát triển kinh tế xã hội vùng Tây Bắc dưới tác động của thủy điện Sơn La [1],
TCLTKT trọng điểm miền Trung Việt Nam [34], Nghiên cứu TCLT miền núi biên
giới phía Bắc phục vụ phát triển KT – XH thời kỳ CNH – HĐH đến năm 2020 (ví
dụ tỉnh Lào Cai) [35], TCLT Địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam [44], TCLT
đồng bằng sông Hồng và các tuyến trọng điểm [65]…
Một số đề tài luận án tiến sĩ đã bảo vệ cũng đề cập đến TCLTKT cả về mặt lý
luận và thực tiễn với việc đi sâu nghiên cứu từng lĩnh vực ngành như TCLT trồng và
chế biến sắn ở các tỉnh Đông Nam Bộ [60], TCLTCN [47], TCLT du lịch [39,66…].
Gần đây nhất đã có hai luận án tiến sĩ nghiên cứu về TCLTKT trên địa bàn
cấp tỉnh. Trong luận án “TCLTKT theo hướng phát triển bền vững ở tỉnh Vĩnh
Phúc” [54], tác giả Ngô Thúy Quỳnh (2009) đã đánh giá TCLTKT cấp tỉnh theo
ngành: công nghiệp (KCN tập trung, CCN, điểm công nghiệp), du lịch (khu du
lịch), nông, lâm nghiệp và đô thị bằng một hệ thống chỉ tiêu cụ thể. Tác giả Hoàng
Quý Châu (2011) nghiên cứu “TCLTKT tỉnh Bình Định” [19] với nhiều hình thức
cả theo ngành và theo không gian, trong đó chú trọng đến phát triển hành lang kinh
tế, gắn kết việc khai thác lãnh thổ ven biển với các lãnh thổ phía Tây của tỉnh và với
các quốc gia láng giềng.
4.3. Ở tỉnh Nghệ An
7
Nghiên cứu về TCLTKT tỉnh Nghệ An có các quy hoạch ngành và quy hoạch
tổng thể phát triển KT – XH được thực hiện theo các giai đoạn phát triển 1986 – 1990,
1991 – 2000, 2001 – 2010 và 2011 - 2020. Trong đó, Quy hoạch tổng thể phát triển
KT – XH tỉnh Nghệ An đến năm 2020 [91] xác định bộ khung phát triển kinh tế theo
lãnh thổ chung cho toàn tỉnh, bao gồm KCN, trang trại, khu du lịch, đô thị, tiểu vùng
kinh tế .v.v...; Đề án "Phát triển KT - XH miền Tây tỉnh Nghệ An đến năm 2010" [96]
và Báo cáo tổng hợp về chiến lược biển Nghệ An [95] nghiên cứu TCLT theo không
gian với hai vùng miền Tây và ven biển; Quy hoạch phát triển KKT Đông Nam [7]
định hướng phát triển lãnh thổ trọng điểm vào khu vực ven biển của tỉnh; Quy hoạch
tổng thể phát triển KT - XH Thành phố Vinh đến năm 2020 vạch ra kế hoạch phát triển
cho trung tâm kinh tế của tỉnh; các công trình còn lại nghiên cứu TCLTKT theo ngành:
công nghiệp, nông nghiệp, du lịch…[89,90,58,]
Nghiên cứu về Nghệ An dưới góc độ Địa lý học đã có một số luận án tiến sĩ,
tiêu biểu là: tiến sĩ Đào Khang trong luận án Đánh giá đất đai đồi núi Nghệ An và
đề xuất các mô hình sử dụng đất đai cho lâm – nông nghiệp (10 huyện miền núi)
[36] đã phân tích đánh giá đất đai vùng đồi núi Nghệ An và đề xuất một số mô hình
lâm – nông nghiệp nhằm khai thác hiệu quả hơn không gian đồi núi của tỉnh. Tiến sĩ
Nguyễn Thế Chinh (1995) Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng các tuyến điểm du
lịch tỉnh Nghệ An [20], đã xác định hệ thống các tuyến điểm du lịch trên địa bàn tỉnh
Nghệ An, làm cơ sở cho tổ chức lãnh thổ du lịch của tỉnh.
Tiến sĩ Lương Thị Thành Vinh (2011) trong luận án Tổ chức lãnh thổ công
nghiệp tỉnh Nghệ An [103] đã nghiên cứu một cách tổng hợp tổ chức lãnh thổ công
nghiệp của tỉnh Nghệ An, trong đó tập trung đánh giá hình thức nổi bật nhất là KCN.
Gần đây nhất (10/2012) là công trình nghiên cứu về TCLT nông nghiệp Nghệ
An [62] được công bố bởi tiến sĩ Nguyễn Thị Trang Thanh. Tác giả nghiên cứu sản
xuất nông nghiệp theo không gian ở tỉnh Nghệ An dưới 3 hình thức chính: trang
trại, vùng CMH, tiểu vùng nông nghiệp. Trong đó, trọng tâm nghiên cứu là trang
trại do vai trò nổi bật của hình thức TCLTKT này trong quá trình CNH – HĐH
nông nghiệp nông thôn tỉnh Nghệ An.
Dựa trên những kết quả của các công trình nghiên cứu về TCLTKT trên thế
giới và ở Việt Nam cũng như tỉnh Nghệ An, đề tài đã kế thừa hệ thống cơ sở lí luận
8
và thực tiễn về TCLTKT. Từ đó, vận dụng, bổ sung, cập nhật những vấn đề về
TCLTKT, làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, hệ thống về
TCLTKT trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu
5.1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một không gian nhất định và các hình
thức TCLTKT không phải được tổ chức một cách độc lập, riêng rẽ mà chúng có sự
gắn kết lẫn nhau, chịu sự chi phối của các quy luật phát triển, các nguồn lực phát
triển trên một lãnh thổ nhất định. Do đó, khi nghiên cứu phải đặt chúng trong thể
tổng hợp lãnh thổ mới thấy hết được hiệu quả cũng như tác động tương hỗ qua lại
giữa các hình thức này.
5.1.2. Quan điểm hệ thống
Mỗi hình thức TCLTKT là một bộ phận của cấp lãnh thổ chứa đựng nó. Trong
mỗi hình thức TCLTKT lại có các cấp tổ chức từ lớn đến nhỏ, tạo nên một hệ thống
hoàn chỉnh với những mối quan hệ đa dạng. Khi nghiên cứu phải đặt trong hệ thống
ấy để thấy được đặc thù cũng như sự so sánh hiệu quả và cách thức tổ chức của từng
hình thức tổ chức. Từ đó rút ra được những kinh nghiệm cần thiết trong TCLTKT
để quá trình này mang lại những hiệu quả cao hơn.
5.1.3. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh
Các hình thức TCLTKT hình thành và phát triển chịu sự tác động của các nhân tố
quá khứ, hiện tại cũng như tương lai. Khi nghiên cứu phải đặt chúng trong thế vận
động và phát triển không ngừng. Từ thực trạng phát triển để có thể dự báo, đề xuất các
phương án phù hợp với sự phát triển của tương lai. Vận dụng quan điểm này vào
nghiên cứu vấn đề nhằm đảm bảo tính thích ứng lâu dài của các hình thức TCLTKT.
5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển kinh tế phải gắn với sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
sinh thái mới đảm bảo phát triển bền vững. TCLTKT cũng phải đảm bảo nguyên tắc
đó. Điều này đồng nghĩa với việc TCLTKT phải đặt ra kế hoạch và cơ chế quản lý
9
phù hợp với việc khai thác các nguồn lực phát triển (bao gồm cả các nguồn lực tự
nhiên và KT - XH) đảm bảo cho các đối tượng này không bị suy thoái cả về số
lượng cũng như chất lượng. Do đó, khi xây dựng chỉ tiêu đánh giá TCLTKT, tác giả
cũng chú trọng đến tính hiệu quả dựa trên việc khai thác hợp lý các nguồn lực phát
triển và bảo vệ môi trường.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập, tổng hợp, xử lý phân tích tài liệu
Có rất nhiều công trình khoa học liên quan đến chủ đề nghiên cứu của tác giả, đây
là những nguồn tư liệu quý giá làm tài liệu tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu
vấn đề. Để có được những tài liệu đó, tác giả đã tự thu thập từ nhiều nguồn khác nhau,
như: từ các báo cáo, thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan ban ngành ở
Tỉnh Nghệ An: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và phát
triển nông thôn, Sở Văn hóa, thể thao và du lịch, Chi cục Thống Kê, ủy ban nhân dân
(UBND) tỉnh, UBND các huyện Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Tương
Dương, thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, Thái Hòa; từ thầy cô giáo, các đồng nghiệp; từ
sách, báo, giáo trình; từ mạng Internet...
Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, tác giả đã tổng hợp, xử lý và phân tích
các nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu của mình theo hướng kế thừa có chọn
lọc và phát triển mới.
5.2.2. Phương pháp so sánh
Trong nghiên cứu địa lý nói chung, nghiên cứu TCLTKT nói riêng, việc sử
dụng phương pháp so sánh là rất quan trọng, nó cho phép người nghiên cứu có
những nhận định đúng đắn khi đặt các đối tượng, lãnh thổ nghiên cứu trong một thể
tổng hợp (không gian) ở các cấp khác nhau (có điều kiện tương đồng), đồng thời có
thể thấy được sự biến đổi phát triển theo thời gian, từ đó có được sự dự báo về xu
hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu.
5.2.3. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp này được tác giả sử dụng để làm rõ một số vấn đề liên quan đến
nội dung nghiên cứu mà trong các tài liệu thu thập được không có hoặc có nhưng
10
chưa rõ ràng, đầy đủ và thiếu cập nhật. Các đối tượng tác giả phỏng vấn bao gồm: các
cán bộ chuyên trách ở các phòng ban, nông dân, công nhân, khách du lịch...
Đồng thời, tác giả cũng đã trao đổi và tiếp nhận sự góp ý từ các nhà khoa học
am hiểu về lĩnh vực TCLTKT và các vấn đề liên quan. Đặc biệt là từ các chuyên gia
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An, các giảng viên
chuyên ngành địa lý KT - XH của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các vấn đề
được tác giả đã lấy ý kiến bao gồm: Cơ sở lí luận của TCLTKT, quản lí tài nguyên
thiên nhiên trong phát triển kinh tế, phát triển các hình thức TCLTKT (thực tiễn và
kinh nghiệm), phát triển liên ngành, liên lãnh thổ, một số định hướng và giải pháp
phát triển TCLTKT. Những kinh nghiệm của các chuyên gia trong lĩnh vực này đã
góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện các nội nghiên cứu của đề tài.
5.2.4. Phương pháp thực địa
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu đề tài, tác giả đã tiến hành bốn đợt thực
tế nhằm thu thập bổ sung thông tin, tài liệu và kiểm chứng những nhận định trong
các báo cáo cũng như thấy được thực tế nguồn lực, mức độ khai thác nguồn lực và
phát triển kinh tế ở một số địa bàn của tỉnh Nghệ An. Đợt 1 kéo dài 5 ngày (từ 26/2
– 2/3/2010), ở các huyện thuộc tiểu vùng Tây Nam (cụ thể là huyện Tương Dương
và Kỳ Sơn). Đợt 2 kéo dài 3 ngày (từ 20/4 – 22/4/2010), khảo sát thực tế ở huyện
Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc và TX Cửa Lò (tiểu vùng phía Đông). Đợt 3 kéo
dài 4 ngày (từ 30/8 – 2/9/2010), quan sát nghiên cứu trên thực địa ở các huyện Quỳ
Hợp, Nghĩa Đàn và thị xã Thái Hòa (tiểu vùng Tây Bắc). Đợt 4 kéo dài 2 ngày (từ
ngày 18/12 – 19/12/2010), khảo sát thực địa ở KKT Đông Nam, KCN Bắc Vinh.
5.2.5. Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lý (GIS)
Để phục vụ cho việc phân tích thông tin và mô hình hóa không gian đối với
các đối tượng trên lãnh thổ nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phần mềm Map Info
và Arc View. Nội dung và đối tượng được tác giả đưa lên bản đồ bao gồm: tài
nguyên thiên nhiên, dân cư và nguồn lao động, cơ sở hạ tầng, thực trạng phát triển
cửa các hình thức TCLTKT phổ biến, mô hình TCLTKT Nghệ An trong tương lai.
5.2.6. Phương pháp dự báo
Trong việc xây dựng phương hướng phát triển TCLTKT Nghệ An, tác giả đã
tham khảo và sử dụng một cách có chọn lọc một số kết quả từ Quy hoạch tổng thể
11
phát triển theo ngành và quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH Nghệ An do Sở Kế
hoạch và Đầu tư, UBND tỉnh Nghệ An thực hiện. Đồng thời sử dụng phép ngoại
suy trên cơ sở phân tích thực trạng để đưa ra được những dự báo có tính khả thi.
6. Những đóng góp của luận án
- Kế thừa, bổ sung và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về TCLTKT để vận
dụng vào địa bàn cấp tỉnh, lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá thực trạng TCLTKT cấp
tỉnh theo ngành và theo không gian;
- Làm rõ được những thế mạnh và hạn chế của các nhân tố ảnh hưởng đến TCLTKT
tỉnh Nghệ An;
- Phân tích, đánh giá được một số hình thức TCLTKT tỉnh Nghệ An, trong đó vận
dụng hệ thống chỉ tiêu để làm rõ thực trạng của một số hình thức theo góc độ ngành
(đô thị du lịch) và theo không gian (KKT, trung tâm kinh tế, tiểu vùng kinh tế) trong
giai đoạn 2001 – 2010;
- Đề xuất định hướng và một số giải pháp TCLTKT tỉnh Nghệ An đến 2020, bao
gồm hệ thống giải pháp chung và các giải pháp cụ thể đối với từng hình thức
TCLTKT.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung của luận án gồm 150 trang,
được chia thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về TCLTKT
- Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng TCLTKT tỉnh Nghệ An giai đoạn
2001 – 2010
- Chương 3: Định hướng và giải pháp TCLTKT tỉnh Nghệ An đến 2020
12
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC
LÃNH THỔ KINH TẾ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Các lý thuyết có liên quan
1.1.1.1. Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là một quá trình liên tục, hình thành và phát triển
cùng với tiến trình lịch sử của nhân loại, được khởi đầu và kết thúc bởi sự trao đổi
hàng hóa [106]. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hóa (CMH) sản
xuất và từng ngành nghề riêng biệt làm cho hoạt động sản xuất ngày càng đa dạng,
phong phú và rộng khắp.
Phân công lao động xã hội được biểu hiện cụ thể dưới hai hình thức cơ bản
nhất là phân công lao động theo ngành và phân công lao động theo lãnh thổ.
Phân công lao động xã hội theo ngành là việc tổ chức lao động xã hội theo các
ngành để tạo ra những sản phẩm cụ thể đáp ứng yêu cầu của xã hội. Nó phát triển từ
thấp đến cao; từ nông nghiệp đến công nghiệp và dịch vụ, phản ánh trình độ phát
triển nền kinh tế của một lãnh thổ cụ thể [106]. Phân công lao động xã hội theo
ngành có xu hướng tạo ra sản phẩm hàng hóa với số lượng ngày càng lớn và chất
lượng ngày càng cao. Từ đó tạo ra sự chuyển biến tương ứng về phân công lao động
xã hội theo lãnh thổ.
Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ là việc tổ chức lao động xã hội theo
ngành gắn với lãnh thổ, làm cho lãnh thổ có chức năng tương đối riêng và công
năng tương đối khác nhau. Quá trình thực hiện cụ thể hóa phân công lao động xã
hội theo lãnh thổ cũng chính là việc tiến hành phân công lao động xã hội ở các cấp
lãnh thổ nhỏ hơn và đồng thời với việc phát huy tác dụng của các mối liên hệ kinh
tế giữa các lãnh thổ [106].
Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ, một mặt tạo ra sự cân đối hợp lý giữa
các vùng trong một quốc gia, giữa các địa phương, các thành phố trong một vùng,
mặt khác, với sự chuyên môn hóa – sản xuất những ngành riêng biệt lại tạo ra màu
sắc riêng (tính khác biệt) cho mỗi vùng – lãnh thổ.
13
Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ được coi là cơ sở khoa học để xem xét
cách kết hợp sản xuất với tự nhiên trên phạm vi các cấp lãnh thổ (huyện, tỉnh, vùng,
quốc gia và cả quốc tế...). Do đó có thể thấy rằng phân công lao động xã hội có mối
liên hệ mật thiết với TCLTKT, là cơ sở nền tảng để TCLTKT.
1.1.1.2. Một số lý thuyết và quan điểm liên quan đến TCLTKT
a. Lý thuyết định vị công nghiệp (1909)
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn về vấn đề định vị của các xí nghiệp công nghệp
ở Đức, năm 1909, A.Weber công bố Über den Standort der Industrie (Theory of the
Location of Industries – lý thuyết về sự định vị trong công nghiệp). Trong công
trình của mình, dựa trên nguyên tắc “Cực tiểu hoá chi phí, cực đại hóa lợi nhuận”,
A.Weber đưa ra mô hình không gian về phân bố công nghiệp. Theo ông, để xác
định địa điểm bố trí một xí nghiệp công nghiệp cần phải quan tâm tới ba yếu tố
chính: vận tải, lao động và tập trung. Cụ thể: chi phí vận tải rẻ nhất (được coi là
nguyên nhân căn bản), chi phí về nhân công rẻ nhất và là nơi có xí nghiệp tập trung
để có thể sử dụng phế liệu làm nguyên liệu rẻ tiền.[29]
Lý thuyết của A.Weber thực ra là “một hệ quy chiếu của kinh tế học thuần túy
trong lĩnh vực không gian”, chứng minh tầm quan trọng của sự định vị trong việc
làm giảm các chi phí nói trên. Những đề xuất của A. Weber tuy đơn giản nhưng có
giá trị thực tế, cắt nghĩa được một cách hợp lý sự định vị công nghiệp của một hay
một vài xí nghiệp. Tuy nhiên, ngày nay với sự lớn mạnh của nền công nghiệp thế
giới và của từng quốc gia, hình thức sử dụng không gian mới của công nghiệp đã
xuất hiện và phát triển nhanh. Hình thức định vị mới đó bao gồm nhiều xí nghiệp
được xây dựng tập trung trên cùng một phạm vi lãnh thổ và được biểu hiện dưới
nhiều hình thức, như: KCN tập trung, khu chế xuất hay CCN.[63]
Trong điều kiện CNH – HĐH diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, định vị công
nghiệp dựa trên ba yếu tố trên là chưa đủ, chúng không đảm bảo sự phát triển lâu
dài bởi tác động môi trường do hoạt động công nghiệp là rất lớn. Do đó, bố trí
không gian sản xuất công nghiệp còn phải chú ý đến đánh giá tác động môi trường
và các biện pháp khắc phục.
b. Lý thuyết “Vị trí trung tâm” (1933)
W.Christaller và A.Losch, hai nhà bác học người Đức đã góp phần to lớn
14
trong việc khám phá quy luật phân bố không gian và nghiên cứu các hệ thống
không gian cơ sở để xác định các nút trọng điểm bằng lý thuyết “Vị trí trung tâm”
(Central Place Theory).
W.Christaller cho rằng, vùng không thể phát triển nếu không có trung tâm hạt
nhân (thành phố), giữ vai trò đầu tàu lôi kéo sự phát triển của cả lãnh thổ; không có
nông thôn nào lại không chịu chỉ đạo của một cực hút, đó là thành phố. Ông đề xuất
mô hình bố trí các điểm dân cư theo hình lục giác. Trong đó, các trung tâm tồn tại
theo nhiều cấp, từ cao tới thấp với quy mô thị trường khác nhau. Bán kính giữa các
trung tâm chính là vùng ảnh hưởng và vùng tiêu thụ hàng hóa của chúng.
Lý thuyết trung tâm của Christaller sau đó đã được nhà bác học người Đức –
A.Losch bổ sung và phát triển. A.Losch cho rằng có một điểm trung tâm quan trọng
nhất là thành phố, đầu mối của toàn bộ hệ thống các điểm dân cư. Vai trò thương
mại và dịch vụ của nó tác động mạnh mẽ đến các khu vực lân cận chịu ảnh hưởng
của thành phố [72, tr.11].
Kết quả nghiên cứu của W.Christaller và A.Losch có ý nghĩa mở đường cho
việc nghiên cứu các hệ thống không gian hoặc xác định các nút trọng điểm trong
một lãnh thổ nhất định.Trong TCLT KT cấp tỉnh, có thể vận dụng nó để xác định hệ
thống đô thị làm bộ khung lãnh thổ cho sự phát triển kinh tế chung và tạo cơ sở cho
việc xây dựng các cực tăng trưởng, cực phát triển kinh tế.
c. Lý thuyết cực tăng trưởng (1950)
Lý thuyết cực tăng trưởng được đề xướng vào năm 1950 bởi nhà kinh tế học
người Pháp F.Perrous, sau đó được A.Hirshman, G.Myrdal, Friedman và
H.Richardson tiếp tục nghiên cứu và phát triển. Theo lý thuyết này, sự phát triển
kinh tế không phải diễn ra một cách đồng đều theo một tốc độ như nhau trên tất cả
các lãnh thổ, mà có xu hướng phát triển nhất ở một vài nơi. Những nơi đó có mức
tăng trưởng cao hơn nhờ vào sự phát triển của các ngành chủ đạo (leading industry)
với năng lực đổi mới và khả năng mang lại lợi nhuận cao. Các ngành chủ đạo
thường tập trung tại một số thành phố lớn và được ưu tiên phát triển trở thành “cực
tăng trưởng”. Tập trung hóa về mặt lãnh thổ đạt tới một mức nhất định và sau đó
hiệu ứng lan tỏa sẽ làm cho các cơ hội phát triển mới bắt đầu xuất hiện ở nhiều địa
phương khác. Kết quả là sự phát triển của một cực như một lãnh thổ trọng điểm sẽ
15
có tác dụng như những “đầu tàu” lôi kéo sự phát triển của các vùng lãnh thổ khác,
tạo điều kiện cho nền kinh tế cả nước phát triển nhanh và mạnh hơn.[40,tr.14]
Lý thuyết này chú trọng vào những lãnh thổ làm phát sinh sự tăng trưởng kinh
tế, đó là cực phát triển và cực tăng trưởng. Cực phát triển là những trung tâm đã có sự
phát triển hoàn thiện hoặc tương đối hoàn thiện, có khả năng thúc đẩy sự tăng trưởng
đối với các khu vực xung quanh với những tác động lôi cuốn đa dạng và thể hiện
khác nhau theo các hoàn cảnh địa lý cụ thể. Cực tăng trưởng là các trung tâm mới
hình thành và đang phát triển, là các cực vệ tinh của cực phát triển. Trên cơ sở “lực
hút” và “lực đẩy” của mỗi trung tâm, hình thành nên vùng ảnh hưởng của nó tới xung
quanh. Từ triển vọng phạm vi ảnh hưởng của mỗi trung tâm người ta có thể xác định
được khu vực lãnh thổ để xây dựng điểm đô thị mới, làm cho tất cả các lãnh thổ đều
có đô thị hạt nhân.
Lý thuyết “Cực tăng trưởng” nhấn mạnh lợi thế của phát triển không cân đối
theo lãnh thổ. Đây là việc lý giải đúng đắn về sự cần thiết của phát triển kinh tế lãnh
thổ theo hướng đầu tư có trọng điểm. Do đó, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
các nước đang phát triển còn thiếu vốn cần kêu gọi đầu tư nước ngoài và thực tế nó
đã được áp dụng rộng rãi và khá thành công ở các nước châu Á, nhất là với các
nước ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Trong TCLTKT cấp tỉnh, lý thuyết của F.Perroux có thể được áp dụng để xây
dựng và phát triển các cực tăng trưởng và cực phát triển kinh tế nhằm khai thác và phát
huy những lợi thế của những lãnh thổ này, tạo ra khả năng thúc đẩy đối với sự phát
triển kinh tế của các lãnh thổ kế cận và toàn tỉnh.
d. Quan điểm phát triển phi cân đối
Đối với mỗi nền kinh tế quốc dân sẽ có những ngành, lĩnh vực có lợi thế phát
triển thành những ngành, lĩnh vực mũi nhọn; có những lãnh thổ do hội tụ được
nhiều điều kiện thuận lợi nếu tập trung đầu tư sẽ tạo ra được sự đột phá trong phát
triển, trở thành lãnh thổ động lực lôi kéo sự phát triển chung. Quan điểm phát triển
phi cân đối xuất phát vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX từ Trung Quốc: “muốn
đê toàn bộ đất nước trở nên phồn thịnh thì nhất quyết một số vùng phải giàu lên
trước những vùng khác” (Đặng Tiểu Bình) [40,tr.222]. Quan điểm này nhấn mạnh
16
đến sự đầu tư tập trung trên một lãnh thổ có các lợi thế so sánh – thực hiện phân
công lao động dựa trên những khác biệt về ưu thế tài nguyên thiên phú của lãnh thổ
nhằm tạo ra sự đột phá trong phát triển, rút ngắn khoảng cách tụt hậu [126]. Trung
Quốc đã rất thành công trong việc vận dụng quan điểm này vào thực tiễn phát triển
kinh tế đất nước với chiến lược hướng ra biển bằng việc đầu tư phát triển các khu
công nghiệp, KKT dọc ven biển.
Hiện nay, phát triển phi cân đối (có trọng điểm) là một trong những cách thức
các nước đang phát triển ứng dụng để giải quyết vấn đề khó khăn về vốn, tăng
cường thu hút đầu tư nước ngoài (cả về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý sản
xuất kinh doanh) một cách khá hiệu quả. Do đó, quan điểm này có ý nghĩa thực tiễn
đối với những nước đang phát triển như Việt Nam.
Đối với lãnh thổ cấp tỉnh có diện tích rộng như Nghệ An, do lợi thế và khả năng
khai thác chúng cho phát triển kinh tế không giống nhau giữa các lãnh thổ trên địa
bàn. Do đó, cần thiết có sự vận dụng quan điểm phát triển phi cân đối để tập trung
đầu tư cho một số lãnh thổ hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển kinh
tế như phía Đông, trung tâm kinh tế thành phố Vinh, KKT Đông Nam… Từ đó, tạo
nên sự lan tỏa trong phát triển kinh tế đối với các lãnh thổ lân cận cũng như thúc
đẩy sự phát triển kinh tế chung toàn tỉnh.
e. Quan điểm địa kinh tế mới
Quan điểm địa kinh tế mới cho rằng “phát triển kinh tế cần phải tập trung (mất
cân đối), còn xã hội thì tiến tới hội tụ (phát triển đồng đều)”. Theo quan điểm này,
một quốc gia thành công trong phát triển cần phải đeo đuổi các chính sách nhằm
đảm bảo một mức sống tương đối đồng đều giữa các vùng trong nước nhưng không
phải thực hiện bằng cách tạo sự tăng trưởng kinh tế mạnh thông suốt theo không
gian, mà phải theo phương châm “sản xuất kinh tế phải tập trung còn mức sống thì
hội tụ” [40,tr.15]. Quan điểm địa kinh tế mới có giá trị rất quan trọng trong tổ chức
không gian kinh tế. Muốn toàn bộ quốc gia trở nên phồn thịnh thì nhất thiết phải có
một số vùng giàu lên trước những vùng khác, tạo động lực cho tăng trưởng nhanh,
tích tụ các yếu tố vật chất cho quá trình thực hiện phát triển kinh tế chung của cả
nước. Tất nhiên, sự tập trung kinh tế sẽ dẫn tới chênh lệch mức sống theo không
17
gian. Tuy nhiên, vấn đề có thể dần được giải quyết khi quá trình phân phối hoạt
động kinh tế theo thời gian trở nên ổn định hơn. Thêm vào đó là những chính sách
của Chính phủ nhằm đảm bảo sự hội tụ về mặt xã hội là rất quan trọng.
1.1.2. Quan niệm, đối tượng, nội dung và nhiệm vụ của TCLTKT
1.1.2.1. Quan niệm
a. Tổ chức lãnh thổ
Khái niệm TCLT (Territorial organisation) hay tổ chức không gian (Spatical
organisation) được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu và sử dụng rộng rãi
như là một công cụ tư duy tổng hợp, công cụ tổ chức thực tiễn các hoạt động KT –
XH. Tuy nhiên, trên thực tế khái niệm này cũng được đưa ra với những thuật ngữ
khác nhau:
- Các nhà khoa học Liên Xô trước đây sử dụng thuật ngữ Phân bố lực lượng
sản xuất. Nền tảng cơ sở lý luận của phân bố lực lượng sản xuất là lý thuyết về
“Chu trình sản xuất – năng lượng” của N.N. Kôlôxôpky và “Thể tổng hợp lãnh thổ
sản xuất” của các nhà khoa học Xôviết. Theo họ, phân bố lực lượng sản xuất là sự
sắp xếp, bố trí và phối hợp các đối tượng hay thực thể vật chất cụ thể (đó là các hệ
thống sản xuất, hệ thống tự nhiên, hệ thống dân cư) trong một lãnh thổ xác định,
nhằm sử dụng một cách hợp lý các tiềm năng tự nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật của
lãnh thổ để đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường cao và nâng cao mức sống dân
cư của lãnh thổ đó [105].
Các nhà khoa học Xô Viết sau này phát triển phân bố lực lượng sản xuất theo
hướng TCLT, trong đó tiêu biểu là Xauskin. Ông cho rằng “Tổ chức xã hội theo
lãnh thổ là tạo ra một hệ thống sử dụng đất đai do những tập đoàn người khác nhau.
Hệ thống này làm cho các tập đoàn người ấy có thể cư trú được trên bề mặt trái đất,
khai thác các tài nguyên thiên nhiên, phân bố các điểm dân cư, tái sinh sản nòi
giống, phân bố các nguồn cung cấp nước và thực phẩm, các địa điểm sản xuất ra các
công cụ lao động, quần áo, giày dép và các vật liệu khác cần thiết cho đời sống,
phân bố xí nghiệp và khu vực chữa bệnh, nghỉ ngơi, khoa học, văn hóa, các nhà hát,
rạp chiếu phim...”.
18
- Các nhà khoa học của các quốc gia phát triển ở phương Tây theo hướng kinh
tế thị trường lại sử dụng phổ biến thuật ngữ Tổ chức không gian kinh tế. Nó được
hiểu là sự lựa chọn một lãnh thổ địa lý kiểu tổ chức tốt nhất các hoạt động kinh tế
của con người gắn với các hệ thống tự nhiên, làm cho tính liên tục của tự nhiên
được đảm bảo và phát huy được giá trị gián đoạn cho phép của các quá trình kinh
tế. Đây được xem như nghệ thuật kiến thiết và sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn
và có hiệu quả trên cơ sở xác định được sức chứa của lãnh thổ, tìm kiếm quan hệ tỉ
lệ hợp lý và liên hệ chặt chẽ trong phát triển kinh tế giữa các ngành và các lãnh thổ
nhỏ hay tiểu vùng trong một vùng cũng như đảm bảo mối quan hệ giữa các vùng
trong một quốc gia có tính tới mối liên hệ giữa các quốc gia với nhau. Nhờ có sự
sắp xếp có trật tự và hài hòa giữa các đối tượng trong lãnh thổ mà tạo ra một giá trị
mới lớn hơn, làm cho sự phát triển hài hòa và bền vững hơn.[105,tr.365]
Về bản chất, khái niệm “Phân bố lực lượng sản xuất” của các nhà khoa học
Liên Xô cũ và khái niệm “Tổ chức không gian kinh tế” của các nhà khoa học
phương Tây gần giống nhau. Đó đều là hành vi địa lý hướng tới sự công bằng giữa
các lãnh thổ, giữa trung tâm với ngoại vi, nâng cao mức sống cộng đồng tiến tới
phát triển bền vững.
Ở Việt Nam, TCLT đã được quan tâm nghiên cứu từ những năm 60. GS. Lê
Bá Thảo là người đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu này. Theo ông “Về khía
cạnh địa lí, có thể coi tổ chức lãnh thổ là một hành động của địa lí học có chủ ý
(géographie volontaire) hướng tới một sự công bằng về mặt không gian”. [16, tr.4]
Tổ chức lãnh thổ gồm nhiều thành phần liên kết chặt chẽ với nhau, bao gồm
TCLT kinh tế và TCLT xã hội.
b. Tổ chức lãnh thổ kinh tế
Tổ chức lãnh thổ kinh tế (hay tổ chức không gian kinh tế) là một khía cạnh của
tổ chức lãnh thổ và được hiểu là sự “sắp xếp” và “phối hợp” các thành phần (đã,
đang và dự kiến sẽ có) trong mối lên hệ đa ngành, đa vùng nhằm sử dụng một cách
hợp lý các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lý kinh tế, chính trị và cơ sở vật
chất kỹ thuật đã và sẽ được tạo dựng để đạt hiệu quả cao nhất về các mặt: kinh tế, xã
hội, môi trường và phát triển bền vững của một lãnh thổ [84,105].
19
1.1.2.2. Đối tượng
Với tư cách là đối tượng của TCLTKT, lãnh thổ được xem là một thực thể hay
hệ thống tự nhiên, KT – XH, có ranh giới xác định. Đó là một vùng hữu hạn về
phạm vi mà ở đó các yếu tố tự nhiên, nơi sinh sống của một cộng đồng xã hội có
những hành vi tác động vào tự nhiên, trực tiếp tổ chức KT – XH cho phù hợp với
đường lối chính trị và phát triển KT – XH của đất nước [106].
- TCLTKT theo các đối tượng quản lý và xây dựng kế hoạch phát triển của Nhà nước
bao gồm: vùng kinh tế, các đơn vị hành chính (tỉnh, các thành phố tương đương cấp
tỉnh, huyện, thị…).
- TCLTKT theo các khu vực đặc biệt là các đối tượng trọng điểm đầu tư, gồm có:
theo không gian (vùng kinh tế trọng điểm, hành lang kinh tế, tam giác tăng trưởng,
khu kinh tế…), theo ngành (khu công nghiệp, khu du lịch, vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên…).[84,tr.218]
1.1.2.3. Nội dung [105,tr.379-302]
* Kiểm kê, đánh giá các đối tượng mang tính chất nguồn lực của TCLTKT (vị trí
địa lý, các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, các điều kiện KT – XH).
Xác định lợi thế, khả năng khai thác cũng như những khó khăn cần khắc phục và
hiện trạng sử dụng lãnh thổ: tổng kết những kết quả đã đạt được, những tồn tại cần
giải quyết trong hiện trạng phát triển và phân bố kinh tế theo ngành, hiện trạng phát
triển kinh tế tổng hợp theo lãnh thổ; các hình thức TCLTKT.
* Lựa chọn các phương án TCLTKT dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn về TCLTKT
trên thế giới và quốc gia; tiềm năng, thực trạng TCLTKT của lãnh thổ; xem xét bối
cảnh quốc tế và khu vực có tác động trực tiếp đến nền kinh tế của lãnh thổ, bối cảnh
trong nước; chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; quy hoạch phát triển KT
– XH của tỉnh, vùng, quốc gia ... Các phương án TCLTKT được xây dựng phải đảm
bảo tính dài hạn và có các bước đi thích hợp.
* Đề xuất giải pháp thực hiện phương án TCLTKT từ những kết quả nghiên cứu
liên quan đến TCLTKT của lãnh thổ cả về mặt lý luận và thực tiễn.
20
1.1.2.4. Nhiệm vụ
TCLTKT có hai nhiệm vụ cơ bản là [84,tr.218]:
Thứ nhất, TCLTKT dự báo về mặt phát triển (mục tiêu, phương hướng phát
triển theo quan điểm thống nhất đối với các ngành, lĩnh vực trên phạm vi lãnh thổ
nghiên cứu – nghĩa là sẽ sản xuất gì, quy mô bao nhiêu, cơ cấu thế nào)
Thứ hai, TCLTKT luận chứng các phương án kiến thiết lãnh thổ (dự kiến phân bố
ở đâu cho có hiệu quả nhất) – tức là lựa chọn các hình thức TCLTKT cho tương lai.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến TCLTKT
1.1.3.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý là nhân tố tác động tổng hợp đến sự hình thành và phát triển của
các hình thức TCLTKT, nó có khả năng tạo ra những lợi thế cho phát triển, giúp
huy động tốt nhất các nguồn lực phát triển. Đồng thời, có thể tạo ra được mối liên
hệ trong sản xuất, trao đổi sản phẩm, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật, mở rộng
kinh tế trong và ngoài nước thông qua hệ thống giao thông (mạng lưới đường sá,
cảng biển, cảng hàng không...), giúp khắc phục được khó khăn, phát huy được lợi
thế trong quá trình phát triển và hội nhập của lãnh thổ.
1.1.3.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên nhiên nhiên được coi là yếu tố tiền đề, nền
tảng vật chất của TCLTKT.
Yếu tố địa hình ảnh hưởng sâu sắc đến đặc điểm tự nhiên của lãnh thổ. Đồng
thời tác động trực tiếp đến TCLTKT bằng việc tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó
khăn trong bố trí không gian sản xuất cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật
chất kỹ thuật.
Những đặc trưng về các điều kiện tự nhiên, nhất là nguồn tài nguyên đất, nước,
khí hậu, khoáng sản... của lãnh thổ quy định đặc điểm cơ cấu lãnh thổ, cường độ và
hướng di chuyển các mối liên hệ thông qua lịch sử và truyền thống khai thác của
vùng, quy định việc lựa chọn các hình thức TCLTKT. Sự thuận lợi của yếu tố này
có khả năng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
- Xem thêm -