Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật việt nam hiện nay tt...

Tài liệu Tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật việt nam hiện nay tt

.PDF
23
1735
50

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN THỊ KIM THƯ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 603801.07 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, 2017 Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN TRUNG TÍN Ph¶n biÖn 1: PGS.TS Bùi Ngọc Cường Ph¶n biÖn 2: TS. Nguyễn Văn Tuyến LuËn v¨n sÏ ®-îc b¶o vÖ tr-íc Héi ®ång chÊm luËn v¨n th¹c sÜ häp t¹i: Häc viÖn Khoa häc x· héi 13 giê 00 ngµy 25 th¸ng 10 n¨m 2017 Cã thÓ t×m hiÓu luËn v¨n t¹i: Th- viÖn Häc viÖn Khoa häc x· héi MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khó XIII, kỳ họp thứ 7 ngày 19 tháng 06 năm 2014 đã thông qua Luật công chứng 2014, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc xã hội hóa hoạt động công chứng của nước ta hiện nay. Từ ngày 1/5/2015, Nghị định số 29/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng năm 2014 có hiệu lực thi hành. Nghị định được ban hành với mục tiêu tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; thực hiện công khai, minh bạch, dân chủ, khách quan hoạt động công chứng theo lộ trình quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng về chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng; chính sách ưu đãi đối với Văn phòng công chứng thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn… Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công là điều quan trọng của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Vai trò của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công được nâng lên một tầm cao mới, không chỉ phát huy dân chủ tăng cường pháp chế mà còn nâng cao sức cạnh tranh khi đất nước đang tiến tới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Yêu cầu xã hội hóa dịch vụ công, trong đó có xã hội hóa công chứng một ngành dịch vụ pháp lý là hết sức cần thiết. Song song với xã hội hóa các hoạt động như luật sư, giám định tư pháp... thì xã hội hóa công chứng là chủ trương lớn của đảng và nhà nước 1 trong chiến lược caỉ cách tư pháp đến năm 2020. Bước ngoặt lớn đó là khi luật công chứng 2006 ra đời và cho đến nay là Luật công chứng 2014 đã cho phép thành lập nên các tổ chức hành nghề công chứng, một mô hình mới nhằm đáp ứng được những nhu cầu của xã hội và xu hướng chung của thế giới. Tuy nhiên việc ra đời của tổ chức hành nghề công chứng vẫn còn nhiều hạn chế mà luật công chứng chưa tiên liệu hết những vướng mắc, khó khăn và nhiều biến động, thêm vào đó là nhân thức của một số cán bộ và người dân về tổ chức này vẫn còn mơ hồ chưa hiểu rõ. Chính vì vậy tôi chọn đề tài Tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt Nam hiện nay làm đề tài luận văn kinh tế của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay ở nước ta đã có một số đề tài nghiên cứu về công chứng dưới góc độ như quản lý nhà nước về công chứng, xã hội hóa công chứng, thực trạng pháp luật về công chứng, hoạt dộng của công chứng, chứng thực... Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào nói về tổ chức hành nghề công chứng, là một tổ chức rất được quan tâm trong thời gian gần đây khi mà luật công chứng sửa đổi năm 2014 đã đi vào thực tế và đang còn gặp nhiều vướng mắc. Tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt Nam hiện nay là đề tài nghiên cứu tương đối hệ thống về tổ chức hành nghề công chứng thông qua những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn tổ chức hành nghề công chứng cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện của Luật công chứng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích - Mục đích của luận văn là từ những lý luận thực tiễn về công chứng làm sáng tỏ và phân tích rõ về tổ chức hành nghề công 2 chứng, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp luật về tổ chức này. 3.2 Nhiệm vụ - Phân tích những vẫn đề lý luận về cơ bản về tổ chức hành nghề công chứng - Phân tích thực trạng pháp luật về Tổ chức hành nghề công chứng - Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các quan hệ về tổ chức hành nghề công chứng - Phạm vi nghiên cứu: Tổ chức hành nghề công chứng ra đời từ yêu cầu tất yếu của xã hội là hoạt động xã hội hóa công chứng từ khi nghị định của chính phủ về công chứng, chứng thực có hiệu lực và khi có Luật công chứng ra đời năm 2006 và cho đến này là Luật công chứng sửa đổi năm 2014. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận được sử dụng là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; - Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài gồm: + Phương pháp tìm hiểu tư liệu: Là nghiên cứu về lý luận thông qua những tài liệu có liên quan đến tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng. Qua đó xây dựng lý thuyết của đề tài. + Phương pháp so sánh: Làm rõ sự giống và khác nhau, những điểm tiến bộ và phát triển của Luật công chứng 2014 so với Luật công chứng 2006 và các văn bản pháp luật quy định về công chứng 3 từ trước tới này. Từ đó đánh giá những thuận lợi và hạn chế trong thực tế thi hành Luật công chứng 2014, đề ra những giải pháp phù hợp giải quyết những khúc mắc còn tồn đọng. + Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là một phương pháp quan trọng trong quá trình nghiên cứu. Trên cơ sở các tài liệu, thông tin và dữ liệu thu thập được, tác giả sẽ phân tích, đánh giá, xem xét trên các khía cạnh. Qua đó tổng hợp lại để có những kết luận, những đề xuất mang tính khoa học, phù hợp với lý luận và thực tiễn công tác quản lý nhà nước về hoạt động công chứng; 6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận, luận văn đã hệ thống, phân tích, bổ sung những vấn đề có tính lý luận về công chứng và tổ chức hành nghề công chứng; chỉ ra những điểm khác trong tổ chức giữa phòng công chứng và văn phòng công chứng; những bất cập còn tồn tại trong Luật công chứng 2014 và đề xuất đưa ra những giải pháp phù hợp; Về thực tiễn, các luận cứ và giải pháp của đề tài có thể sử dụng được cho việc hoàn thiện các chế định pháp luật có liên quan đến tổ chức hành nghề công chứng trên thực tế; luận văn còn là tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu, đào tạo về luật học. 7.Kết cấu của luân văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức hành nghề công chứng; Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về tổ chức hành nghề công chứng; Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức hành nghề công chứng 4 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG Khái niệm và đặc điểm công chứng 1.1 Khái niệm: Việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề quan trọng có vai trò lý luận cũng như thực tiễn ảnh hưởng đến mô hình tổ chức cơ chế hoạt động của các phòng công chứng cũng như văn phòng công chứng. Chúng ta có những khái niệm khác nhau về công chứng trong các văn bản quy phạm pháp luật như: - Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước - Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 của chính phủ về công chứng chứng thực - Luật công chứng năm 2006 - Điều 2 khoản 1 Luật công chứng ngày 20 tháng 6 năm 2014 quy định: “ Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Đặc điểm của công chứng: 5 - Thứ nhất, công chứng là hành vi do công chứng viên thực hiện. Điều này phân biệt với chứng thực là hành vi do người đại diện của cơ quan hành chính công quyền thực hiện - Thứ hai, nội dung cơ bản của công chứng là xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các giao dịch, hợp đồng; tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài, hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt theo yêu cầu của công dân, tổ chức và chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật. - Thứ ba, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và có hiệu lực thi hành với các bên, những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng có giá trị chứng cứ không phải chứng minh đã được Luật công chứng (Khoản 3-Điều 5) và Bộ luật tố tụng dân sự (Điều 80, 83) quy định, trừ trường hợp văn bản công chứng bị Tòa án tuyên vô hiệu. 1.2 Tổ chức hành nghề công chứng Định nghĩa Tổ chức hành nghề công chứng là: phòng công chứng và văn phòng công chứng (Điều 23, Luật công chứng 2006). Theo quy định tại Điều 19 Luật công chứng 2014, Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Sở tư pháp nên kinh phí được nhà nước cấp và một phần kinh phí từ hoạt động công chứng được sử dụng tại đơn vị. Theo quy định tại Điều 22 của luật công chứng 2014, Văn phòng công chứng là tổ chức dịch vụ công được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh; phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên, không có thành viên góp vốn. 6 Đặc điểm của tổ chức hành nghề công chứng: - Là tổ chức mang tính dịch vụ pháp lý. Xét về bản chất, tổ chức hành nghề công chứng, là một loại hình doanh nghiệp cung cấp “dịch vụ công chứng”. Hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng hướng đến 3 lợi ích( CỦA Nhà nước, của các bên tham gia giao dịch và của chính phòng hoặc văn phòng) Lợi ích của phòng, văn phòng công chứng: được thu phí và thù lao công chứng theo quy định khi thực hiện các hoạt động công chứng, nhưng chủ yếu không vì lợi nhuận. + Tổ chức hành nghề công chứng thực hiện một số hoạt động có tính chịu trách nhiệm cao hơn. Cùng với một số điểm giống nhau thì phòng công chứng và văn phòng cũng có những điểm khác biệt như: + Công chứng viên thuộc Phòng công chứng là công chức, viên chức nhà nước được hưởng lương từ ngân sách còn văn phòng công chứng công chứng viên không phải công chức, viên chức. + Phòng công chứng có kinh phí được nhà nước cấp còn văn phòng là tự chủ tự chịu trách nhiệm về kinh phí hoạt động + Do đặc thù là tổ chức dịch vụ pháp lý nên cơ cấu tổ chức, hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng được quy định theo Luật công chứng; ngoài ra với hình thức hoạt động Văn phòng công chứng còn được quy định trong cả Luật doanh nghiệp. Điều này ứng với loại hình văn phòng công chứng. Văn phòng công chứng hoạt động theo loại hình Công ty hợp danh, hoạt động trên cơ sở tự chủ tài chính, hạch toán độc lập, tuy nhiên lại chịu sự quản lý khắt khe và chặt chẽ hơn so với các công ty hợp danh thông thường khác. 1.3 Quản lý nhà nước về tổ chức hành nghề công chứng 7 Quản lý nhà nước về tổ chức hành nghề công chứng có ý nghĩa rất lớn, đảm bảo cho sự hình thành, tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng nhằm đạt được mục tiêu đề ra đối với hoạt động công chứng. *) Bộ Tư pháp: Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện hoạt động quản lí nhà nước về công chứng *) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các biện pháp phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng; thành lập, giải thể,chuyển đổi Phòng công chứng, cho phép thành lập Văn phòng công chứng, thu hồi giấy phép hoạt động của Văn phòng công chứng; kiểm tra, thanh tra, xử lí vi phạm, giải quyết khiếu tố về công chứng; tổng hợp tình hình công chứng ở địa phương để báo cáo Bộ Tư pháp. *) Sở Tư pháp: Sở Tư pháp được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trao quyền quản lý các Phòng công chứng về mặt tổ chức, chăm lo cơ sở vật chất, hoạt động tuyên truyền, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm viên chức, nhân viên… *) Hội công chứng viên: Trước hết phải khẳng định công chứng viên là một nghề và cũng có rủi ro nghè nghiệp. Vì vậy Hội công chứng được thành lập để bảo vệ quyền lợi cho các công chứng viên. 8 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG 2.1.Nguyên tắc chuyển đổi, thành lập, giải thể tổ chức hành nghề công chứng  Đối với Phòng công chứng: - Luật quy định “ phòng công chứng chỉ được thành lập mới tại những địa bàn chưa có điều kiện phát triển văn phòng công chứng” ( điều 18). Quy định này thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đới với hoạt động công chứng, quan tâm đén vùng có điềukiện kinh tế khó khăn, phù hợp với ý chí nguyện vọng của người dân nơi đó. Tuy nhiên xét trên phương diện toàn cục thì các phòng công chứng do nhà nước thành lập vẫn phát huy tính tích cực của nó trong bối cảnh điều kiện kinh tế hiện nay, nhất là những nơi có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, khi mà những nơi này kinh tế chưa phát triển thì các giao dịch dân sự kinh tế còn rất hạn chế. Ở những nơi này việc phát triển các văn phòng công chứng là rất khó khăn, có nơi không có văn phòng công chứng việc xã hội hóa công chứng ở những địa bàn này còn nhiều bất cập. - Đối với những vùng có kinh tế, xã hội phát triển đủ điều kiện để xã hội hóa công chứng thì lúc này nhà nước và chính phủ xem xét xem có thể thực hiện được chủ trương xã hội hóa hay chưa, từ đó chuyển đổi mô hình phòng công chứng sang một hướng khác vừa có lợi cho nhà nước vừa có lợi cho phòng công chứng. - Theo quy định của Luật công chứng 2014, Phòng công chứng chỉ dược thành lập thại những địa bàn chưa có đủ điều kiện 9 phát triển được Văn phòng công chứng . Điều này được hiểu là các địa bản không thuộc vùng có điều kiện kinh tế khó khăn thì không được phép thành lập phòng công chứng. - Điều 21 Luật công chứng 2014 quy định trong trường hợp không cần thiết duy trì Phòng công chứng thì Sở Tư pháp lập đề án chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng. Tuy nhiên xoay quanh vấn đề này vẫn còn rất nhiều khó khăn như: tâm lý của cán bộ công chức; viên chức, vướng mắc trong việc xử lý tài sản, vấn đè giải quyết chế độ cho cán bộ công chức; viên chức và người lao động. - Ở những nơi hoạt động công chứng đã được xã hội hóa ở mức độ cao, không cần thiết duy trì phòng công chứng, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét giải thể. Do đó, có thể hiểu rằng, chỉ được giải thể Phòng công chứng khi không thể chuyển đổi sang Văn phòng công chứng.  Đối với Văn phòng công chứng: - Ngược lại, với Phòng công chứng thì chỉ được thành lập tại những địa bàn chưa có điều kiện phát triển được Văn phòng công chứng. Quy định này cho thấy rõ chính sách khuyến khích cho hoạt động xã hội hóa hoạt động công chứng. - Khác với Phòng công chứng, Điều 22 của Luật công chúng 2014 quy định về văn phòng công chứng thì văn phòng công chứng muốn thành lập phải có từ 2 công chứng viên hợp danh trở lên, được nhà nước giúp đỡ bằng các chính sách phù hợp theo quy định với từng vùng miền cụ thể. - Văn phòng công chứng hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, nhưng khác với doanh nghiệp khác, văn phòng công chứng phải hoạt động liên tục, không được ngắt quãng do các hợp 10 đồng, di chúc, giấy tờ đã công chứng vẫn còn hiệu lực, nên không thể giải thể. Trong trường hợp tổ chức nào đó do thua lỗ, không thể tồn tại được, thì phải thực hiện chuyển nhượng. - Về việc chấm dứt hoạt động của Văn phòng công chứng theo điều 31 của luật công chứng quy định. Tại hai điều trên có thể thấy nhiều điểm chung đó là văn phòng công chứng sẽ bị thu hồi giấy hoặc chấm dứt khi sáp nhập, hợp nhất hoặc khi hoạt động xảy ra nhiều sai phạm nghiêm trọng từ các hợp đồng giao dịch dân sự hoặc không có đủ công chứng viên như đăng ký hoạt động ban đầu... - Đối với việc hợp nhất hoặc sáp nhập văn phòng công chứng thì Điều 28 Luật công chứng 2014 quy định. Có thể thấy rằng, với hình thức sáp nhập, Văn phòng công chứng nhận sáp nhập vẫn giữ được tên cũ, tức là vẫn giữ được “thương hiệu” đã xây dựng trong suốt quá trình hoạt động lúc trước sáp nhập; đồng thời thu hút được thêm lượng khách hàng thân thiết đã làm với Văn phòng công chứng cũ bị sáp nhập. Với dạng hợp nhất, do hậu quả pháp lý là tạo ra một Văn phòng công chứng mới nên không thể tận dụng được danh tiếng của các Văn phòng công chứng hợp nhất đã có trước đó. Đây cũng là một bất lợi cho Văn phòng công chứng mới khi gần như phải gây dựng lại “thương hiệu” mới. - Theo Luật Công chứng năm 2014 thì Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh, phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên và không có thành viên góp vốn (Điều 22 khoản 1). Sở dĩ, Luật Công chứng năm 2014 quy định về tổ chức, hoạt động của Văn phòng công chứng như trên là nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế của mô hình Văn phòng công chứng hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân; xây dựng các 11 Văn phòng công chứng quy mô lớn, ổn định bảo đảm thống nhất về loại hình hoạt động Văn phòng công chứng . Có nguyên nhân khách quan là thiếu nguồn công chứng viên ở một số địa phương có điều kiện kinh tế chưa pháp triển như nói ở trên. Tuy nhiên, các nguyên nhân chủ quan cũng có tác động không nhỏ đến những hạn chế của quá trình chuyển đổi Văn phòng công chứng . Đó là nhiều địa phương chưa đánh giá hết tác động của quy định về chuyển đổi Văn phòng công chứng , do đó chưa có sự chuẩn bị đầy đủ, tích cực cho việc chuyển đổi. 2.2 Thực trạng pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng a) Thực trạng pháp luật về hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch Công chứng viên phải chịu trách nhiệm về tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch được công chứng (chịu trách nhiệm về mặt nội dung); về toàn bộ hợp đồng, giao dịch được công chứng và họ phải chịu trách nhiệm cá nhân cả đời về việc mà họ đã công chứng. Vì điều này mà tổ chức hành nghề công chứng đòi hỏi phải có chuyên môn nghiệp vụ và đạo dức nghề nghiệp cao. Bởi thế nên các công chứng viên đóng một vai trò rất quan trọng. Đối với phòng công chứng hay văn phòng công chứng thì việc các công chứng viên làm sai nguyên tắc, ký hợp đồng không đúng người hoặc ký khống... là thực trạng vẫn xảy ra mặc dù luật đã có những quy định xử phạt về vấn đề này song chưa thực sự đủ sức răn đe cho các tổ chức hành nghề công chứng. b) Thực trạng pháp luật về hoạt động công chứng bản dịch, chứng thực bản sao 12 . Việc công chứng viên công chứng bản dịch giấy tờ sẽ đảm bảo chất lượng bản dịch giấy tờ hơn so với việc các Phòng Tư pháp cấp huyện chứng thực chữ ký người dịch. Lý do là Luật hiện nay quy định việc dịch giấy tờ để công chứng phải do người dịch được cấp phép hành nghề dịch thuật thực hiện, người dịch phải ký và chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung bản dịch so với giấy tờ được dịch; công chứng viên phải kiểm tra các giấy tờ được dịch trước khi công chứng, công chứng viên chứng nhận chữ ký người dịch và chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của các giấy tờ được dịch, về tư cách pháp lý của người dịch và trình tự, thủ tục công chứng bản dịch giấy tờ đó. Quy định này nhằm ràng buộc trách nhiệm giữa công chứng viên với người dịch, người dịch phải chịu trách nhiệm nội dung bản dịch với công chứng viên, công chứng viên chịu trách nhiệm với người yêu cầu công chứng, do đó chất lượng bản dịch sẽ tốt hơn. Pháp luật qui định đối với tổ chức hành nghề công chứng thì chức thực bản sao giấy tờ đều phải có bản chính, chứng nhận chữ ký phải có người ký trước mặt công chứng viên để xác nhận đúng người đúng việc và tránh để trường hợp giả mạo giấy tờ hoặc chữ ký của người đó. Pháp luật qui định đối với tổ chức hành nghề công chứng thì chức thực bản sao giấy tờ đều phải có bản chính, chứng nhận chữ ký phải có người ký trước mặt công chứng viên để xác nhận đúng người đúng việc và tránh để trường hợp giả mạo giấy tờ hoặc chữ ký của người đó. Tuy nhiên trên thực tế thì một số các văn phòng công chứng thậm chí là phòng công chứng vẫn ký một số các giấy tờ bản sao mà không có bản chính, hoặc bản chính đã không còn nguyên vẹn nhứng vẫn được sao y bình thường. Ngoài ra việc sao y bản 13 chính không lưu lại bản photo tại nơi đóng dấu bản sao cũng gặp những ý kiến trái chiều cần xem xét. Mặc dù đã có quy định xử phạt cụ thể tuy nhiên chưa đủ sức răn đe với các tổ chức hành nghề công chứng. c) Thực trạng về hoạt động chứng thực chữ ký Chứng thực chữ ký là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người yêu cầu chứng thực. Xét về mặt bản chất, chứng thực chữ ký theo Nghị định 23 chỉ nhằm xác nhận, xác thực là người yêu cầu chứng thực chính là người đã ký chữ ký đó, tức là xác nhận về hình thức; còn nội dung giấy tờ, văn bản thì do người yêu chứng thực chữ ký chịu trách nhiệm. Nói như trên thì việc để cho tổ chức hành nghề công chứng làm chứng thực chữ ký cũng rất có lợi tuy nhiên cũng tồn tại những sai phạm là việc công chứng viên chứng nhận chữ ký không đúng người, hoặc một số các cơ quan không chấp nhận tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận chữ ký mà phải ủy ban nhân dân chứng nhận trong khi đó thì một số nơi xin xác nhận rất khó hoặc chủ tịch ký đi họp không có nhà khiến người dân chậm trễ công việc. Ngoài ra còn có một số các quy định khác như việc mua bảo hiểm nghề nghiệp công chứng viên chũng không được tuân thủ theo quy định, đa số các tổ chức hành nghề công chứng không mua bảo hiểm này cho công chứng viên, có lẽ vì chưa nhận thức hết được lợi ích của nó trong nghề nghiệp của mình. 14 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thành lập, chuyển đổi và giải thể tổ chức hành nghề công chứng Việc quy hoạch phát triển tổ chức nghề công chứng ở từng địa phương là cần thiết để đảm bảo cho người dân ở vùng sâu, vùng xa khi có yêu cầu công chứng cũng được phục vụ kịp thời, tiện lợi. Quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã đề ra giải pháp thực hiện là “xây dựng cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực tham gia hoạt động hành nghề công chứng… quy hoạch phát triển đội ngũ công chứng viên đến năm 2020 gắn với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020”. Đây là một đòi hỏi tất yếu đặt ra, chỉ có thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng theo quy hoạch khi và chỉ khi phát triển được một đội ngũ công chứng viên tương ứng về số lượng và chất lượng. Do vậy Nhà nước chỉ đạo cho Ủy ban nhân dân các tinh, thành phố nên tạo điều kiện cho tổ chức hành nghề công chứng phát triển và thành lập được ở nhiều nơi đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của từng vùng miền nhằm đáp ứng nhu câu của người dân một cách tốt nhất. Việc giải thể tổ chức hành nghề công chứng trong luật công chứng cũng nêu rằng: Chỉ thành lập Phòng công chứng ở những địa bản chưa có điều kiện phát triển được Văn phòng công chứng. Ở nơi nào đã có Văn phòng Công chứng thì Nhà nước cũng có thể chuyển đổi hoặc giải thể Phòng Công chứng để tinh giản biên chế, bộ máy, tiết kiệm kinh phí cho Nhà nước. Việc phát triển thêm tổ chức hành nghề công chứng trên từng địa bàn phải căn cứ trên sự phát triển kinh 15 tế, xã hội của địa bàn đó, không nên phát triển tràn lan dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh. . Việc Luật công chứng 2014 quy định hình thức của Văn phòng công chứng bắt buộc phải hoạt động theo loại hình công ty hợp danh mà bỏ đi hình thức Một thành viên như Luật công chứng 2006 nhằm mục đích đảm bảo sự hoạt động chặt chẽ của Văn phòng công chứng. Khi một công chứng viên không thể hành nghề (ốm, chết…) thì vẫn còn một công chứng viên khác vẫn hành nghề nhằm duy trì hoạt động của Văn phòng. Đối với phòng công chứng nếu không nhất thiết cần có thì có thể chuyển đổi sang văn phòng công chứng, tuy nhiên trước những khó khăn vướng mắc đã thấy thì muốn chuyển đổi sang văn phòng cần có đề án quy hoạch cụ thể. Đối với văn phòng công chứng khi giải thể cần xem xét vì làm ăn không có hiệu quả hay vì trong quá trình hoạt động để xảy ra nhiều sai phạm từ đó có hưởng xử lý cho phù hợp. 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng a) Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động công chứng hợp đồng giao dịch Trong điều kiện đang tồn tại song song hai hình thức vừa công chứng vừa cho phép UBND cấp xã chứng thực đối với các hợp đồng, giao dịch đòi hỏi phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để người dân hiểu biết được sự khác nhau về bản chất, giá trị pháp lý giữa công chứng và chứng thực. Chỉ khi hiểu rõ lợi ích của công chứng người dân mới tìm đến với các văn phòng công chứng. Đối với hoạt động chứng thực hợp đồng giao dịch cần tuyên truyền, phổ biến cho người dân hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc 16 công chứng cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của họ khi lập các văn bản, hợp đòng tại tổ chưc hành nghề công chứng chứ không phải đơn thuần như trước đây ra ủy ban nhân dân để lập các văn bản. Đồng thời cũng yêu cầu các Ủy ban nhân dân xã, phường thực hiện công tác tuyên truyền phổ biến cho người dân hiểu rõ để họ nắm được và ra tổ chức hành nghề cong chứng làm thủ tục cho đúng với quy định của pháp luật. Tăng cường nhiều hơn những buổi tập huấn nghiệp vụ để cac công chứng viên và chuyên viên pháp lý được trau dồi kiến thức chuyên môn, tiếp thu những văn bản luật mới có liên quan đến lĩnh vực công chứng như Luật đất đai, Luật bất động sản... Đưa ra nhiều chế tài xử phạt hơn nữa với các hành đong làm trái pháp luật của công chứng viên trong hoạt động công chứng để thúc đẩy tinh thần làm việc có trách nhiệm và nghiêm túc hơn, kỷ luật hơn. Tăng cường vị thế cho tổ chức hành nghề công chứng bằng những văn bản phối hợp liên nghành với các cơ quan có liên quan để hoạt động giao dich được thuận lợi hơn, Xây dựng được cơ sở dữ liệu thông tin về bất động sản, tạo nền tảng kết nối, chia sẻ thông tin giữa các tổ chức hành nghề công chứng với Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, các tổ chức tín dụng và các tổ chức, cá nhân có liên quan để khắc phục rủi ro trong hoạt động hành nghề của công chứng viên. b) Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động chứng thực bản sao, bản dịch Cần đẩy mạnh, đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng, chứng thực để nâng cao nhận thức, hiểu biết của cán bộ, 17 công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về tính chất, vị trí, vai trò, lợi ích thiết thực của hoạt động công chứng. Cần xây dựng các chính sách đồng bộ, thống nhất giữa các lĩnh vực, giữa Trung ương và địa phương đối với lĩnh vực công chứng. Về lâu dài cần nghiên cứu sửa đổi Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ bản gốc, chứng thực bản sao từ bản chính và các văn bản pháp luật liên quan theo hướng không giao cho UBND cấp xã mà giao cho các phòng công chứng, văn phòng công chứng thực hiện công chứng bản sao, bản dịch. Bên cạnh đó, những quy định khắt khe về bản sao cũng đã được Luật giảm nhẹ trách nhiệm của công chứng viên hơn nhiều so với trước đây, nên công chứng viên không phải quá cẩn trọng với một số giấy tờ của những năm trước đã cũ hoặc nhàu nát vậy công chứng viên thường dựa vào giất tờ đó ở thời điểm hoàn cảnh lịch sử nào mà xem xét giải quyết cho người dân chứ không phải từ chối. Tăng cường hơn nữa các lớp dạy tiếng nước ngoài cho công chứng viên và các cộng tác viên, chuyên dịch thuật để chuyên môn được nâng cao hơn bởi họ không chỉ chiu trách nhiệm về nội dung bản dịch mà còn chịu trách nhiệm về chứng thực bản dịch đó. Nên lưu lại giấy tờ bản sao để tránh các trường hợp dùng bản sao, con dấu giả để đi thực hiện các giao dịch dân sự. Mặt khác có thể giúp người dân hoặc cơ quan điều tra tra cứu các loại giấy tờ đó có nguồn gốc sao ở đâu và tại thời điểm đó có bản chính hay không, đó cũng là góp phần bảo vệ người dân và làm đúng theo quy định của pháp luật trên thực tế họ vẫn lưu bản sao giấy tờ. Nên có chính sách thu phí bản dịch hợp lý và thống nhất giữa các văn phòng công chứng và phòng công chứng tránh sự cạnh tranh không lành mạnh về giá cả 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan