Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật việt nam hiện nay...

Tài liệu Tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật việt nam hiện nay

.PDF
89
166
124

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ KIM THƯ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ Mã số: 603801.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS NGUYỄN TRUNG TÍN HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN THỊ KIM THƯ MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG… ..................................................................... ….5 1.1. Khái niệm và đặc điểm công chứng ................................................................. ..5 1.2. Tổ chức hành nghề công chứng .................................................................... …10 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG…… .................................................................... 19 2.1 Nguyên tắc chuyển đổi, thành lập, giải thể phòng công chứng… ..................... 19 2.2 Nguyên tắc thành lập, chuyển nhượng và chấm dứt hoạt động của Văn phòng công chứng… ........................................................................................... …..27 2.3 Về hợp nhất, sáp nhập Văn phòng công chứng…… ......................................... .38 2.4 Chuyển đổi văn phòng công chứng ................................................................... .40 2.5 Thực trạng pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng… ........ 43 2.6 Quản lý nhà nước về tổ chức hành nghề công chứng ................................... ….55 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG .................................................... …63 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thành lập và giải thể tổ chức hành nghề công chứng……...................................................................................................... ..63 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng… ................................................................................................................... .69 KẾT LUẬN…......................................................................................................... .75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO… ........................................................ ..77 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khó XIII, kỳ họp thứ 7 ngày 19 tháng 06 năm 2014 đã thông qua Luật công chứng 2014, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc xã hội hóa hoạt động công chứng của nước ta hiện nay. Từ ngày 1/5/2015, Nghị định số 29/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng năm 2014 có hiệu lực thi hành. Nghị định được ban hành với mục tiêu tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; thực hiện công khai, minh bạch, dân chủ, khách quan hoạt động công chứng theo lộ trình quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng về chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng; chính sách ưu đãi đối với Văn phòng công chứng thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn… Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công là điều quan trọng của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Vai trò của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công được nâng lên một tầm cao mới, không chỉ phát huy dân chủ tăng cường pháp chế mà còn nâng cao sức cạnh tranh khi đất nước đang tiến tới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Yêu cầu xã hội hóa dịch vụ công, trong đó có xã hội hóa công chứng một ngành dịch vụ pháp lý là hết sức cần thiết. Song song với xã hội hóa các hoạt động như luật sư, giám định tư pháp... thì xã hội hóa công chứng là chủ trương lớn của đảng và nhà nước trong chiến lược caỉ cách tư pháp đến năm 2020. Bước ngoặt lớn đó là khi luật công chứng 2006 ra đời và cho đến nay là Luật công chứng 1 2014 đã cho phép thành lập nên các tổ chức hành nghề công chứng, một mô hình mới nhằm đáp ứng được những nhu cầu của xã hội và xu hướng chung của thế giới. Tuy nhiên việc ra đời của tổ chức hành nghề công chứng vẫn còn nhiều hạn chế mà luật công chứng chưa tiên liệu hết những vướng mắc, khó khăn và nhiều biến động, thêm vào đó là nhân thức của một số cán bộ và người dân về tổ chức này vẫn còn mơ hồ chưa hiểu rõ. Chính vì vậy tôi chọn đề tài Tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt Nam hiện nay làm đề tài luận văn kinh tế của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay ở nước ta đã có một số đề tài nghiên cứu về công chứng dưới góc độ như quản lý nhà nước về công chứng, xã hội hóa công chứng, thực trạng pháp luật về công chứng, hoạt dộng của công chứng, chứng thực... Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào nói về tổ chức hành nghề công chứng, là một tổ chức rất được quan tâm trong thời gian gần đây khi mà luật công chứng sửa đổi năm 2014 đã đi vào thực tế và đang còn gặp nhiều vướng mắc. Tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt Nam hiện nay là đề tài nghiên cứu tương đối hệ thống về tổ chức hành nghề công chứng thông qua những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn tổ chức hành nghề công chứng cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện của Luật công chứng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích - Mục đích của luận văn là từ những lý luận thực tiễn về công chứng làm sáng tỏ và phân tích rõ về tổ chức hành nghề công chứng, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp luật về tổ chức này. 3.2 Nhiệm vụ 2 - Phân tích những vẫn đề lý luận về cơ bản về tổ chức hành nghề công chứng - Phân tích thực trạng pháp luật về Tổ chức hành nghề công chứng - Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các quan hệ về tổ chức hành nghề công chứng - Phạm vi nghiên cứu: Tổ chức hành nghề công chứng ra đời từ yêu cầu tất yếu của xã hội là hoạt động xã hội hóa công chứng từ khi nghị định của chính phủ về công chứng, chứng thực có hiệu lực và khi có Luật công chứng ra đời năm 2006 và cho đến này là Luật công chứng sửa đổi năm 2014. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận được sử dụng là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; - Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài gồm: + Phương pháp tìm hiểu tư liệu: Là nghiên cứu về lý luận thông qua những tài liệu có liên quan đến tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng. Qua đó xây dựng lý thuyết của đề tài. + Phương pháp so sánh: Làm rõ sự giống và khác nhau, những điểm tiến bộ và phát triển của Luật công chứng 2014 so với Luật công chứng 2006 và các văn bản pháp luật quy định về công chứng từ trước tới này. Từ đó đánh giá những thuận lợi và hạn chế trong thực tế thi hành Luật công chứng 2014, đề ra những giải pháp phù hợp giải quyết những khúc mắc còn tồn đọng. + Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là một phương pháp quan trọng trong quá trình nghiên cứu. Trên cơ sở các tài liệu, thông tin và dữ liệu thu thập được, tác giả sẽ phân tích, đánh giá, xem xét trên các khía 3 cạnh. Qua đó tổng hợp lại để có những kết luận, những đề xuất mang tính khoa học, phù hợp với lý luận và thực tiễn công tác quản lý nhà nước về hoạt động công chứng; 6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận, luận văn đã hệ thống, phân tích, bổ sung những vấn đề có tính lý luận về công chứng và tổ chức hành nghề công chứng; chỉ ra những điểm khác trong tổ chức giữa phòng công chứng và văn phòng công chứng; những bất cập còn tồn tại trong Luật công chứng 2014 và đề xuất đưa ra những giải pháp phù hợp; Về thực tiễn, các luận cứ và giải pháp của đề tài có thể sử dụng được cho việc hoàn thiện các chế định pháp luật có liên quan đến tổ chức hành nghề công chứng trên thực tế; luận văn còn là tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu, đào tạo về luật học. 7.Kết cấu của luân văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức hành nghề công chứng; Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về tổ chức hành nghề công chứng; Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức hành nghề công chứng 4 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG 1.1 Khái niệm và đặc điểm công chứng 1.1.1 Khái niệm về công chứng Trong những năm qua, hoạt động công chứng, chứng thực ở nước ta đã có những bước phát triển, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, khẳng định ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò của công chứng trong đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời là công cụ đắc lực phục vụ quản lý nhà nước có hiệu quả trong việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Bằng hoạt động, Công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xă hội chủ nghĩa.[1,tr77] Hoạt động công chứng ở nước ta xuất hiện từ rất sớm. Từ năm 1858 đến 1954, đã tồn tại thể chế công chứng Pháp tại Đông Dương, trong đó có Việt Nam và tập trung ở Sài Gòn. Các công chứng viên là công chức người Pháp ở nhiều cơ quan khác nhau, với nhiệm vụ chủ yếu là công chứng hợp đồng mua bán bất động sản ở Pháp. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công và thiết lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1945, bằng việc Hồ Chủ tịch ban hành Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 về việc ấn định thể lệ thị thực các giấy tờ và Sắc lệnh số 85/SL ngày 29/02/1952 quy định thể lệ trước bạ về việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất đã chính thức đặt nền móng cho hoạt động công chứng, chứng thực ở nước ta. 5 Công chứng với tư cách là một thể chế pháp lý đa hình thành ở nước ta khá sớm, nhưng mãi đến năm 1987 thuật ngữ “ công chứng “ mới được sử dụng một cách rộng rãi. Trong thời kỳ đầu đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, hoạt động công chứng, chứng thực của nước ta được kiện toàn và phát triển với sự ra đời của các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng, chứng thực như: Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác công chứng nhà nước, Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 về công chứng Nhà nước của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), sau đó là Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước; Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 về công chứng, chứng thực. Thời kỳ này, hai hoạt động công chứng và chứng thực luôn gắn liền với nhau và cùng được điều chỉnh chung trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật. Thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, ngày 29/11/2006, xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này [2,tr77], Quốc Hội đã thông qua Luật công chứng và sáu 6 năm triển khai thực hiện, ngày quốc hội lại thông qua luật công chứng sửa đổi nhằm hoàn thiện pháp luật về công chứng, đưa hoạt động công chứng phát triển theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề quan trọng có vai trò lý luận cũng như thực tiễn ảnh hưởng đến mô hình tổ chức cơ chế hoạt động của các phòng công chứng cũng như văn phòng công chứng. Chúng ta có 6 những khái niệm khác nhau về công chứng trong các văn bản quy phạm pháp luật như: - Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước quy định: “ Công chứng là việc chứng nhân xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng, giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc UBND cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trường hợp bị TAND tuyên bố là vô hiệu”[9, tr.77]. Khái niệm này bước đầu đã có sự phân biệt hành vi công chứng và hành vi chứng thực. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý của hành vi công chứng và hành vi chứng thực chưa được phân biệt. - Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 của chính phủ về công chứng chứng thực tại điều 2 quy định: “Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoạc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của nghị định này”. [15, tr.78]Theo đó, chủ thể của hoạt động công chứng được xác định ở đây là Phòng công chứng, trong khi thực tiễn hoạt động công chứng cho thấy, công chứng là hoạt động của công chứng viên, công chứng viên phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình. - Luật công chứng năm 2006 quy định: “ Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch) bằng văn bản mà theo qui định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.[25, tr.79] Khái niệm này về cơ bản đã giải quyết được 7 những thiếu sót của Nghị định 31/CP và nghị định 75/2000/NĐ-CP về khái niệm công chứng. - Điều 2 khoản 1 Luật công chứng ngày 20 tháng 6 năm 2014 quy định: “ Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”[26,tr79] Đây có thể coi là khái niệm cơ bản và đầy đủ nhất về công chứng cho đến thời điểm hiện tại. Khái niệm này của Luật công chứng 2014 đã mở rộng phạm vi hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, của công chứng viên. Cụ thể,công chứng viên thực hiện việc chứng nhận bản dịch giấy tờ nhằm tạo thuận tiện cho người dân cũng như giảm áp lực công việc cho các cơ quan hành chính. Tuy nhiên, để bảo đảm tính chuyên môn hóa, chất lượng trong hoạt động công chứng, dịch thuật, phù hợp với năng lực và điều kiện thực tế của các tổ chức hành nghề công chứng, đồng thời bảo đảm tốt hơn cho người dân trong việc lựa chọn và tiếp cận dịch vụ chứng nhận bản dịch, Luật công chứng 2014 quy định công chứng viên cũng phải chịu trách nhiệm về nội dung bản dịch và việc chứng nhận nội dung bản dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội (khoản 3 Điều 61) nhằm đề cao trách nhiệm của công chứng viên trong hoạt động này. Những khái niệm về công chứng nêu trên đều gắn với sự thay đổi của xã hội qua từng giai đoạn phát triển khác nhau có sự thay đổi nhất định. Song xét về bản chất và mục đích của hành vi thì không thay đổi, qua đó thấy được các đặc điểm rõ rệt của hoạt động công chứng. 8 1.1.2 Đặc điểm của công chứng Thứ nhất, công chứng là hành vi do công chứng viên thực hiện. Điều này phân biệt với chứng thực là hành vi do người đại diện của cơ quan hành chính công quyền thực hiện. Công chứng viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, chịu trách nhiệm tiếp nhận hoặc lập các hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng đảm bảo cho các hợp đồng giao dịch sau khi được chứng nhận có giá trị chứng cứ. Điều đó cho thấy, hoạt động công chứng là hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý mang tính chất đặc biệt, tức là vừa mang tính dịch vụ, vừa là một trong những hoạt động bổ trợ tư pháp. Xét về khía cạnh lý luận chung, đó là dịch vụ pháp lý cho cá nhân, tổ chức trong giao dịch của xã hội mà người công chứng viên phải chịu trách nhiệm cá nhân. Hoạt động công chứng là hoạt dộng dịch vụ pháp lý chứ không phải là tư nhân hóa hoạt động công chứng, nhằm để tổ chức hành nghề công chứng góp phần chia sẻ gành nặng với nhà nước, tránh việc độc quyền và góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật bảo vệ quyền lợi chính đáng của công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, nội dung cơ bản của công chứng là xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các giao dịch, hợp đồng; tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài, hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt theo yêu cầu của công dân, tổ chức và chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật. Đây là đặc điểm quan trọng của hoạt động công chứng để phân biệt với hoạt động mang tính chất hành chính khác của cơ quan công quyền. Các hợp đồng, giao dịch , bản dịch được công chứng viên xác nhận theo quy định của pháp luật chính là văn bản công chứng. Thứ ba, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và có hiệu lực thi hành với các bên, những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng có giá 9 trị chứng cứ không phải chứng minh đã được Luật công chứng (Khoản 3Điều 5) và Bộ luật tố tụng dân sự (Điều 80, 83) quy định, trừ trường hợp văn bản công chứng bị Tòa án tuyên vô hiệu. Văn bản công chứng phải được công chứng viên xác nhận theo trình tự, thủ tục do pháp luật về công chứng quy định và chủ thể tham gia giao dịch có đủ năng lực dân sự, nội dung thỏa thuận là hoàn toàn tự nguyện thì văn bản công chứng có hiệu lực thi hành với các bên có liên quan, buộc các bên phải thực hiện đúng các cam kết đã xác lập. Trong pháp luật về tố tụng tài liệu, văn bản, giấy tờ được coi là chứng cứ khi hình thức và nội dung của các tài liệu, giấy tờ đó phản ảnh đúng nội dung thực tế cà phù hợp với quy định của pháp luât. Vì vậy văn bản được công chứng viên xác nhận thông qua lời chứng của mình và nội dung của hợp đồng, giao dịch không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định của pháp luật thì được coi làchứng cứ và không phải chứng minh, trừ trường hợp bị tòa án tuyên bố vô hiệu. Từ những căn cứ phân tích nêu trên, có thể thấy công chứng là hoạt động không thể thiếu trong đời sống xã hội, là tài liệu chứng cứ khi có tranh chấp tại tòa án, là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, góp phần phòng ngừa rủi ro đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự kinh tế, thương mại phát triển, tránh việc tranh chấp và vi phạm pháp luật tạo sự ổn định cho xã hội. Hoạt động của các công chứng viên thông qua tổ chức hành nghề công chứng của mình đã góp phần quan trọng trong việc tạo cho người dân ý thức trách nhiệm tốt hơn khi sử dụng các công cụ pháp lý để bảo vệ mình.. 1.2 Tổ chức hành nghề công chứng 1.2.1 Định nghĩa Tổ chức hành nghề công chứng là: phòng công chứng và văn phòng công chứng (Điều 23, Luật công chứng 2006). 10 Theo quy định tại Điều 19 Luật công chứng 2014, Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng là Trưởng phòng, trưởng phòng công chứng phải là công chứng viên, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Tên gọi của Phòng công chứng bao gồm cụm từ “Phòng công chứng” kèm theo số thứ tự thành lập và tên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Phòng công chứng được thành lập. Phòng công chứng sử dụng con dấu không có hình quốc huy. Phòng công chứng được khắc và sử dụng con dấu sau khi có quyết định thành lập. Thủ tục, hồ sơ xin khắc dấu, việc quản lý, sử dụng con dấu của Phòng công chứng được thực hiện theo quy định của pháp luật về con dấu. Phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Sở tư pháp nên kinh phí được nhà nước cấp và một phần kinh phí từ hoạt động công chứng được sử dụng tại đơn vị. Phòng công chứng phải nộp 100% phí thu được cho nhà nước và được nhà nước trích lại 50% phí thu được để chi trả cho hoạt động của phòng. Theo quy định tại Điều 22 của luật công chứng 2014, Văn phòng công chứng là tổ chức dịch vụ công được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh; phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên, không có thành viên góp vốn. Tên của Văn phòng công chứng được lấy theo tên của Trưởng văn phòng. Các quyền và nghĩa vụ của văn phòng công chứng được quy định trong Luật công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Ở đây có thể thấy được rằng nghề công chứng là nghề đòi hỏi có đạo đức nghề nghiệp và sự tin tưởng rất cao vì vậy Luật công chứng mới có quy định rằng phải là loại hình công ty hợp danh chứ không theo loại hình góp vốn. 1.2.2 Đặc điểm của tổ chức hành nghề công chứng 11 *Sự giống nhau giữa phòng công chứng và văn phòng công chứng - Là tổ chức mang tính dịch vụ pháp lý. Xét về bản chất, tổ chức hành nghề công chứng, là một loại hình doanh nghiệp cung cấp “dịch vụ công chứng”. Hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng hướng đến 3 lợi ích: + Lợi ích của nhà nước: Hoạt động công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp và chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước do hoạt động công chứng gắn liền với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khi tham gia các hợp đồng, giao dịch; hỗ trợ, bổ sung cho các hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động tư pháp nên được xếp vào hoạt động bổ trợ tư pháp. Hoạt động công chứng là hoạt động mang tính dịch vụ pháp lý đặc biệt. Công chứng viên là “công lại” được nhà nước uỷ quyền, thay mặt cho nhà nước chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên khi giao kết hợp đồng, phòng ngừa rủi ro, tranh chấp nên các tổ chức hành nghề công chứng chịu sự quản lý, điều tiết chặt chẽ của nhà nước. + Lợi ích của các bên tham gia giao dịch: Việc xã hội hóa công chứng đã tạo điều kiện thuận tiện cho người dân trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đặc biệt, hoạt động công chứng đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa các tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, nhà ở - lĩnh vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp. Không thể phủ nhận công chứng là “lá chắn” phòng ngừa hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiểu công việc cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự. + Lợi ích của phòng, văn phòng công chứng: được thu phí và thù lao công chứng theo quy định khi thực hiện các hoạt động công chứng, nhưng 12 chủ yếu không vì lợi nhuận mà là đảm bảo cho các giao dịch tuân thủ đúng pháp luật, đảm bảo an toàn cho các bên tham gia. *Sự khác nhau giưa phòng công chứng và văn phòng công chứng - Công chứng viên thuộc Phòng công chứng là công chức, viên chức nhà nước được hưởng lương từ ngân sách - Công chứng viên văn phòng công chứng không phải là công chức, viên chức nhà nước vì vậy lương và các khoản thu nhập khác được trích từ nguồn thu phí công chứng, thù lao công chứng và nguồn thu hợp pháp khác từ hợp đồng công chứng. Nguồn tài chính của tổ chức hành nghề công chứng: Đối với Phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp có thu, tự chủ về tài chính + Kinh phí do nhà nước cấp + Kinh phí được trích lại từ hoạt động công chứng + Thù lao công chứng Đối với văn phòng công chứng hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về bồi thường thiệt hại cho khách hàng bằng nguồn thu bao gồm: + Kinh phí đóng góp của công chứng viên + Phí công chứng + Thù lao công chứng + Các nguồn thu khác: là các khoản tiền mà văn phòng công chứng thu từ việc người yêu cầu công chứng muốn ký ngoài trụ sở, xác minh hoặc giám định... Nếu như trước đây chỉ có một hình thức tổ chức hành nghề công chứng duy nhất là Phòng công chứng nhà nước thì từ Luật công chứng 2006, có hai hình thức tổ chức hành nghề công chứng song hành hoạt động dưới sự quản lý, giám sát của Sở Tư pháp là Phòng Công chứng do Ủy ban 13 nhân dân cấp tỉnh thành lập và Văn phòng công chứng do các công chứng viên đứng ra thành lập, được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép thành lập. Hai tổ chức hành nghề công chứng này bình đẳng về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền ký văn bản công chứng. Quan hệ giữa người yêu cầu công chứng với cả hai tổ chức hành nghề công chứng trên là quan hệ dân sự mang tính chất dịch vụ có thu phí theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhà nước quy định mức phí chung cho cả hai mô hình tổ chức hành nghề công chứng. Việc làm và thu nhập của công chứng viên phụ thuộc vào số lượng và chất lượng dịch vụ công chứng mà họ cung cấp cho người yêu cầu công chứng. Nếu gây thiệt hại cho khách hàng thì công chứng viên phải bồi thường thông qua tổ chức hành nghề công chứng. Do đặc thù là tổ chức dịch vụ pháp lý nên cơ cấu tổ chức, hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng được quy định theo Luật công chứng; ngoài ra với hình thức hoạt động Văn phòng công chứng còn được quy định trong cả Luật doanh nghiệp. Điều này ứng với loại hình văn phòng công chứng. Văn phòng công chứng hoạt động theo loại hình Công ty hợp danh, hoạt động trên cơ sở tự chủ tài chính, hạch toán độc lập, tuy nhiên lại chịu sự quản lý khắt khe và chặt chẽ hơn so với các công ty hợp danh thông thường khác. Chẳng hạn như việc thành lập phải phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hay việc xác định thuế, thuê lao động, kế toán… Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, công ty hợp danh ngoài thành viên hợp danh còn có thể có thêm thành viên góp vốn. Tuy nhiên, với quy định của Luật công chứng 2014, Văn phòng công chứng được thành lập ít nhất phải có 2 công chứng viên hợp danh trở lên và không có thành viên góp vốn. Ở đây có thể thấy được rằng nghề công chứng là nghề đòi hỏi có đạo đức nghề nghiệp và sự tin tưởng lẫn nhau giữa các thành viên rất cao vì vậy Luật Công chứng mới có quy định rằng phải là loại hình công ty hợp danh chứ 14 không có thành viên góp vốn. Văn phòng công chứng thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp ( từ Điều 172, 173, 174, 175, 176, 177, 178, 179, 180, 181): a) Phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn; b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. – Về thành viên công ty hợp danh: Công ty hợp danh có ít nhất hai thành viên là cá nhân thỏa thuận góp vốn với nhau, cùng chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới (gọi là thành viên hợp danh). – Về chế độ chịu trách nhiệm tài sản của các loại thành viên: Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của công ty. Trách nhiệm này không bị giới hạn đối với bất kỳ thành viên nào. Nếu họ có thỏa thuận khác, lập tức công ty sẽ chuyển sang thành công ty hợp vốn đơn giản. - Về quyền quản lý, đại diện của công ty hợp danh Về cơ bản, các thành viên hợp danh có quyền thỏa thuận về việc quản lý, điều hành công ty. Trong quá trình hoạt động công ty, các thành viên hợp danh đều có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp 15 danh trong thực hiện công việc kinh doanh hàng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó biết hết về hạn chế đó. Theo quy định tại Điều 175 Luật doanh nghiệp 2014 thành viên hợp danh bị hạn chế một số quyền đó là: Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại; Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác – Về tư cách pháp lý: văn phòng công chứng có tư cách pháp nhân, có sự tách bạch rõ ràng giữa tài sản của văn phòng và tài sản của các thành viên trong văn phòng. Các thành viên phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn sang văn phòng và tài sản hình thành trong quá trình văn phòng hoạt động là tài sản của văn phòng. Tổ chức hành nghề công chứng thực hiện một số hoạt động có tính chịu trách nhiệm cao hơn. Theo quy định của Luật công chứng 2014, công chứng viên có quyền công chứng các hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản liên quan đến việc thực hiện đối với bất động sản (Điều 42-Luật công chứng 2014); công chứng bản dịch (Điều 62-Luật công chứng 2014); các loại hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Theo đó, mục đích của công chứng là đảm bảo tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự; tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức, xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt. 16 Nội dung xác thực bao gồm: thời gian, địa điểm, tư cách chủ thể, mục đích, nội dung thỏa thuận, ý chí tự nguyện. Đồng thời, trình tự, thủ tục công chứng cũng được quy định chặt chẽ hơn, được thể hiện qua việc quá trình công chứng được thực hiện qua nhiều công đoạn, mỗi công đoạn được thực hiện qua nhiều bước nhỏ một cách tuần tự, không thêm bớt. Ngoài ra công chứng viên của các tổ chức hành nghề công chứng được chứng thực chữ ký, bản sao, bản dịch, cấp bản sao từ sổ gốc theo căn cứ pháp lý như: + Luật Công chứng năm 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015); + Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 4 năm 2015); + Thông tư số 20/2015/TT-BTP ngày 29 tháng 12 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2016); + Thông tư liên tịch số 115/2015/TTLT-BTC-BTP ngày 11 tháng 8 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTCBTC ngày 19 tháng 01 năm 2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng (có hiệu lực kể từ ngày 29 tháng 9 năm 2015). 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan