Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức dạy học bài thơ vội vàng của xuân diệu theo đặc điểm của thơ tự do...

Tài liệu Tổ chức dạy học bài thơ vội vàng của xuân diệu theo đặc điểm của thơ tự do

.PDF
48
1720
137

Mô tả:

Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Môn văn, một môn học chứa đựng những nội dung phong phú và đa dạng về cuộc sống sinh động, về văn hóa tinh thần tư tưởng, tâm hồn của dân tộc, được dành một vị trí xứng đáng trong trường phổ thông. Những năm gần đây, vấn đề dạy học văn trong nhà trường Phổ thông ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, và ai cũng cho rằng không có một phương pháp chung nào cho việc giảng dạy tác phẩm văn chương. Mỗi người giáo viên có một phương pháp riêng, và mỗi tác phẩm lại áp dụng những phương pháp khác nhau. Xuân Diệu là một đỉnh cao của phong trào Thơ mới 1932 – 1945. Thơ của Xuân Diệu đã từng làm ngạc nhiên cho làng thơ thời kì này. Thơ ông đã được đưa vào SGK Ngữ văn 11, tập1, ban cơ bản và nâng cao. Và bài thơ được chọn là bài thơ “Vội vàng”-một sáng tác hay thể hiện được vẻ đẹp của nghệ thuật thơ Xuân Diệu. Thơ tự do với những tính chất tự do của nó, không bị câu thúc, bó buộc bởi một khuôn khổ, quy luật nào, cho phép nhà thơ bộc lộ những cảm xúc tràn trề mà không quá dàn trải. Như vậy, thơ tự do là thể thơ thích hợp cho những sáng tác trữ tình. Và bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu là một bài thơ trữ tình được viết theo thể thơ tự do. Như vậy , nếu dựa vào đặc trưng của thơ tự do để tìm hiểu nội dung ý nghĩa và những cảm xúc trong bài thơ “Vội vàng” có thể mang đến những hiệu quả nhất định. Và việc giảng dạy bài thơ “Vội vàng”theo những đặc trưng của thơ tự do cũng là một cách dạy mới. Với mong muốn giúp học sinh chiếm lĩnh tác phẩm “Vội vàng” bằng niềm đam mê, thông qua hình thức nghệ thuật của bài thơ, tôi quyết định chọn đề tài “Tổ chức dạy học bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu theo đặc điểm của thơ tự do”, mong đóng góp một phần nhỏ của mình vào hệ thống các phương pháp giảng dạy bài thơ này của những người nghiên cứu trước. 1 Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn II. Lịch sử vấn đề Xuân Diệu đã từng được phong là đệ nhất thi sĩ, vì vậy, việc nghiên cứu về thơ ca Xuân Diệu từ trước đến giờ có không ít các công trình nghiên cứu. 1.1. Nghiên cứu của chuyên ngành văn học Việt Nam a) Trước cách mạng tháng Tám - Thế Lữ giới thiệu tập “Thơ thơ”(1938)của Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây trên đất của một tấm lòng trần gian…” - Năm 1941, trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”NXB Văn học,2003, Hoài Thanh đã ca ngợi Xuân Diệu là một “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. - Năm 1942, Vũ Ngọc Phan trong cuốn “Nhà văn hiện đại”(Hà Nội tân dân, 1942) đã khẳng định: “Xuân Diệu mới nhất, đằm thắm và nồng nàn nhất trong tất cả thơ mới”. Và trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu”, Dương Quảng Hàm có đánh giá tập “Thơ thơ”: “Thơ thơ là một tập thơ chan chứa tình cảm lãng mạn, trong đó có nhiều từ mới lạ, tỏ ra tác giả thật có tâm hồn thi sĩ nhưng cũng có nhiều câu vụng về, non nớt chứng tỏ tác giả chưa lão luyện về kĩ thuật của nghề thơ”(18 - 82). b) Sau Cách mạng tháng Tám năm đến năm 1975 Phong trào Thơ mới nói chung, thơ ca Xuân Diệu nói riêng trở thành đối tượng bị phê phán, công kích. Mãi đến cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, các công trình nghiên cứu đề cập đến thơ ca Xuân Diệu mới xuất hiện. - Trong “Nhà thơ Việt Nam hiện đại”(công trình tập thể), các tác giả Mã Giang Lân, Nguyễn Văn Long coi Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ và rực rỡ của phong trào Thơ mới. c) Giữa những năm 1975 đến nay - Trong cuốn “Con mắt thơ”, Đỗ Lai Thúy đã phản ánh những cố gắng, tìm tòi của các nhà nghiên cứu về phong cách và thi pháp thơ Xuân Diệu. Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 2 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn - Tong cuốn “Thơ mới những bước thăng trầm”, tác giả Lê Đình Kỵ đã thể hiện tâm hồn nồng nàn, nồng nhiệt của Xuân Diệu và chỉ rõ đặc sắc nghệ thuật của ông. Ngoài những công trình nghiên cứu trên còn có những công trình khác như: “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”(do Huy Cận và Hà Minh Đức chủ biên), “Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám năm 1945”(qua “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió”) của Lý Hoài Thu, luận án tiến sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ ca Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945” của tác giả Lê Quang Hưng, và cuốn “Ba đỉnh cao Thơ mới” của Chu Văn Sơn. Tóm lại, Xuân Diệu là nhà thơ lớn trong phong trào Thơ mới nói riêng và nền văn học hiện đại nói chung. Xuân Diệu đã là một mảnh đất nghiên cứu lớn cho nhiều nhà nghiên cứu và sẽ còn nhiều vấn đề được khai thác và tìm hiểu ở tác giả này qua những tác phẩm của ông. 1.2. Nghiên cứu của chuyên ngành phương pháp Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về việc giảng dạy thơ văn của Xuân Diệu trong nhà trường cũng đã có những đóng góp đáng kể với các khóa luận như: “Phương pháp phân tích tác phẩm trữ tình của Xuân Diệu trong nhà trường PT” của Nguyễn Kim Hằng, “Một số phương pháp và biện pháp dạy học thơ lãng mạn của Xuân Diệu trong chương trình lớp11 THPT” của Nguyễn Thị Mai Phương, luận án thạc sĩ “Hướng dạy học mới bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu” của Trương Văn Thắng… 1.3 Về tình hình nghiên cứu thơ tự do Những công trình nghiên cứu về thơ tự do rất ít và mờ nhạt, thường chỉ là một bài viết, hoặc một phần trong bài viết của tác giả. Trong cuốn “Thơ ca Việt Nam”(hình thức và thể loại), của Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức có nói đến thơ tự do “một thể thơ không tuân theo những quy tắc về cách luật như các thể thơ Đường, lục bát, thơ mới…”. Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu như luận văn thạc sĩ “Khảo sát nhịp điệu trong thơ tự do” (qua một số tập thơ tiêu biểu của Tố Hữu, Chế Lan Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 3 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Viên, Nguyễn Đình Thi) của Hà Thị Diễm Hương, luận văn thạc sĩ “Sự vận động của thơ tự do từ phong trào Thơ mới đến nay”, của Khương Thị Thu Cúc, và cuốn “Từ Thơ mới đến thơ tự do:Phụ thêm: Đi vào thi ca” của Bằng Giang. III. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện báo cáo khoa học này, tôi đã kết hợp các phương pháp thu thập và tổng thuật tài liệu; so sánh đối chiếu để thấy sự khác nhau giữa Thơ mới và thơ tự do, thơ cách luật và thơ tự do; và phương pháp phân tích nhằm tìm ra những nét đặc sắc của bài thơ được thể hiện qua đặc điểm của thơ tự do. IV. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích của nghiên cứu khoa học là góp phần tìm ra một cách dạyhọc bài thơ “Vội vàng” theo một hướng mới, nhằm đem lại hiệu quả cho việc cảm nhận bài thơ của HS. - Nghiên cứu đi tìm những đặc điểm của thơ tự do nói chung và trong bài “Vội vàng” nói riêng. Từ những đặc điểm đó, báo cáo đưa ra cách dạyhọc bài thơ “Vội vàng” theo những điểm độc đáo trong nghệ thuật của bài thơ. IV. Bố cục nội dung của báo cáo Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của báo cáo được chia làm 3 chương: Chương I: Tìm hiểu chung về thơ tự do Chương II: Thơ tự do của Xuân Diệu và thơ tự do của Xuân Diệu trong trường THPT Chương III: Tổ chức dạy học bài thơ “Vội vàng” theo đặc điểm của thơ tự do Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 4 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn PHẦN NỘI DUNG Chương I TÌM HIỂU CHUNG VỀ THƠ TỰ DO I. Sự hình thành và phát triển của thơ tự do trong nền văn học Việt Nam Dựa vào thể luật, người ta phân ra thơ cách luật và thơ tự do.Trong đó “thơ cách luật bao gồm tất cả những bài thơ làm theo những thể thức ổn định, cố định về mặt thi pháp”(theo nhà nghiên cứu Trần Thanh Đạm), được hình thành và phát triển trong nền văn học Trung đại từ thế kỉ X - đến XIX. Còn thơ tự do bao gồm các bài thơ không theo một thể thức ổn định, cố định nào cả. Thơ tự do chỉ thực sự được biết đến từ phong trào Thơ mới 1932 - 1945. Nhưng trong thời kì này thuật ngữ thơ tự do ít được nhắc đến. Tuy nhiên trong thời kì này vẫn phải kể đến những bài thơ tự do như “Xuân về” của Lưu Trọng Lư, “Mùa đông” của Nam Trân, “Thiên đường và địa ngục” của Võ Liêm Sơn, “Thanh khí”, “Thư, thơ” của Phạm Văn Hạnh. Một số bài thơ trong thời kì này có đặc điểm là tuy câu thơ và bài thơ không hạn định về số từ, số câu, nhưng các câu thơ đều có sự hiệp vần, người viết chú ý nhiều đến nhịp điệu của bài thơ, nhịp điệu bên trong và cả phần nhịp điệu bên ngoài, bộc lộ rõ trong âm thanh và tiết tấu. Giai đoạn 1945 - 1975, Chế Lan Viên kêu gọi: “Đừng viết những câu thơ khuôn mình theo văn phạm Như những cây quá thẳng chim không về” Và nhà thơ Tế Hanh cũng nói “ Thơ có loại 5 chữ, 7 chữ, 10 chữ, hoặc 6 - 8, 6 - 8 xen 7…làm theo loại nào thì là tùy ý tác giả chọn. Theo tôi, thơ không đi theo quy luật chữ mà phải theo quy luật hơi của tác giả, tức là thể thơ phải là tiếng nói tình cảm mà tác giả muốn diễn đạt. Đó là cái hơi tình cảm của tác giả nó cần đi như vậy”. Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 5 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Trong giai đoạn này có các tác giả thành công ở thể loại thơ tự do như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Tạ Vũ, Trúc Thông, Trần Mai Ninh, Chính Hữu… Sau năm 1975, thơ tự do chiếm vị trí gần như độc tôn. Thơ tự do trở thành mảnh đất mới cho các tài năng trẻ thể hiện tài năng: “Chúng tôi ít dùng các thể thơ có sẵn như: lục bát, song thất lục bát, thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, xonnê…không phải các thể thơ đó không hay, không có giá trị nhưng đôi khi, nó làm cho người viết bị cảm giác tù túng, mất tự do theo đuổi những ý nghĩ, cảm xúc và trí tưởng tượng, thi ảnh của mình bằng những giai điệu buồn tẻ. Làm thế chẳng khác nào viết lời mới cho bản nhạc có sẵn. Thành kính mà nói, chúng tôi thấy các thể thơ trên đã được các thế hệ đi trước khai thác đến triệt để, cùng kiệt rồi, nếu làm chắc chúng tôi cũng không thể phát tiết hơn được”(Phan Huyền Thư). Nhà thơ Vi Thùy Linh thì cho rằng “thơ tự do - cuộc vận lộn tiếp diễn của sáng tạo và tiếp nhận”. Tóm lại, thơ tự do ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay, mặc dù thơ tự do không hề phủ định thơ cách luật, nhưng thơ cách luật đang ngày càng mờ nhạt bởi những nguyên tắc khuôn sáo của câu, chữ, vần và nhịp…không đủ để nhà thơ bộc lộ những cảm xúc riêng tư dồi dào, phong phú. Vậy nên các nhà thơ tìm đến thơ tự do như một giải pháp mới trong việc chuyển tải những nội dung trữ tình. II. Về khái niệm và những đặc điểm của thơ tự do 1. Khái niệm thơ tự do Theo từ điển tiếng Việt, tự do là “trạng thái không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong việc làm nào đó (bị gò bó, mất hết tự do)”. Về khái niệm “thơ tự do” thì có rất nhiều ý kiến. Chẳng hạn như trong “Thuật ngữ Văn học” thì đặt thơ tự do với thơ cách luật để so sánh: “Hình thức cơ bản của thơ phân biệt với thơ cách luật hoặc thơ văn xuôi ở chỗ Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 6 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn không bị ràng buộc vào các quy tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm, đối… Nhưng thơ tự do lại khác thơ văn xuôi ở chỗ văn bản có phân dòng và xếp song song thành hàng, thành khổ như những đơn vị nhịp điệu , có thể có vần. Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó có thể là hợp thể, phối xen các đoạn thơ làm theo các thể khác nhau, hoặc hoàn toàn tự do”. Trong cuốn “Thơ ca Việt Nam (hình thức và thể loại)” NXB Khoa học xã hội, H, 1971, hai tác giả Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức thì cho rằng: “Khi nói đến thơ tự do, chúng ta thường muốn nói đến một thể thơ không tuân theo những quy tắc về cách luật như các thể thơ Đường, thơ lục bát, Thơ mới…”. Mã Giang Lân thì quan niệm: “thơ tự do chủ yếu nói đến cấu trúc, hình dáng của nó, số chữ của câu không hạn định có thể 1 chữ đến 10 chữ, hoặc nhiều hơn. Số câu trong khổ thơ cũng không hạn định, có thể là 1câu đến nhiều câu. Và gieo vần rất linh động, rất tự do, có khi không nhiều, chỉ có nhịp.” Theo quan điểm của Xuân Diệu khi nói về nguyên tắc làm thơ thì “tự do là mình đặt kỉ luật cho mình, một kỉ luật linh động, tùy theo mỗi trường hợp, nhưng luôn luôn có kỉ luật. Muốn ca, muốn hát mà chẳng theo tiết tấu nhịp nhàng thì ai nghe? Làm thơ tự do tức là mỗi đề tài lại tự tạo ra một nhạc điệu riêng cho thích hợp, cái điệu ấy không dược phiêu lưu mà phải cần thiết. Phải cao tay lắm mới sai khiến được thơ tự do. Tự do không có nghĩa là mình muốn làm gì thì làm”. Khi phong trào Thơ mới ra đời, người ta còn đồng nghĩa Thơ mới với thơ tự do. Nhưng đến giai đoạn sau của phong trào Thơ mới thì một số nhà thơ trở về với nhiều thể thơ truyền thống như thất ngôn, ngũ ngôn, lục bát. Ngay lối thơ tám chữ là sáng tạo của thơ mới cũng bắt nguồn từ thể hát nói đã phát triển mạnh từ thời Nguyễn Công Trứ…vậy nên định nghĩa Thơ mới là thơ tự do là không ổn. Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 7 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Thơ mới phải đổi mới cả nội dung và hình thức thơ, nhưng cái chính vẫn là nội dung, là phần hồn của thơ mà Hoài Thanh gọi là “Tinh thần thơ”. Thơ tự do xuất hiện trong phong trào Thơ mới và nó không chỉ đổi mới nội dung, phần hồn của thơ, mà còn đổi mới cả hình thức, phần xác của thơ. Vậy nên thơ tự do là một phần của Thơ mới, nó không chỉ tự do về cảm xúc, mà còn tự do về cả hình thức thơ. Số câu trong một bài thơ không hạn định, có khi chỉ 2 câu cũng làm nên một bài thơ, chẳng hạn như bài thơ “Mười chữ” của Xuân Diệu: Mười chữ Mưa dầm - thu dưới nguyệt Máng chảy - suối trên nhà (Xuân Diệu) cũng có khi kéo dài đến mấy chục câu như bài thơ “Dối trá” của Xuân Diệu in trong tập “Thơ thơ” có tới 65câu, hay bài “Thanh niên” in trong tập “Gửi hương cho gió” cũng có tới 65 câu… Số câu trong mỗi khổ thơ cũng khác nhau, có khi 1 câu cũng làm thành một khổ, có khi bảy, tám câu mới làm thành một khổ. Điều này khác với thơ cách luật. Thơ cách luật thì các khổ thơ thường đều nhau, và thường là 4câu thơ một khổ. Số chữ trong các câu thơ trong cùng một bài cũng không đều nhau, có khi là 1chữ, 2chữ, 3chữ….cũng có khi 11chữ, 12 chữ, Nguyễn Thị Kiên còn có câu thơ kéo dài đến 27chữ. Trong thơ tự do vẫn có các yếu tố vần, nhịp và đối, nhưng không có một quy định gì đối với các yếu tố này. Tổng hợp các ý kiến trên, chúng ta có thể thấy có hai cách hiểu về thơ tự do: Thơ tự do theo nghĩa hẹp ( thơ tự do hoàn toàn) là những bài thơ không chỉ tự do về cảm xúc, nội dung bên trong, mà còn tự do về hình thức tổ chức câu thơ, cách sử dụng từ ngữ, số câu trong một bài không giới hạn, số câu trong một khổ cũng không đều nhau, số chữ trong một câu cũng không đều Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 8 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn nhau. Thơ tự do theo nghĩa rộng (thơ tự do không hoàn toàn) là những bài thơ hình thành từ phong trào thơ mới; bài thơ mang những cảm xúc mới lạ không bi gò bó như thơ cổ; tuy nhiên, về mặt hình thức, những bài thơ này vẫn chịu sự câu thúc của các yếu tố vần, luật. Như Xuân Diệu nói,thơ tự do không phải quá tùy tiện. Thơ tự do cũng luôn đòi hỏi giữ được phẩm chất của thơ cả về nội dung cũng như hình thức biểu hiện. Về nội dung, bài thơ phải có đầy đủ chất lượng của sáng tác thơ ca, phải giàu cảm xúc, hình ảnh tập trung, cô đọng, có chất thơ. Về hình thức, thơ phải giữ được sự hài hòa của nhịp điệu Vậy một bài thơ tự do có những đặc điểm gì để có thể làm nổi bật giá trị của bài thơ? 2. Đặc điểm của thơ tự do Để tìm hiểu đặc điểm của thơ tự do, trước hết cần quan tâm đến câu chữ, đặc điểm nhịp điệu (tính nhạc), cái “tôi” trong thơ trữ tình, và cuối cùng là theo mạch suy tưởng của nhà thơ. 2.1. Ngôn ngữ trong thơ tự do Ngôn ngữ theo từ điển tiếng Việt là “hệ thống kí hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt, thông báo”. Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất, là hình ảnh của thơ ca. Nhà thơ Cuba Roberto Fernande Retana tự bút: “theo tôi , giản dị chính là con đường duy nhất để đạt tới chiều sâu thơ ca chân chính. Đối với tôi, giản dị đồng nghĩa với chín đầy. Vì vậy không nên nhầm lẫn giữa giản dị và hiện tượng giản đơn và nghèo nàn về ngôn từ… Dần dần người nghệ sĩ hiểu ra rằng ngôn từ không phải cái mà người ta muốn, mà cái người ta muốn là những phương tiện người ta mượn, những phương tiện người ta dùng để gợi ra sự vật”. Nếu như ngôn ngữ trong thơ cổ là ngôn ngữ tượng trưng ước lệ với mây, gió, trăng, hoa…và các điển cố, điển tích thì ngôn ngữ trong thơ tự do như là lời nói thường, đậm chất văn xuôi, và đòi hỏi phải có độ căng trong cảm xúc Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 9 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Nếu mùa hè trong thơ cổ là “Dưới trăng quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (Nguyễn Du - Truyện Kiều) Còn mùa hè trong thơ mới thì: “Trời trong biếc không qua mây gợn trắng, Gíó nồm nam lộng thổi cánh diều xa Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng, Lũ bướm vàng lơ đãng lướt mây qua” (Anh Thơ - Bức tranh quê) Đặc trưng hình thể của ngôn từ thơ tự do không chỉ ở kho từ vựng mà chủ yếu ở cách kết hợp từ, ở cấu trúc ngữ pháp đầy mới mẻ và sáng tạo. 2.2. Cấu trúc thơ tự do Theo từ điển tiếng Việt thì cấu trúc là “quan hệ giữa các thành phần tạo nên chỉnh thể”. Một bài thơ là một cấu trúc tương đối hoàn chỉnh ở hai cấp độ, cấp độ hình tượng và cấp độ văn bản ngôn từ Hình tượng là toàn bộ thế giới khách quan được nhà thơ chắt lọc, phản ánh vào thơ. Để xây dựng hình tượng, nhà thơ đi từ chi tiết, hình ảnh trong cuộc đến tứ thơ, ngôn ngữ thơ, Trong “Văn tâm điêu long” Lưu Hiệp viết “Tứ thơ giúp ta lĩnh hội toàn bộ đối tượng miêu tả của thơ và phương tiện nghệ thuật thơ như hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu…”. Cấu trúc hình tượng trong thơ tự do là do mạch cảm xúc của tác giả chi phối. Nhà thơ chắt lọc những hình tượng trong thế giới khách quan và phản ánh vào thơ thông qua văn bản ngôn từ. Cấu trúc văn bản ngôn từ, đó là cách tổ chức ngôn từ trong câu thơ, bài thơ. Cấu trúc một bài thơ tự do không khép kín như thơ cổ mà thường là cấu trúc mở. Hiện tượng đó thể hiện ở việc chia bài thơ thành nhiều khổ thơ, khái niệm câu thơ và dòng thơ bị phá vỡ. Một câu thơ tự do có khi không đủ ý Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 10 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn như câu thơ cách luật, để hiểu được câu thơ đó ta phải đọc tiếp cả những câu thơ tiếp theo. Đó là kiểu câu thơ vắt dòng trong thơ tự do: Người thủy thủ nhìn mặt trời sắp tắt thấy lòng mình biển cháy mênh mông Ngày mai đây Ngày chiến đấu sau cùng. Các anh sẽ về Nam yêu quý dâng kháng chiến lòng các anh và vũ khí hay các anh sẽ tự nhận chìm tàu quyết không rơi vào tay quân cá mập kia đâu! (Tế Hanh - Người thủy thủ và con chim én) Các câu thơ có khi còn được viết theo kiểu bậc thang làm bài thơ tăng sức gợi cảm, nhạc điệu của thơ ngân vang hơn, ý thơ được nhấn mạnh hơn. Chẳng hạn như bài thơ “Lại về tỉnh nhỏ” của Yến Lan cũng sử dụng một số câu thơ bậc thang để diễn tả hình ảnh của cô gái tỉnh nhỏ ngày xưa: Tỉnh nhỏ Đìu hiu Mặt trời ngủ giữa chiều Trở mình trên mái rạ… Tỉnh nhỏ cô em nằm xem kiếm hiệp … Trong bài thơ tự do có khi tác giả sử dụng nhiều thể thơ khác nhau. Chẳng hạn như trong bài thơ “Vội vàng “ của Xuân Diệu, bốn câu thơ đầu, tác giả sử dụng thể thơ 5chữ, những câu thơ tiếp theo, tác giả sử dụng thể thơ 8chữ. Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 11 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Tóm lại, cấu trúc thơ tự do là ít bị câu thúc nhất bởi luật thơ, nhà thơ có thể thoải mái tổ chức câu thơ nhằm đạt được hiệu quả diễn đạt cao nhất. 2.3 Nhịp điệu trong thơ tự do Theo từ điển tiếng Việt thì nhịp điệu là “sự lặp lại một cách tuần hoàn các âm mạnh và nhẹ theo những trật tự cách thức nhất định”. Nhịp thơ là cái được nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chất chu kì, cách quãng, hoặc luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt của những đơn vị văn bản như câu thơ (dòng thơ), khổ thơ, thậm chí đoạn thơ. Nhịp thơ là đặc trưng cơ bản của hình thức thơ. Nhịp điệu của thơ bao gồm nhiều yếu tố: âm tiết, đoạn tiết tấu, giai điệu và vần thơ. Sự tổng hợp và hài hòa của những nhân tố đó tạo thành nhịp điệu thơ. Và đối với thơ tự do thì “thơ tự do tạo điều kiện nhiều nhất để thơ có vẻ riêng về nhịp điệu mà mỗi bài thơ phải phấn đấu để có được”. Chẳng hạn như bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, nhà thơ sử dụng những thể thơ khác nhau trong cùng một bài thơ là để diễn tả những cảm xúc thay đổi theo từng bước suy nghĩ của tác giả. Yếu tố chủ yếu để tạo nên nhịp thơ là vần. “Vần là sự hòa âm, sự cộng hưởng nhau theo những quy luật ngữ âm nhất định giữa hai từ hoặc hai âm tiết ở trong hay cuối dòng thơ và thực hiện những chức năng nhất định như liên kết các dòng thơ, gợi tả, nhấn mạnh sự ngừng nhịp”. Như Xuân Diệu nói: “có vần những bước thơ không có vẻ chông chênh mà trái lại, hồn thơ dựa vào những câu thơ một cách vững chắc”, “vần giúp cho trí nhớ của công chúng, vần giúp làm nảy sinh những tứ thơ tân kì, vần tạo cho sự nghỉ ngơi một cách khoan khoái, nghỉ hơi mà có vần thì lý thú như ngậm âm nhạc vào miệng”. Tuy nhiên, trong thơ tự do đã có những xu hướng làm thơ không vần như thơ không vần của Nguyễn Đình Thi. Ông cho rằng, “vần là một lợi khí rất đắc lực cho sự truyền cảm nhưng không phải hết vần là hết thơ. Khi làm thơ, thái độ của người làm là ghi cho đúng cảm xúc. Nếu cảm xúc gặp được vần thì hay. Nhưng khi gặp nó gò bó thì hãy vượt lên nó đã. Hình thức nghệ Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 12 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn thuật(các luật bằng trắc) phải tự thân nó ra. Khi gạt luật bên ngoài ra phải có luật bên trong rất mạnh”. Như vậy, vẻ riêng của thơ tự do là nhịp điệu không những của hình thức bên ngoài, mà còn là nhịp điệu bên trong. Nhịp điệu đời sống và nhịp điệu cảm xúc trong thơ tự do có tính hòa điệu giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Theo Nguyễn Đình Thi, “Nhịp điệu của hình ảnh , tình ý, nói chung là của tâm hồn. Đó là nhịp điệu hình thành của cảm xúc, hình ảnh liên tiếp, hòa hợp, mà những từ, những chữ gợi ra những ngân vang dài, ngắn dưới khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động”(Lê Lưu Oanh/ Nguyễn Đình Thi - Hoàng Cầm. NXB Giáo dục, 1999). Vậy, nhịp điệu trong thơ từ trước đến nay mới chỉ nói đến nhịp điệu hình thức, nhịp điệu dựa vào cách tổ chức câu thơ, đoạn thơ, tiết tấu, âm thanh, vần bằng, vần trắc, niêm đối trong thể thơ và bài thơ. Nhưng trong thơ tự do, nhịp điệu còn là nhịp của cuộc sống và cảm xúc. Nó chính là nhịp của con tim, nhịp rung động của tâm hồn. 1.4. Cái tôi trữ tình trong thơ tự do Viên Mai trong “Tùy viên thi thoại” viết: “là người thì không nên có cái tôi, có cái tôi thì hay mắc bệnh kiêu căng, cậy tài. Cho nên Khổng Tử nói “không cố chấp”, “không tự cho mình là đúng” vậy. Nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi. Không có thì dễ mắc cái tội cóp nhặt, phô diễn”. Nói như vậy không có nghĩa là nhà thơ đưa cái thế giới nhỏ bé hữu hạn của riêng bản thân mình vào tác phẩm là đủ, mà ngoài cái thế giới nhỏ bé ấy của tác giả còn có thế giới nội tâm của nhân vật trữ tình. Thơ trữ tình nào cũng nhấn vào sợi dây tình cảm, sự rung động tâm trạng riêng tư của cá nhân. Nhờ có sự sáng tạo mang tính chất chủ quan của nhà thơ mà thơ ca có nhiều giọng điệu, tư tưởng, hình tượng thơ phong phú. Tính chủ quan trong sáng tạo được thể hiện bằng cái tôi trong thơ. Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 13 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Cái tôi trong thơ có thể là cái tôi nhà thơ. Đó là cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ trước cuộc đời, trước sự rung ngân của thế giới khách quan mà anh ta thu nhận được và chuyển thành lời. Qua hình ảnh ngôn ngữ thơ, người đọc có thể nhận ra lời thơ mà tác giả là một thực thể đang sống, đang phát ngôn. Cái tôi đó cũng có thể là cái tôi trữ tình. Đó là cái tôi được nhà thơ phân thân, hóa nhập vào số phận nhân vật trong cuộc sống hiện thực. Nhà thơ chuyển hóa cảm xúc của mình thành cảm xúc của đối tượng miêu tả. Cái tôi trong thơ tự do trong Thơ mới như là một sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đòi tâm sự nỗi niềm tàng ẩn trong lòng Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất Không có chi bạn bè nổi cùng ta. (Xuân Diệu - Hi Mã Lạp Sơn) Trước Cách mạng tháng Tám, cái tôi trữ tình trong thơ tự do là cái tôi giãi bày tâm trạng theo ý thức tự do của cá nhân, theo nỗi buồn cô đơn: Lòng anh như nước hồ thu lạnh, Quạnh quẽ đêm soi bóng nguyệt tà (Lưu Trọng Lư - Khi mùa rụng lá) Hay Hôm nay trời nhẹ lên cao, Tôi buồn, không hiểu vì sao tôi buồn. (Xuân Diệu - Chiều) Sau Cách mạng tháng Tám, cái tôi đó đi “từ chân trời của một người đến chân trời của tất cả”. Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu Tôi sống với cuộc đời chiến đấu Của triệu người yêu dấu gian lao. (Xuân Diệu - Những đêm hành quân) Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 14 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Nhà thơ luôn sáng tạo ra một hiện thực thứ hai, lại càng ý thức sâu sắc về cuộc sống, nhịp đập của thời đại. Cái tôi trữ tình trong thơ tự do là cái tôi không khép mình trong khuôn sáo cũ, cái tôi viết, thể hiện trong thơ như đời sống hiện thực phong phú. 1.5. Mạch suy tưởng trong thơ tự do Nhờ có trí tưởng tượng phong phú, phóng túng, thơ tự do phá vỡ những quy phạm trong thơ cổ điển để hình thành nên những quy phạm mới, quy phạm tuân theo mạch cảm xúc, mạch suy tưởng của nhà thơ. Mạch suy tưởng trong thơ tự do không chỉ khơi dậy những đề tài rộng rãi, cụ thể trong hiện thực mà còn phản ánh hiện thực, khắc họa chiều sâu suy nghĩ, tư duy, chiều sâu của cuộc sống đang cựa mình. Chẳng hạn như Xuân Diệu, với tâm hồn tinh tế, nhạy cảm đã “cảm nhận ra những mối tương giao thầm kín, sự giao hòa, hô ứng giữa sự vật với nhau và giữa con người”(Lê Đình Kị - Thơ mới những bước thăng trầm). Tóm lại, thơ tự do là một thể hình thành từ phong trào Thơ mới. Thơ tự do mới cả về nội dung và hình thức. Nội dung trong thơ tự do tuân theo mạch cảm xúc và mạch suy tưởng của nhà thơ. Hình thức thơ tự do không bị câu thúc bởi niêm, luật và đối như thơ cách luật… Nhà thơ tự do sử dụng từ ngữ và câu thơ theo ý đồ nghệ thuật của mình. Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 15 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Chương II THƠ TỰ DO CỦA XUÂN DIỆU VÀ THƠ TỰ DO CỦA XUÂN DIỆU TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG I. Thơ tự do của Xuân Diệu 1. Xuân Diệu - “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” “Người (Xuân Diệu) đã tới giữa chúng chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy” (Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam). Xuân Diệu đã đến với làng thơ Việt Nam bằng cái mới lạ rất phương Tây của mình. Ban đầu người ta có thể choán ngợp trước cái mới lạ đó, nhưng khi đã tìm hiểu về con người này thì ta lại thấy “Ông táo bạo trong dùng từ, đổi mới các âm tiết trong câu, vẫn giữ lối kết khổ, hợp vần của truyền thống. Đây chính là thể hiện thú vị của mối quan hệ biện chứng, thẩm thấu lẫn nhau giữa mặt tân kì, Âu Tây với mặt dân tộc truyền thống trong tiếng thơ Xuân Diệu”(Lê Quang Hưng) Như vậy, theo Xuân Diệu thì thơ tự do không phải là hoàn toàn được tự do, mà tự do phải có quy tắc. Cái mới của thơ Xuân Diệu đó là ở cách dùng từ, ông dùng từ rất độc đáo. Chúng ta cũng có thể thấy thơ Xuân Diệu ít những bài tự do hoàn toàn, chủ yếu là thơ 7 chữ, 8 chữ…, chỉ có 4 bài thơ tự do hoàn toàn: Vội vàng, Tương tư chiều, Khi chiều giăng lưới, Thở than. 2. Đặc điểm thơ tự do của Xuân Diệu Phần lớn thơ tự do của Xuân Diệu là thơ tự do về nội dung tư tưởng và cách dùng từ. Đây cũng chính là cái mới mà Xuân Diệu mang lại cho thơ ca Việt Nam. Thơ mới là tiếng nói trữ tình của cái “tôi” đòi giải phóng. Xuân Diệu là người nói đến cái tôi thấm thía nhất và mãnh liệt nhất. Đó là cái tôi ham yêu và ham sống. Sống thì phải yêu, mà yêu là để sống. Xuân Diệu thể hiện cái tôi của mình rõ ràng và mãnh liệt nhất là trong tình yêu. Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ 16 Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Phải nói yêu trăm bận đến ngàn lần. (Phải nói) Với Xuân Diệu, yêu là tồn tại: Làm sao sống được mà không yêu, Không nhớ, không thương một kẻ nào? Như vậy cái tôi Xuân Diệu hiện ra như một tình nhân, sống trong tình yêu và sống bằng tình yêu. Cái tôi ham sống của Xuân Diệu còn là cái tôi ham mê tận hưởng vẻ đẹp của vườn trần. Đó là cái tôi mang triết lý hưởng thụ: Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn Làm dây đa quấn quýt cả mình xuân Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất. Cái tôi Xuân Diệu còn là cái tôi ý thức về sự trôi chảy của thời gian. Nếu như trong thơ cổ, người ta quan niệm thời gian là tuần hoàn, con người sống theo dòng chảy của thời gian, thì đến Xuân Diệu, thời gian là một đi không trở lại, thời gian là tuổi trẻ của con người. Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. Xuân Diệu ý thức được cái tôi của mình cùng với ý thức sự cô đơn của mình Người si muôn kiếp là hoa núi Uổng nhụy long tươi tặng khách hờ Cái mới trong thơ Xuân Diệu không chỉ ở nội dung bài thơ, mà ngôn ngữ chuyển tải nội dung ấy cũng rất mới, cách dùng từ của Xuân Diệu rất tự do và táo bạo. Đó là cách dùng từ theo ảnh hưởng của thơ Pháp. Trước hết, đó là ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, mà người đề xướng đầu tiên đó là Rabelaire, một nhà thơ Pháp vào thế kỉ XIX. Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 17 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Trong thơ Xuân Diệu có rất nhiều từ dùng với nghĩa tượng trưng.Trước tiên là các từ chuyển đổi cảm giác, giao thoa cảm giác: “Này lắng nghe em khúc nhạc thơm”. Hay: “Đàn buồn, đàn chậm, ôi đàn lạnh Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”. Tượng trưng, đó còn là việc dùng một hình ảnh để biểu trưng cho nhiều hình ảnh khác: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Trong thơ Xuân Diệu còn sử dụng một hệ thống động từ mạnh thể hiện tình yêu mãnh liệt, niềm khao khát sống mãnh liệt như: ôm, riết, cắn, ghì, …; hệ thống các từ láy, và các từ gợi hình: Phất phơ, lả lả, xiêu xiêu, ngả ngả, run rẩy, rung rinh, run…; các quan hệ từ được lặp đi lặp lại: này đây, và… Thơ Xuân Diệu còn đặc trưng bởi cách sử dụng những hình ảnh tự do, mới lạ: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” Hay “Mùa xuân chín ửng trên đôi má”. Xuân Diệu cũng tổ chức câu thơ theo kiểu câu thơ tự do, đó là kiểu câu vắt dòng: Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn, …………………………………. Hay kiểu câu thơ định nghĩa theo ảnh hưởng của thơ Pháp: Tôi là con chim đến từ núi lạ, Ngứa cổ hát chơi, Giọng điệu có khi trẻ trung, sôi nổi: “Chẳng bao giờ.Ôi! Chẳng bao giờ nữa Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 18 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Cũng có khi đằm thắm, dịu dàng, pha chút tự sự: “Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên Cây me ríu rít cặp chim chuyền Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”. Như vậy, Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Thơ của Xuân Diệu mới cả về nội dung tư tưởng và hình thức biểu hiện. Thơ tự do của Xuân Diệu là sự hòa quyện của một tâm hồn Việt, các thể thơ cổ Trung Hoa với thơ ca lãng mạn phương Tây. Vì vậy thơ tự do của ông tự do mà “không phải muốn làm gì thì làm”. II. Thơ tự do của Xuân Diệu trong trường PT 1. Thơ tự do trong trường PT Trong chương trình Ngữ văn11, ban cơ bản có các bài thơ tự do: +Vội vàng - Xuân Diệu +Tràng giang - Huy Cận +Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử +Từ ấy - Tố Hữu Trong chương trình Ngữ Văn12, ban cơ bản có các bài thơ tự do: +Tây Tiến - Quang Dũng +Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm +Sóng - Xuân Quỳnh +Đàn ghi ta của Lor - ca – Thanh Thảo Và một số bài đọc thêm Nhưng các bài thơ này chủ yếu là các bài thơ tự do không hoàn toàn, chỉ có một số bài được coi là thơ tự do hoàn toàn, đó là bài “Vội vàng”, “Đàn ghi ta của Lor - ca”. Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 19 Trường ĐHSP Báo cáo khoa học Phạm Thị Phấn Như vậy, thơ tự do chiếm một vị trí khá quan trọng trong chương trình THPT, nó góp phần giúp HS hiểu về một thờ đại trong thi ca, thời đại của Thơ mới 2. Vội vàng - Bài thơ tự do hoàn toàn của Xuân Diệu thể hiện cảm xúc thi ca và triết lý nhân sinh của Xuân Diệu Trước hết, chúng ta cần thấy được giá trị của bài thơ “Vội vàng”, bởi đây là một trong bốn bài thơ tự do hiếm hoi của Xuân Diệu. Nó không chỉ mang đầy đủ những đặc điểm của thơ Xuân Diệu, mà trong bài thơ còn có những cách tân độc đáo của thể thơ tự do. 2.1. Về ngôn ngữ trong bài thơ “Vội vàng” Ngôn ngữ trong bài thơ “Vội vàng” mang những đặc điểm thơ tự do của Xuân Diệu nói chung: + Trước tiên, đó là những từ chỉ cảm xúc, cảm giác lạ, mạnh: Những cảm giác đó trước tiên được thể hiện qua những từ chỉ hành động: “tắt nắng”, “buộc gió”. “Tắt”, là động từ, tác động vào vật nào đó làm cho nó không còn tồn tại như dạng hoạt động ban đầu nữa. Còn “nắng” là một danh từ chỉ một hiện tượng thiên nhiên không thể nắm bắt được. Nắng là một vật vô hình, tồn tại vĩnh cửu không bao giờ mất đi, cũng không có ai tác động được đến nắng → “Tắt nắng” là một ước muốn không bao giờ thực hiện được. Đó chỉ là một ước muốn của một cái tôi bồng bột mà thôi. Cũng như vậy, “buộc gió” là hành động một người bình thường không thể thực hiện được. “Tắt nắng” và “buộc gió” chỉ để thể hiện niềm khao khát của tác giả muốn níu giữ những hương sắc của thiên nhiên mà thôi. +Các động từ: ôm, riết, say, thâu, cắn, là những động từ mạnh, gợi cảm giác muốn chiếm lĩnh hoàn toàn thiên nhiên của mùa xuân. Trong bài thơ này, thiên nhiên chính là người tình của tác giả. Tác giả muốn hòa mình vào thiên nhiên, muốn say sưa cùng thiên nhiên, muốn tận hưởng cái tuyệt đích, tuyệt Líp: K56C - Khoa Ngữ văn Hà Nội 20 Trường ĐHSP
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan