Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tổ chức cho học sinh tự lực học tập chương “ cảm ứng điện từ” vật lý 11 nâng c...

Tài liệu Tổ chức cho học sinh tự lực học tập chương “ cảm ứng điện từ” vật lý 11 nâng cao

.PDF
95
891
81

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA VẬT LÝ Trần Thị Bích Trâm TỔ CHỨC CHO HỌC SINH TỰ LỰC HỌC TẬP CHƯƠNG “ CẢM ỨNG ĐIỆN TỪ” VẬT LÝ 11 NÂNG CAO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2013 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA VẬT LÝ Trần Thị Bích Trâm TỔ CHỨC CHO HỌC SINH TỰ LỰC HỌC TẬP CHƯƠNG “ CẢM ỨNG ĐIỆN TỪ” VẬT LÝ 11 NÂNG CAO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành: SƯ PHẠM VẬT LÝ Mã số: 102 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2013 2 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN Chữ viết tắt SGK Chữ viết đầy đủ Sách giáo khoa GV Giáo viên HS Học sinh 3 MỤC LỤC MỤC LỤC ................................................................................. 3 MỞ ĐẦU.................................................................................... 5 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ĐỊNH HƯỚNG VÀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TỰ LỰC CỦA HỌC SINH............................................................................ 10 1.1. Bản chất của hoạt động dạy học................................................... 10 1.2. Tự lực học tập............................................................................... 11 1.3. Hoạt động tổ chức, hướng dẫn học sinh tự lực học tập ............... 15 CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG TIẾN TRÌNH DẠY HỌC NHẰM PHÁT HUY KHẢ NĂNG TỰ LỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH ..................................................................................... 31 2.1. Phân tích cấu trúc nội dung chương “cảm ứng điện từ” .................. 31 2.2. Thiết kế nội dung bài giảng ............................................................. 36 CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ........................ 80 3.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm ................................................ 80 3.2. Đặc điểm đối tượng .......................................................................... 80 3.3. Nội dung thực nghiệm sư phạm ....................................................... 80 3.4. Tiến trình thực nghiệm..................................................................... 81 3.5. Hướng khắc phục những hạn chế..................................................... 88 3.6. Kết luận về thực nghiệm sư phạm ................................................... 89 4 KẾT LUẬN ............................................................................. 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ xưa đến nay, giáo dục luôn chiếm một vị trí hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc và cả nhân loại. Học tập là một vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Thực trạng đã cho thấy các quốc gia trên toàn thế giới đang chuyển sang giai đoạn phát triển một nền văn minh mới – nền văn minh tri thức. Chúng ta phải phát triển trí tuệ và trau dồi kĩ năng để tránh bị đào thải. Vì vậy việc học là rất cần thiết và có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi người chúng ta. “Học, học nữa, học mãi” – câu nói bất hủ của Lê-nin dễ dàng được minh chứng là đúng cho mọi thời đại, nhất là thời đại khoa học công nghệ phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay. Sống trong hoàn cảnh đó, con người phải không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức, kĩ năng. Tuy nhiên không phải lúc nào bên cạnh mình cũng có người thầy cung cấp sẵn những tri thức cần thiết. Điều này đòi hỏi mỗi người phải trang bị cho mình khả năng tự lực học tập để có thể học một cách chủ động và hiệu quả. Theo cố giáo sư Tạ Quang Bửu : “Muốn học giỏi phải có phương pháp học tập và phương pháp nghiên cứu khoa học. Những năm học ở trường là quá trình xây dựng phương pháp học tập tốt để làm tiềm lực cho suốt đời vì suốt đời phải học tập. Nội dung chung của phương pháp học là tiếp thu kiến thức và thông tin khoa học một cách sáng tạo, để sáng tạo ra những phương pháp mới. Đó là độc lập suy nghĩ.”[1] Lý luận và thực tiễn cho thấy, khi một chủ thể trực tiếp thực hiện một công việc nào đó, nếu chủ thể này tích cực tìm tòi, đào sâu suy nghĩ, có ý thức tự giác, chủ động làm công việc của mình thì sẽ hiểu công việc đó một cách sâu sắc và hoàn thành tốt nhiệm vụ đặt ra. 6 Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương tại đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học” [2]. Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chỉ đạo phải đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy học sinh làm trung tâm, đảm bảo cho học sinh có thời gian được thảo luận, được trình bày và được vận dụng củng cố kiến thức, có thói quen tự nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa (SGK) ở nhà. “Dạy học các môn khoa học ở nhà trường không chỉ đơn thuần là giúp cho học sinh có được một số kiến thức cụ thể nào đó. Điều cơ bản quan trọng hơn hết là trong quá trình dạy học các tri thức cụ thể đó phải rèn luyện cho học sinh tiềm lực để khi ra trường học sinh có thể tiếp tục tự học tập, có khả năng nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo, giải quyết các vấn đề, đáp ứng được những đòi hỏi đa dạng của hoạt động thực tiễn không ngừng phát triển”[3] . Tuy nhiên, một thực tế ở các trường phổ thông là vẫn chưa có nhiều sự thay đổi về phương pháp, phần nhiều các giáo viên vẫn còn dùng phương pháp thuyết trình, học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, chưa phát huy được tính tích cực và tự lực học tập của học sinh. Về kĩ năng, với cách học truyền thống, tức là học sinh đến lớp nghe giảng và ghi chép thụ động, số tiết thực hành lại hạn hẹp, các em ít có cơ hội được rèn luyện các kĩ năng, nhất là kĩ năng làm thí nghiệm, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng phân tích và tổng hợp, …, trong khi đó lại là những kĩ năng rất quan trọng của con người trong xã hội hiện đại. Với bộ môn Vật lý, để học tốt thì học sinh vừa phải nắm vững bản chất, nội dung của các định luật, hiện tượng , các thuyết,… vừa phải biết vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn. Vì vậy học sinh cần phải có một phương pháp học tích cực, chủ động, có cơ hội tiến hành các thí nghiệm, phân tích các bài tập, liên hệ với thực tiễn thì mới hiểu bài một cách sâu sắc. Nói về chương ”Cảm ứng điện từ”, đây là một chương tương đối khó đối với học sinh lớp 11. Nhiều em không hiểu hoặc hiểu một cách hời hợt phần kiến thức 7 trong chương này. Thiết nghĩ nếu các em có cơ hội tự tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi với giáo viên và các bạn thì nhất định hiệu quả học tập của các em sẽ được nâng lên đáng kể. Như đã phân tích ở trên, việc hình thành khả năng tự lực học tập cho học sinh là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên các em vẫn chưa đủ năng lực để tự mình tìm kiếm những tri thức cơ bản và cần thiết. Do đó người giáo viên phải là người hướng dẫn giúp học sinh tự tìm ra tri thức cho mình. Để làm được điều đó, giáo viên phải có những định hướng phù hợp, biết cách tổ chức một tiết học sao cho học sinh có thể phát huy tối đa vai trò chủ động của mình. Về nhu cầu của bản thân – một sinh viên sư phạm sắp ra trường, tôi luôn trăn trở về một phương pháp dạy học nào đó mà có thể phát huy hết nội lực của học sinh. Tôi luôn mong mỏi mỗi tiết dạy của mình đều đem lại cho học sinh sự hứng thú và thái độ tích cực học tập. Với những lý do trên, đề tài Tổ chức cho học sinh tự lực học tập chương “ Cảm ứng điện từ” - Vật lý 11 nâng cao mà chúng tôi nghiên cứu sẽ có khả năng giúp các em học sinh hiểu một cách sâu sắc hơn kiến thức trong chương này cũng như các kiến thức có liên quan, đồng thời rèn luyện cho các em thói quen suy nghĩ độc lập, không ỷ lại giáo viên, biết cách làm việc nhóm hiệu quả, rèn kĩ năng thực hành, kĩ năng tìm kiếm tài liệu, tự nghiên cứu tài liệu phục vụ cho việc học tập của mình. 2. Mục tiêu của đề tài Xây dựng kế hoạch dạy học và tổ chức dạy học nâng cao tính tự lực của học sinh chương “ Cảm ứng điện từ” Vật lý 11 Nâng cao. 3. Giả thuyết khoa học Nếu xây dựng tiến trình dạy học phù hợp với quan điểm lý luận dạy học về phát triển khả năng tự lực học tập của học sinh cũng như có sự điều chỉnh cho phù 8 hợp với từng đối tượng học sinh thì có thể giúp học sinh tự lực chiếm lĩnh tri thức, nâng cao khả năng tự học và góp phần nâng cao chất lượng dạy học. 4. Đối tượng nghiên cứu Quá trình tổ chức dạy học chương “Cảm ứng điện từ” SGK Vật lí 11 Nâng cao tại trường Trung học phổ thông. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận về phương pháp dạy học tăng tính tự lực của học sinh. - Đề xuất sử dụng những phương pháp định hướng học sinh tự lực học tập. - Xây dựng kế hoạch dạy học chương “Cảm ứng điện từ” SGK Vật lí 11 Nâng cao theo định hướng tự lực học tập cho học sinh. - Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng giả thuyết. 6. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận + Nghiên cứu lý luận dạy học, tâm lý học, giáo dục học và các tài liệu khác có liên quan đến đề tài. + Nghiên cứu mục tiêu, nội dung chương trình vật lý lớp 11 nâng cao, đặc biệt là chương “Cảm ứng điện từ” và các chương có liên quan đến kiến thức của chương này. - Điều tra + Tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn cũng như một số giáo viên Vật lí có kinh nghiệm dạy lớp 11 để học hỏi và trau dồi kinh nghiệm dạy học cũng như cách hướng dẫn học sinh tự lực học tập + Thăm dò thái độ của học sinh trước và sau khi được giáo sinh tổ chức các bài học theo hướng nâng cao tính tự lực của học sinh. 9 - Thực nghiệm sư phạm Tổ chức dạy học theo kế hoạch đã xây dựng trong đợt thực tập sư phạm và rút kinh nghiệm, chỉnh sửa kế hoạch bài dạy cho phù hợp hơn. 10 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ĐỊNH HƯỚNG VÀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TỰ LỰC CỦA HỌC SINH Trong chương này chúng tôi trình bày những cơ sở lý luận về những vấn đề: bản chất của hoạt động dạy học, nội dung của hoạt động tự lực học tập và ý nghĩa của nó, một số phương pháp tổ chức và hướng dẫn học sinh tự lực học tập. 1.1. Bản chất của hoạt động dạy học. 1.1.1. Bản chất của hoạt động học Học là một hoạt động nhận thức nhằm chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiệm mà nhân loại đã tích lũy thông qua sự tái tạo của cá nhân. Việc học sẽ đạt hiệu quả cao nhất nếu đó là một quá trình có chủ ý, cấu thành từ những thông tin và kinh nghiệm đã được tích lũy. Học là một hoạt động tích cực, tự lực và sáng tạo của người học nhằm tạo ra sự thay đổi trong nhận thức, thái độ và kĩ năng trên cơ sở những kiến thức, thái độ và kĩ năng hiện có của bản thân [4]. Theo B.S.Bloom [5], không ai có thể truyền thụ cho chúng ta tất cả những tri thức mà ta sẽ cần trong mọi hoàn cảnh mới. Vậy nên ta cần phải tiếp thu những tri thức được nhận định là có ích nhất trong quá khứ, phát triển những khả năng và kỹ năng trí tuệ để có thể áp dụng những tri thức này trong hoàn cảnh mới, nghĩa là tự mình phải tạo cho mình năng lực thực tiễn cần thiết để sống được và phát triển được trong xã hội đương thời. Những tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm mà người học tái tạo lại không có gì mới đối với nhân loại, nhưng nhờ có hoạt động học, trong bản thân người học có sự biến đổi, và chính sự biến đổi này sẽ giúp hình thành phẩm chất, năng lực ở người học, giúp họ sáng tạo ra những giá trị mới sau này. 11 Như vậy, người học phải chủ động, tích cực, tự lực trong học tập thì mới có thể hoàn thiện và phát triển nhân cách cá nhân. 1.1.2. Bản chất của hoạt động dạy Dạy học là hoạt động của giáo viên: tổ chức, điều khiển hoạt động của học sinh nhằm giúp cho học sinh có thể lĩnh hội tri thức, tạo ra sự phát triển tâm lý và nhân cách của họ. “Bản chất của hoạt động tổ chức học tập là tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, sáng tạo, chủ động của học sinh, hình thành năng lực tự tổ chức, sắp xếp quá trình học tập hợp lý phù hợp với điều kiện của bản thân người học dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của các lực lượng giáo dục và vai trò chủ động tích cực của người học là yếu tố “ nội lực” của sự phát triển, sự tác động của giáo viên và các yếu tố khác là “ ngoại lực”. Hiệu quả cao nhất của đào tạo là có sự cộng hưởng giữa nội lực và ngoại lực.”[6] Trong cuốn Giáo dục học, Kairov viết: “Giảng dạy không phải là chỉ nhồi cho học sinh một mớ kiến thức. Các em không phải là cái bình chứa, mà kiến thức cũng không phải là chất nước rót vào bình”, cho nên “ trong quá trình giảng dạy cần phát triển tính tích cực và độc lập của học sinh”. Để làm được điều đó, người giáo viên không còn đóng vai trò là người truyền đạt kiến thức mà là người gợi mở, hướng dẫn, tổ chức, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động tự học của học sinh. 1.2. Tự lực học tập 1.2.1. Định nghĩa Theo từ điển tiếng Việt : Tự lực nghĩa là tự sức mình làm lấy, không dựa dẫm nhờ vả người khác. Từ đó có thể hiểu: Tự lực học tập nghĩa là tự sức mình học lấy, không dựa dẫm nhờ vả người khác. 12 Theo tác giả Thái Duy Tuyên, tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo,… và kinh nghiệm lịch sử, xã hội loài người nói chung của chính bản thân người học. [7] Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “ Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ và không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi,…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.” [8] Về định nghĩa tự học có nhiều cách diễn đạt khác nhau, song có thể hiểu tự lực học tập là tự mình suy nghĩ, tìm tòi để chiếm lĩnh tri thức bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Có nhiều hình thức tự học khác nhau, ở đây chỉ đề cập đến sự tự học của học sinh phổ thông dưới sự hướng dẫn của giáo viên. 1.2.2. Nội dung của hoạt động tự lực học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên Dưới sự định hướng và trợ giúp của giáo viên, học sinh cần phải thực hiện những nội dung tự học như sau: - Thông qua phần đặt vấn đề của giáo viên, hoặc học sinh tự nêu được vấn đề dưới sự định hướng của giáo viên mà học sinh xác định nhu cầu, động cơ và mục đích để kích thích hứng thú học tập. - Cùng giáo viên xây dựng kế hoạch học tập. - Chọn và đọc tài liệu. - Tiếp cận thông tin thông qua đọc tài liệu, nghe giảng, dự hội thảo, làm thí nghiệm, điều tra,… 13 - Xử lí thông tin. - Vận dụng thông tin để giải quyết vấn đề. - Tự kiểm tra và đánh giá. 1.2.3. Ý nghĩa của tự học - Học không chỉ đơn thuần là học tri thức mà còn học cách học. Theo Phạm Văn Đồng : “Điều chủ yếu không phải là nhồi nhét một mớ kiến thức hỗn độn … mà là phương pháp suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề.” Khi tự học, học sinh sẽ rèn luyện được những kĩ năng thiết yếu đó, hình thành nên những con người năng động, sáng tạo và biết suy nghĩ độc lập, nhờ đó dễ thích ứng với mọi hoàn cảnh, mọi biến đổi liên tục trong xã hội hiện đại. - Khi tự lực học tập, học sinh phải nghiền ngẫm, lật đi lật lại vấn đề, nảy sinh thắc mắc và tìm cách trả lời, nhờ đó mà tư duy độc lập, tư duy phê phán và tư duy sáng tạo được hình thành và phát triển. - Khi tự học, học sinh thấy được những vất vả của những người nghiên cứu khoa học, từ đó hình thành thái độ biết trân trọng những thành quả mà nhân loại đã đạt được. - Tự học là một yêu cầu cấp thiết của việc đổi mới phương pháp dạy học. Xu thế hiện nay là trong dạy học phải phát huy được tính tích cực, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung tâm. Để làm được điều đó thì cần phải dạy cho học sinh biết cách tự học. 1.2.4. Các hành động tự học đối với học sinh trong quá trình học tập môn Vật lý. Trong quá trình học môn Vật lý, học sinh phải suy luận logic để xây dựng kiến thức mới, phải biết cách tổ chức thí nghiệm và rút ra kiến thức từ những thông tin thu được trong các thí nghiệm, phải tự giải nhiều bài tập Vật lý, phải biết vận dụng 14 những kiến thức vật lý đã học để tự giải thích các hiện tượng tự nhiên, các ứng dụng thực tế trong đời sống. Các hành động tự học môn Vật lý của học sinh cụ thể là: - Xác định động cơ học tập để tạo hứng thú tự học. - Xác định nội dung tự học: + Tìm hiểu kiến thức mới + Giải bài tập vật lý + Hệ thống hóa kiến thức + Giải thích các hiện tượng tự nhiên và đời sống - Từ nội dung tự học mà học sinh xác định được các công việc: + Làm việc với SGK theo hệ thống câu hỏi của giáo viên. + Quan sát, làm thí nghiệm + Tự lực vận dụng các kiến thức, lập luận, suy luận logic để rút ra các kết luận. + Thảo luận với bạn học. + Tự lực giải các bài tập. + Tự lập bảng hoặc sơ đồ tư duy để hệ thống lại kiến thức và ghi nhớ tốt. + Trao đổi, tranh luận với giáo viên. + Tự đánh giá kết quả tự học của mình. 15 1.3. Hoạt động tổ chức, hướng dẫn học sinh tự lực học tập 1.3.1. Một số phương pháp dạy học Vật lí tăng tính tự lực, tích cực của HS [9], [10] a. Phương pháp đàm thoại - Đàm thoại tái hiện: là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra một hệ thống câu hỏi chỉ nhằm cho học sinh tái hiện lại những kiến thức đã học. Đàm thoại tái hiện có thể dùng trong nhiều mục đích dạy học, nhưng chủ yếu dùng trong ôn tập, củng cố, hệ thống hóa kiến thức và trong kiểm tra kiến thức cũ. - Đàm thoại thuyết trình: là loại đàm thoại trong đó giáo viên đặt ra một hệ thống câu hỏi nhằm dẫn dắt học sinh trả lời và thông qua đó thuyết trình cho học sinh một vấn đề hoàn chỉnh của vật lí. - Đàm thoại ơrixtic (còn gọi là đàm thoại tìm tòi – phát hiện hoặc đàm thoại gợi mở): là đàm thoại trong đó giáo viên đặt ra một hệ thống câu hỏi có tính chất gợi mở, nêu ra những vấn đề cần giải quyết. Đồng thời bằng một hệ thống các câu hỏi, các yêu cầu mà giáo viên tổ chức cho học sinh tự tìm hiểu, nghiên cứu, trao đổi với thầy,trao đổi với nhau để đạt tới mục đích của việc dạy học vật lí như học sinh nắm vững một kiến thức vật lí mới, rèn luyện một kĩ năng vật lí mới,… Bằng phương pháp này học sinh không những lĩnh hội được nội dung kiến thức mà còn học được cả phương pháp nhận thức và cách diễn đạt tư tưởng bằng ngôn ngữ nói. b. Phương pháp dạy học giải bài tập Bài tập là một phương tiện dạy học quan trọng của người giáo viên. Bài tập giúp học sinh hệ thống lại kiến thức, đồng thời rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo, kỹ năng vận dụng kiến thức, giải quyết vấn đề. Việc giải bài tập rèn cho học sinh tính kiên trì, chịu khó, cẩn thận. Khi tự lực giải được bài tập, học sinh sẽ cảm thấy vui sướng, thêm yêu thích và say mê khoa học. c. Phương pháp dạy học nêu vấn đề 16 Nội dung cơ bản của phương pháp này là giáo viên đặt ra trước học sinh một vấn đề học tập cần giải quyết dưới dạng một bài toán có vấn đề, dẫn dắt học sinh tiếp nhận được mâu thuẫn của bài toán và chuyển mâu thuẫn này thành mâu thuẫn nội tâm, đặt học sinh vào trạng thái tâm lí có nhu cầu và sẵn sàng giải quyết mâu thuẫn. Về mặt lý luận, đây là phương pháp dạy học tốt nhất, đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu mà mục đích dạy học đề ra. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay thì phương pháp này rất khó thực hiện đầy đủ. Vấn đề cơ bản là giáo viên cần vận dụng linh hoạt các mức độ thấp của phương pháp này. d. Phương pháp thảo luận theo nhóm nhỏ Học sinh được làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và mỗi thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào nhiệm vụ đã được phân công sẵn. Tác dụng của phương pháp này: - Học sinh ý thức được khả năng của mình - Nâng cao niềm tin của học sinh vào việc học tập. - Nâng cao khả năng ứng dụng khái niệm, nguyên lý, thông tin về sự việc vào giải quyết các tình huống khác nhau. - Cải thiện mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân. - Dễ dàng hơn, ít thất bại. - Tôn trọng các giá trị dân chủ. - Tăng cường sự tôn trọng chính bản thân mình. e. Phương pháp dạy học theo dự án Là phương pháp mà dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tiếp thu kiến thức và hình thành kỹ năng thông qua quá trình giải quyết một tình huống có thật 17 trong đời sống, theo sát chương trình học và có sử dụng những kiến thức thuộc những môn học khác có liên quan. g. Phương pháp thí nghiệm thực hành vật lí Là phương pháp trong đó giáo viên tổ chức và hướng dẫn cho học sinh thực hành các thí nghiệm vật lí nhằm mục đích tác động trực tiếp lên đối tượng vật lí để nghiên cứu chúng. Ưu điểm: Học sinh phát huy được tính tích cực chủ động, rèn luyện được kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy sáng tạo và khả năng hoạt động độc lập, rèn luyện được những phẩm chất tốt của người làm công tác nghiên cứu và biết cách nghiên cứu, đồng thời kiến thức thu được chắc chắn, sâu sắc và tạo được hứng thú học tập. Nhược điểm: đòi hỏi trang thiết bị và cơ sở vật chất phải đồng bộ và đầy đủ, thời gian kéo dài, trình độ học sinh không đồng đều cũng là một khó khăn khi thực hiện phương pháp này. 1.3.2. Hướng dẫn học sinh tự lực học tập Muốn học sinh phổ thông có thể tự học tốt thì sự định hướng của giáo viên là vô cùng quan trọng. Nhờ có sự định hướng thích hợp của giáo viên mà học sinh có thể bám sát mục tiêu bài học, hoàn thành nhiệm vụ học tập, không lãng phí thời gian quý báu trên lớp cũng như ở nhà. 1.3.2.1. Một số hình thức định hướng của giáo viên a. Năm định hướng dạy học của R. Marzano [11]: - Tạo ra và duy trì thái độ, sự nhận thức tích cực về việc học. - Tổng hợp và thu nhận kiến thức. - Mở rộng và tinh lọc kiến thức. - Sử dụng kiến thức hiệu quả. - Rèn luyện thói quen tư duy. 18 b. Theo Galperin, có thể phân tích một hành động theo hai phương diện là cấu trúc và đặc điểm. Về cấu trúc, hành động có hai phần: phần định hướng và phần thực hiện. Phần định hướng lại có thể được tách ra làm hai khía cạnh: bản thân sự định hướng trong cơ cấu hành động và các phương pháp tổ chức việc định hướng cho trẻ em. Có 3 phương pháp định hướng cơ bản [12]: - Giáo viên chỉ giao mẫu sản phẩm, không nêu cách làm. - Giáo viên hướng dẫn theo mẫu (nêu các bước hành động cụ thể). - Giáo viên hướng dẫn phương pháp chung (khái quát). b. Theo tác giả Nguyễn Mạnh Hùng có các kiểu định hướng sau [12]: • Định hướng theo mẫu: là kiểu định hướng mà giáo viên làm mẫu hành động, học sinh theo dõi hành động và làm theo. - Định hướng theo mẫu đầy đủ: giáo viên hướng dẫn bằng lời và hành động cụ thể từng bước, học sinh tiến hành làm theo. Có thể dùng kiểu định hướng này để thuyết trình về một kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành thí nghiệm hoặc giải bài tập. Ví dụ trong việc hướng dẫn học sinh giải bài tập: + Giáo viên làm một bài tập mẫu rồi học sinh bắt chước làm theo ở những bài tập cùng dạng đó. + Giáo viên (GV) yêu cầu một học sinh (HS) lên bảng giải một bài tập, giáo viên sửa cho hoàn chỉnh rồi từ đó cả lớp bắt chước làm theo những bài tập cùng dạng. Hoặc ví dụ trong việc hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm: GV làm thí nghiệm cho HS xem rồi sau đó học sinh tiến hành làm lại. - Định hướng theo mẫu từng phần, không đầy đủ: giáo viên hướng dẫn một số bước chính, học sinh tự tiến hành làm. Định hướng này có thể dùng trong thực hành thí 19 nghiệm, giải bài tập nhưng ở mức độ cao hơn kiểu định hướng theo mẫu đầy đủ, vì giáo viên không làm từng bước mà chỉ hướng dẫn một số bước chính cho học sinh tự làm. Ví dụ trong việc hướng dẫn HS làm thí nghiệm: GV thuyết trình phương án thí nghiệm và yêu cầu HS tiến hành thí nghiệm. - Định hướng theo mẫu tái tạo: là kiểu định hướng bằng cách nhắc lại những hành động mà giáo viên đã chỉ dẫn hoặc lặp lại những hành động quen thuộc đã làm ở những tình huống tương tự mà học sinh đã quên. Ví dụ: GV nhắc lại cách thiết lập công thức tính thế năng trọng trường dựa vào công thức tính công của trọng lực: Ta có công thức tính công của trọng lực: A BC =mgz B – mgz C . Ký hiệu W t =mgz và gọi W t là thế năng trọng trường của vật. 1 1 Tương tự từ công thức tính công của lực đàn hồi A 12 = kx 1 2 - kx 2 2 , HS có 1 thể định nghĩa W dh = kx2 là thế năng đàn hồi của vật. 2 2 2 Nhận xét: Định hướng theo mẫu là kiểu định hướng ở mức độ thấp, ít phát huy tính tích cực và khả năng tư duy của học sinh. Định hướng này chỉ có tác dụng củng cố phương thức nhận thức cũ, thường áp dụng cho đối tượng học sinh có học lực trung bình và dùng nhiều trong việc hướng dẫn giải các bài tập cơ bản hoặc xây dựng các kiến thức tương tự với các kiến thức đã học. • Định hướng suy luận: là kiểu định hướng mà hành động của học sinh là hành động tìm tòi bằng con đường suy luận logic, xây dựng kiến thức mới trên cơ sở phát triển tư duy khoa học và năng lực sáng tạo cho học sinh. Định hướng suy luận có 2 dạng: - Định hướng suy luận – chương trình hóa: là kiểu định hướng mà hành động của học sinh là hành động tìm tòi nhưng học sinh nhận thức được đường lối thực
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan