Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trƣờng chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trƣờng tài chính,của nền
kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển,càng khẳng định vai trò không thể thiếu của thị
trƣờng chứng khoán trong tiến trình phát triển của cả đất nƣớc,không chỉ với các doanh
nghiệp mà còn cả các cá nhân trong nền kinh tế.Thị trƣờng chứng khoán là nơi tập trung
và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm, huy động vốn đầu tƣ cho nền kinh tế,cung cấp môi
trƣờng đầu tƣ cho công chúng, đồng thời nó cũng là nơi đánh giá hoạt động của các
doanh nghiệp và tạo môi trƣờng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách quản lý kinh tế
vĩ mô. Để thực hiện thành công những mục tiêu đã đề ra và tối đa hoá lợi ích khi tham gia
thị trƣờng,mỗi chủ thể tham gia đều có những chiến lƣợc đầu tƣ dựa trên các phân tích
riêng.Phân tích kỹ thuật là một trong nhiều cách phân tích khác nhau để lựa chọn một
danh mục đầu tƣ hợp lý.Phân tích kỹ thuật là phƣơng pháp mà chỉ dựa chủ yếu vào giá và
khối lƣợng để dự đoán xu thế trong tƣơng lai.Với những ƣu thế của mình, phân tích kỹ
thuật đã đƣợc sử dụng khá phổ biến và đem lại thành công cho nhiều nhà đầu tƣ trên thế
giới.Với Việt Nam,thị trƣờng chứng khoán vừa mới bƣớc những bƣớc những bƣớc đi
đầu tiên,việc sử dụng các công cụ phân tích trong quá trình đƣa ra quyết định đầu tƣ còn
rất hạn chế vì nhiều lý do.Tuy nhiên,cùng với sự lớn mạnh nhanh chóng về qui mô, nó
cũng đòi hỏi phải có một sự đánh giá chính xác hơn về giá trị của các hàng hóa tham gia
thị trƣờng để phát huy hơn nữa vai trò của thị trƣờng, đảm bảo một thị trƣờng hiệu quả
đối với các chủ thể tham gia.Vì lý do đó chúng em đã chọn đề tài ”Tìm hiểu về phân
tích kỹ thuật và ứng dụng một số chỉ báo cơ bản với thị trƣờng Việt Nam”.
Bài viết có hai chƣơng:-Chƣơng 1: Lý thuyết chung về phân tích kỹ thuật
-Chƣơng 2: Một số chỉ báo cơ bản và ứng dụng phân tích cổ
phiếu ở thị trƣờng Việt Nam.
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
CHƢƠNG I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
1.1.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT.
Thực tế, ngƣời Nhật là ngƣời đầu tiên dùng phân tích kỹ thuật trong phân tích các giao
dịch lúa gạo vào những năm 1800. Phân tích kỹ thuật thực sự bắt đầu mở rộng sau những
phát hiện của các nhà phân tích, điển hình là Charles H.Dow, chủ bút đầu tiên của tờ báo
phố Wall.và là ngƣời sáng tạo ra khái niệm chỉ số trung bình của thị trƣờng,ngày nay
đƣợc biết đến dƣới cái tên Chỉ số trung bình Dow Jones. Ngày nay phân tích kỹ thuật
đƣợc sử dụng rộng rãi tại các sàn giao dịch trên thế giới, trở thành một công cụ hữu hiệu
đối với các nhà đầu tƣ trên khắp thế giới. Với những phát triển vƣợt bậc của công nghệ
tin học, đã có hàng loạt các phần mềm ra đời hỗ trợ cho công tác phân tích kỹ thuật.
1.2.KHÁI NIỆM PHÂN TÍCH KỸ THUẬT.
Trên thực tế có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phân tích kỹ thuật. Rất nhiều những
nhà nghiên cứu trên thế giới từ trƣớc đến nay có những nhìn nhận khác nhau về phân tích
kỹ thuật dƣới những góc nhìn khác nhau.
Tuy nhiên có thể rút ra định nghĩa ngắn gọn về phân tích kỹ thuật nhƣ sau:
Phân tích kỹ thuật là phương pháp phân tích chỉ dựa vào diễn biến của giá và khối
lượng giao dịch trong quá khứ để dự đoán xu thế giá trong tương lai, và các áp lực cung
cầu có ảnh hưởng đến giá.
Các nhà phân tích kỹ thuật sử dụng công cụ toán học và đồ thị (các hình mẫu kỹ thuật)
để xác định xu thế thị trƣờng của một loại cổ phiếu nào đó, từ đó đƣa ra quyết định thời
điểm thích hợp để mua bán chứng khoán.
Một lợi thế lớn trong phân tích kỹ thuật là nó không phụ thuộc nặng vào các báo cáo
tài chính.Các nhà phân tích kỹ thuật cho rằng việc sử dụng báo cáo tài chính sẽ gặp một
số vấn đề nhƣ chúng không chứa đựng đầy đủ các thông tin cho việc phân tích,các báo
cáo tài chính khác nhau có thể áp dụng một số nguyên tắc kế toán khác nhau và các yếu
tố tâm lý cũng nhƣ những biến số định tính khác không đƣợc thể hiện trong các báo cáo
tài chính.
Hơn nữa ,nhà phân tích cơ bản phải xử lý thông tin mới một cách chính xác và nhanh
chóng để tìm ra giá trị nội tại mới của các chứng khoán trƣớc các nhà đầu tƣ khác.Trong
khi đó các nhà phân tích kỹ thuật chỉ cần nhanh chóng nhận ra xu thế dịch chuyển sang
một mức giá cân bằng mới bất kể đâu là nguyên nhân của sự dịch chuyển.
Các nhà phân tích kỹ thuật cho rằng họ có thể xác định đƣợc thời điểm lý tƣởng để thực
hiện giao dịch tốt hơn so với các nhà phân tích cơ bản.
1.3. CÁC GIẢ ĐỊNH TRONG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT.
Các nhà phân tích kỹ thuật đƣa ra các quyết định giao dịch dựa trên việc xem xét các số
liệu về giá và khối lƣợng giao dịch nhằm xác định xu thế thị trƣờng trong quá khứ để từ
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đó dự đoán xu thế trong tƣơng lai của toàn bộ thị trƣờng cũng nhƣ của từng chứng khoán
riêng lẻ. Các nhà phân tích kỹ thuật đã đƣa ra 1 vài giả định hỗ trợ cho dự đoán xu thế
biến động của thị trƣờng :
Giả định 1: Giá trị thị trƣờng của bất kỳ một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đều hoàn
toàn đƣơc xác định bởi sự tƣơng tác của cung - cầu.
Giả định 2: Cung - cầu đƣợc xác định bởi 1 số nhân tố. Những nhân tố này bao hàm cả
các nhân tố đƣợc sử dụng trong phân tích cơ bản, cũng nhƣ các quan điểm, những trạng
thái và những phỏng đoán. Thị trƣờng phản ánh tất cả những nhân tố này 1 cách tự động
và liên tục .
Giả định 3: Ngoại trừ 1 số giao động nhỏ, giá của các chứng khoán và thị trƣờng nói
chung có biểu hiện biến động theo các xu thế, các xu thế này diễn ra trong những khoảng
thời gian xác định.
Giả định 4: Các xu thế trội thay đổi tƣơng ứng với những sự dịch chuyển theo quan hệ
cung - cầu . Những sự dịch chuyển này bất kể do nguyên nhân nào gây ra, thì sớm hay
muộn cũng đều đƣợc phát hiện dựa vào các phản ứng của chính thị trƣờng.
Về một số phƣơng diện, những giả định này gây nhiều tranh cãi. Các nhà phân
tích cơ bản hàng đầu và những ngƣời theo lý thuyết thị trƣờng hiệu quả đặt câu hỏi về giá
trị của những giả định này .
Hai giả định đầu tiên dƣờng nhƣ đƣợc chấp nhận bởi các nhà phân tích kỹ thuật
và các nhà phân tích khác. Giá chứng khoán đƣợc xác định dựa trên quan hệ cung -cầu,
và quan hệ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động. Thị trƣờng liên tục phản ánh những
nhân tố này. Nhƣng các nhà phân tích kỹ thuật cho rằng sự ảnh hƣởng của các nhân tố
phi logic (trạng thái tâm lý, phỏng đoán,….) sẽ kéo dài trong 1 khoảng thời gian nhất
định.Trong khi đó các nhà phân tích thị trƣờng khác lại cho rằng các nhân tố phi logic chỉ
ảnh hƣởng trong ngắn hạn, còn các nhân tố logic mới tác động trong dài hạn.
Với giả định 3, các nhà phân tích kỹ thuật kỳ vọng giá chứng khoán biến động theo các
xu thế diễn ra theo những khoảng thời gian dài bởi vì những thông tin cập nhật có thể tác
động đến quan hệ cung - cầu không xuất hiện trên thị trƣờng tại 1 thời điểm, mà trong 1
khoảng thời gian. Các nhà phân tích kỹ thuật không kỳ vọng giá sự điều chỉnh giá diễn ra
đột ngột nhƣ các nhà phân tích cơ bản và những ngƣời theo lý thuyết thị trƣờng hiệu quả,
mà họ kỳ vọng một sự điều chỉnh giá dần dần phản ánh sự xuất hiện từ từ của các luồng
thông tin.
1.4.CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT.
Có rất nhiều trƣờng phái lý thuyết khác nhau nghiên cứu về phân tích kỹ thuật,nhƣng
hai lý thuyết đƣợc sử dụng phổ biến nhất là lý thuyết Dow và lý thuyết Sóng.Bài viết này
chỉ tập trung vào phân tích một số nghiên cứu của lý thuyết Dow trong phân tích kỹ thuật.
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
1.4.1. Lịch sử hình thành lý thuyết Dow.
Lý thuyết Dow đƣợc đặt tên theo tên của Charles Dow, chủ bút đầu tiên của tờ thời báo
phố Wall và là ngƣời sáng tạo ra khái niệm chỉ số trung bình của thị trường, ngày nay
đƣợc biết đến dƣới cái tên Chỉ số trung bình Dow Jones. Lý thuyết Dow là cơ sở đầu tiên
cho mọi nghiên cứu kỹ thuật trên thị trƣờng chứng khoán.
Dow đã đƣa ra khái niệm chỉ số trung bình thị trƣờng khi nhận thấy giá của hầu hết các
cổ phiếu lên ,xuống cùng với sự biến động của thị trƣờng.
Có thể coi lý thuyết Dow là một lý thuyết khởi đầu trong các kỹ thuật liên quan đến giá
và khối lƣợng giao dịch bởi vì đây là một trong những lý thuyết xuất hiện sớm nhất và
cho đến nay vẫn là nền tảng của nhiều chỉ báo kỹ thuật.
1.4.2. Những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết Dow.
1.4.2.1. Trung bình giá thị trƣờng không phụ thuộc vào yếu tố nào
Giá cả của các chứng khoán trên thị trƣờng biến động một cách ngẫu nhiên chỉ phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trƣờng.
1.4.2.2.Thị trƣờng luôn có 3 luồng vận động
Có 3 luồng vận động của mức giá trung bình của thị trƣờng, tất cả có thể diễn ra ngay
lập tức và cùng một thời điểm.
Luồng vận động thứ 1, và cũng là quan trọng nhất, là xu hƣớng chính của thị trƣờng:
xu hƣớng vận động đi lên hoặc xuống với biên độ rộng đƣợc gọi là thị trƣờng giá lên và
thị trƣờng giá xuống. Xu hƣớng này có thể tồn tại một vài năm.
Luồng vận động thứ 2, luồng vận động dễ gây hiểu lầm nhất, chính là luồng phản ứng
điều chỉnh phụ của thị trƣờng:một đợt giảm giá đáng kể trong thị trƣờng mà xu hƣớng
chính là lên giá hoặc ngƣợc lại trong 1 thị trƣờng gía xuống. Thƣờng thì những phản ứng
nhƣ vậy kéo dài từ 3 tuần đến vài tháng.
Luồng vận động thứ 3, và thƣờng là không quan trọng, chính là sự biến động của giá
theo ngày.
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Đồ thị biểu diễn các luồng vận động chủ yếu
Giá trung bình
thị trƣờng giá lên
thị trƣờng giá xuống
thời gian
*/Luồng vận động chủ yếu
Luồng vận động này là nội dung trọng tâm của Lý thuyết Dow
Nói chung luồng vận động chủ yếu là xu hƣớng chính có biên độ rộng, đƣợc biết đến
với tên gọi là thị trƣờng bò hay thị trƣờng gấu, có thể kéo dài trong khoảng thời gian vài
năm.
Hoạt động đầu cơ muốn thành công phụ thuộc rất nhiều vào việc xác định đúng
hƣớng cuả luồng vận động này. Chƣa có phƣơng pháp nào dự báo đƣợc luồng vận động
chủ yếu này của thị trƣờng diễn ra trong bao lâu.
Thị trƣờng bò là thị trƣờng có xu hƣớng chủ yếu là đi lên có biên độ rộng, bị gián
đoạn bởi một xu hƣớng phụ có hƣớng ngƣợc lại và trung bình thƣờng kéo dài lâu hơn 2
năm. Trong suốt quá trình này, giá cổ phiếu đi lên bởi nhu cầu mua của cả nhà đầu tƣ lẫn
nhà đầu cơ khi hoạt động kinh doanh phát triển và hoạt động đâu cơ trở nên sôi động .
Thị trƣờng gấu là thị trƣờng có xu hƣớng chủ yếu là đi xuống có biên độ rộng, bị gián
đoạn bởi xu hƣớng phụ đáng kể có xu hƣớng ngƣợc lại. Nguyên nhân là do những điều
kiện kinh doanh khó khăn và xu hƣớng này sẽ kéo dài cho đến khi giá cổ phiếu giảm đến
mức thấp nhất.
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
*/Luồng vận động phụ
Giá trung bình
thị trƣờng giá lên
thị trƣờng giá xuống
Thời gian
biến động giá phụ
Luồng vận động phụ là một sự phản ứng phụ của thị trƣờng, đó là một sự đi lên đáng kể
trong một thị trƣờng giá xuống và ngƣợc lại: một sự đi xuống đáng kể trong một thị
trƣờng giá lên.
Xu hƣớng này tồn tại khoảng từ vài tuần đến vài tháng
Trong suốt quá trình diễn ra xu hƣớng phụ,nó khiến giá lệch từ 33% đến 66% so
với giá trong xu hƣớng chính kể từ khi kết thúc lần điều chỉnh giá cuối cùng
Những phản ứng điều chỉnh giá của thị trƣờng hay những xu hƣớng phụ này khiến
ngƣời ta hiểu nhầm là xu hƣớng chính đã thay đổi.
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
*/ Dao động giá hàng ngày
thị trƣờng giá lên
thị trƣờng giá xuống
Theo lý thuyết dao động hàng ngày của giá không đóng vai trò quan trọng trong việc
xác
định xu hƣớng biến động của toàn bộ thị trƣờng.
(*) Một vài dấu hiệu nhận biết để xác định giai đoạn đang diễn ra của thị trường:
Chỉ số Giá trên thu nhập trung bình của thị trƣờng
Mức cổ tức trung bình của thị trƣờng
Phản ứng của thị trƣờng đối với các tin tức
Mức độ huy động vốn mới và mức độ phát hành lần đầu ra công chúng
Các xu hƣớng của thị trƣờng(xu hƣớng lên hoặc xuống)
Mức độ tham gia của công chúng vào thị trƣờng
Mức độ quan tâm của các phƣơng tiện truyền thông chính đối với thị trƣờngtruyền hình ,báo chí,và internet.
Số lƣợng các nhân viên mô giới ,các hoạt động củng cố hoặc phá sản,và mối quan
tâm đối với các khách hàng riêng
Mức độ hoạt động ,tuyển dụng nhân lực,thua lỗ trong kinh doanh…..trong nền kinh tế.
1.4.2.3. Luồng vận động chính có 3 giai đoạn phát triển.
Ba giai đoạn phát triển này chính là các phản ứng của thị trƣờng thông qua việc nghiên
cứu các đồ thị biểu diễn các mức giá trung bình của thị trƣờng.Nhƣng không thể nào xác
định chính xác đƣợc vì thời điểm khởi đầu và kết thúc của mỗi giai đoạn phát triển luôn
giao thoa với nhau.Theo lý thuyết,ba giai đoạn phát triển của luồng vận động chủ yếu có
thể đƣợc biểu diễn dƣới dạng đồ thị nhƣ sau:
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
hết hy
vọng
đầu cơ
Tăng
thu
nhập
giảm thu nhập
tự
tin
buộc phải bán
thị trƣờng giá lên
thị trƣờng giá xuống
Ba giai đoạn phát triển của thị trƣờng giá lên
Giai đoạn đầu tiên cho thấy việc ngƣời đầu tƣ lấy lại niềm tin vào tƣơng lai của
thị trƣờng;
Giai đoạn thứ 2 là phản ứng của giá khi có thông tin làm ăn có lãi của các công ty
,và:
Giai đoạn thứ 3 là giai đoạn khi hoạt động đầu cơ vƣợt ra khỏi vòng kiểm soát và
lạm phát xảy ra –giai đoạn giá cổ phiếu tăng vì có sự kỳ vọng của các nhà đầu tƣ.
Ba giai đoạn phát triển cuả xu hƣớng thị trƣờng giá xuống
Giai đoạn đầu tiên cho thấy nhà đầu tƣ không có kỳ vọng vào thị trƣờng do cổ
phiếu đƣợc mua với giá bị thổi phồng.
Giai đoạn thứ 2 phản ánh hoạt động bán do có sự sụt giảm lợi nhuận trong kinh
doanh của các công ty,và;
Giai đoạn 3 diễn ra là do ngƣời ta bán ra ồ ạt các chứng khoán làm giá sụt giảm
nhanh chóng .
1.4.2.4. Xác định xu hƣớng
Xu hƣớng thị trƣờng lên giá diễn ra khi ta thấy trên đồ thị có một đỉnh cao hơn và một
một điểm đáy cao hơn. Xu hƣớng thị trƣờng lên giá kết thúc khi ta thấy trên đồ thị có một
đỉnh thấp hơn và sau đó là 1 điểm đáy thấp hơn.
Xu hƣớng thị trƣờng xuống giá diễn ra khi ta thấy trên đồ thị một điểm đỉnh thấp hơn
và sau đó là một điểm đáy thấp hơn. Xu hƣớng thị trƣờng xuống giá kết thúc khi ta thấy
trên đồ thị xuất hiện một điểm đáy cao hơn và sau đó là một điểm đỉnh cao hơn.
1.4.2.5. Khối lƣợng giao dịch cũng là một dấu hiệu khẳng định xu hƣớng
Các nhà phân tích kỹ thuật xem xét sự thay đổi về khối lƣợng giao dịch cùng với diễn
biến giá nhƣ là một chỉ báo về thay đổi quan hệ cung-cầu đối với một số chứng khoán
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nào đó hoặc các cổ phiếu nói chung. Sự thay đổi giá cổ phiếu theo hƣớng nào đó thể hiện
các nhân tố ảnh hƣởng,nhƣng chỉ riêng thay đổi vể giá thì chƣa phản ánh quan hệ cungcầu tại thời điểm đó.Vì vậy ,các nhà phân tích kỹ thuật thƣờng tìm kiếm một sự tăng giá
kèm theo khối lƣợng giao dịch tƣơng đối lớn so với khối lƣợng giao dịch thông thƣờng
nhƣ là một chỉ báo về xu hƣớng giá lên ,còn nếu giá giảm kèm theo khối lƣợng giao dịch
lớn đồng nghĩa với xu thế giá xuống.
Các nhà phân tích kỹ thuật cũng sử dụng tỷ lệ khối lƣợng giao dịch Giá lên/giá xuống
nhƣ là một chỉ báo ngắn hạn của thị trƣờng nói chung. Khối lƣợng giao dịch của các cổ
phiếu tăng giá và khối lƣợng giao dịch của các cổ phiếu giảm giá đƣợc coi là một thƣớc
đo về trạng thái tâm lý của ngƣời đầu tƣ và sử dụng nó để xác định quan hệ cung-cầu trên
thị trƣờng.
Khối lƣợng giao dịch là một đại lƣợng đo mức độ của giao dịch trên TTCK.Có một số
cách để đo lƣờng khối lƣợng ,dựa vào số liệu có đƣợc trên thị trửờng :
Khối lƣợng giao dịch đƣợc tính bằng số lƣợng thực tế chứng khoán đƣợc giao
dịch trong một khoảng thời gian nào đó. Đây là đại lƣợng tốt nhất để đo khối lƣợng nếu
số liệu đó có sẵn trên thị trƣờng
Cách khác để xác định là dựa trên giá trị các chứng khoán đƣợc giao dịch trong 1
khoảng thời gian nhất định.Cách này đƣợc sử dụng chủ yếu cho các chỉ số thị trƣờng,khi
mà tỷ trọng vốn hoá có thể khiến cho ngta hiểu sai về số lƣợng chứng khoán.
Khi không có số liệu về số lƣợng hay giá trị chứng khoán đƣợc giao dịch ,số
lƣợng các giao dịch đƣợc thực hiện có thể đƣợc sử dụng thay thế.Một trong những bất lợi
của việc sử dụng dữ liệu này là nó không phản ánh đúng tỷ trọng của một giao dịch
10000 chứng khoán với giao dịch chỉ có 100 chứng khoán.
Các nhà phân tích có thể sử dụng “bƣớc nhảy về khối lƣợng”(tick volume)là số
lần thay đổi về giá trong suốt khoảng thời gian đó .Thay đổi về giá là một đại lƣợng cơ
bản để đo lƣờng cƣờng độ giao dịch.
Lý thuyết Dow đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể trong việc phân tích cổ phiếu, đặt
nền tảng cho việc so sánh chiến lƣợc xác định thời điểm của thị trƣờng với chiến lƣợc
“mua và nắm giữ”trong đầu tƣ chứng khoán.
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
CHƢƠNG II
MỘT SỐ CHỈ BÁO CƠ BẢN
VÀ ỨNG DỤNG PHÂN TÍCH CỔ PHIẾU Ở VIỆT NAM.
Trong vài thập kỉ phát triển của phân tích kỹ thuật, ngƣời ta đã đƣa ra rất nhiều dấu hiệu,
chỉ báo để phân tích và đánh giá các xu hƣớng dựa trên sự biến động của giá và khối
lƣợng. Đã có rất nhiều các chỉ báo đƣợc đƣa ra và ngày càng đƣợc hoàn thiện, tuy nhiên
có thể chia làm hai loại dấu hiệu cơ bản : Dấu hiệu dự báo xu hƣớng thị trƣờng và đà dao
động giá.
Thứ nhất, dấu hiệu dự báo xu hƣớng thị trƣờng là một nhóm các dấu hiệu đƣợc sử dụng
để xác định xu hƣớng thị trƣờng một các khách quan. Mục đích của việc sử dụng nhóm
này là nhằm xác định sự mở đầu và kết thúc của các xu hƣớng thị trƣờng.
Thứ hai, đà dao động của giá là một nhóm các dấu hiệu thị trƣờng đƣợc sử dụng để đo
lƣờng tốc độ biến động của giá cả. Các dấu hiệu này đƣợc coi là các dấu hiệu dẫn đƣờng
hoặc dấu hiệu ngẫu nhiên, chúng đựoc thiết kế nhằm phát hiện những giao động của giá
trong phạm vi một khoảng giao động giá hay trong phạm vi của một xu hƣớng. Mục đích
là để xác định thời điểm giao dịch khi giá thay đổi do việc định giá quá cao hay quá thấp.
Bài phân tích này tập trung vào một số chỉ báo cơ bản nhƣ : đƣờng trung bình động
(Moving Average - MA), hội tụ và phân kì của đƣờng trung bình động ( Moving Average
Convergence Divergence - MACD), chỉ số cƣờng độ tƣơng đối (Relative strength IndexRSI), dải Bollinger …
2.1. ĐƢỜNG TRUNG BÌNH ĐỘNG (Moving Average _ MA).
Phân tích kĩ thuật cổ điển tiếp cận với khái niệm về xu huớng giá thông qua điểm cận
trên (điểm giá cao) và điểm cận dƣới (điểm giá thấp) trong pha thời gian ngắn hạn; cũng
nhƣ các đỉnh và đáy trong pha thời gian dài hạn. Với cách tiếp cận này, ngƣời ta sử dụng
dấu hiệu chỉ báo là đƣờng xu hƣớng giá. Tuy nhiên phƣơng thức này mang tính chủ quan
cao, do đó các nhà phân tích chuyển hƣớng sang nghiên cứu xu hƣớng giá theo phƣơng
thức toán học. Đƣờng trung bình động là công cụ rất quan trọng của phƣơng thức này.
2.1.1.Khái niệm đƣờng trung bình động
2.1.1.1. Khái niệm - Mục đích - Phân loại:
Đƣờng trung bình động là một dấu hiệu dự báo xu hƣớng thị trƣờng đƣợc xác định
bằng giá trị trung bình của mức giá đóng cửa trong một khoảng thời gian nhất định, tại
các thời điểm khác nhau.
Mục đích của đƣờng trung bình động là giản lƣợc dữ liệu về giá đóng cửa bằng cách
xây dựng một đƣờng đồ thị biểu hiện xu hƣớng giá. Thay vì lập đồ thị giá trực tiếp cho
từng kỳ giao dịch, giá đóng cửa trung bình cho một số kỳ giao dịch nhất định đƣợc tính
toán và đƣa vào đồ thị.
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Có 4 loại đƣờng trung bình động : đƣờng trung bình động giản đơn (SMA), đƣờng
trung bình động tuyến tính có trọng số, đƣờng trung bình động tính theo hệ số mũ, đƣờng
trung bình động biến đổi (VMA). Trong phần nghiên cứu này chỉ nghiên cứu về đƣờng
trung bình động giản đơn.
2.1.1.2. Cách xây dựng đường trung bình động
Để thiết lập đƣờng trung bình động 5 kỳ, chúng ta cần dữ liệu giá cả cho tối thiểu 5 kỳ.
Khi có đủ số liệu của 5 kỳ đầu tiên, ta sẽ xác định đƣợc điểm đầu tiên của đồ thị đƣờng
trung bình động. Dƣới đây là bảng ví dụ:
Kỳ
Giá
cửa
1
2
3
4
5
đóng
Tổng 5 kì cuối
100
102
106
104
102
514
Trung bình của 5 kì
cuối
102,8 (= 514/5)
Để tính trung bình động của kì thứ 6, có hai cách:
- Cách 1: cộng giá đóng cửa từ kì thứ 2 đến kì thứ 6, sau đó chia cho 5.
- Cách 2: Lấy tổng của 5 kì trƣớc, trừ đi giá trị của một kỳ, sau đó chia cho 5.
Kỳ
Giá
cửa
đóng
Tổng 5 kì cuối
6
108
522
Trung bình của 5 kì
cuối
104,4
hoặc
106
514-100+108 = 522
104.4
Với những kì xảy ra tiếp theo, chúng ta sẽ làm tƣơng tự nhƣ trên. VD:
Kỳ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Giá đóng cửa
100
102
106
104
102
108
110
113
119
114
Tổng giá của 5 kì cuối
514
522
530
537
552
564
11
Trung bình của 5 kì cuối
102,8
104,4
106
107,4
110,4
112.8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Sau khi tính toán đƣợc các giá trị của đƣờng trung bình động, ngƣời ta sẽ xây dựng
đƣợc đồ thị của đƣờng trung bình động và sử dụng đồ thì này cùng với đồ thị về giá đóng
cửa để tiến hành phân tích.
2.1.2. Cách sử dụng đƣờng trung bình động
2.1.2.1. Sử dụng một đường trung bình động
Nguyên tắc sử dụng đƣờng trung bình động: khi có xu hƣớng giá lên, đƣờng trung bình
động có xu hƣớng lên trễ hơn đƣờng giá; khi đƣờng xu hƣớng giá lên kết thúc và bắt đầu
xu hƣớng giá xuống thì giá có xu hƣớng chuyển xuống thấp hơn và nằm dƣới đƣờng
trung bình động trễ. Điều này có nghĩa đƣờng trung bình động đƣợc coi nhƣ một dấu hiệu
dự báo xu hƣớng thị trƣờng.
Căn cứ vào dấu hiệu này có 3 trƣờng hợp xảy ra:
- Đƣờng trung bình động đi lên, chúng ta đang ở xu hƣớng tăng giá
- Đƣờng trung bình động đi xuống, chúng ta đang ở xu hƣớng giảm giá
- Đƣờng trung bình động nằm ngang chúng ta không ở xu hƣớng nào cả mà nằm trong
khoảng giao động giá.
Nguyên tắc là chúng ta chỉ sử dụng đƣờng trung bình động để giao dịch khi thị trƣờng
có xu hƣớng rõ ràng , còn khi thị trƣờng nằm ngang không theo xu hƣớng thì tốt nhất nên
dùng công cụ khác ( công cụ đo đà giao động giá chẳng hạn). Chính vì vậy khi sử dụng
đƣờng trung bình động chúng ta thực hiện theo quy tắc sau:
- Chỉ thực hiện mua khi đƣờng trung bình động di chuyển lên trên
- Chỉ thực hiện bán khi đƣờng trung bình động di chuyển xuống dƣới
Theo quy tắc này thì chúng ta có thể thực hiện một kế hoạch giao dịch nhƣ sau:
- Mua tại điểm đƣờng đồ thị giá cắt đƣờng trung bình động theo hƣớng từ dƣới lên trên.
Tất toán giao dịch mua khi đƣờng giá cắt đƣờng trung bình động từ trên xuống dƣới
- Bán tại điểm đƣờng giá cắt đƣờng trung bình động theo hƣớng từ trên xuống dƣới. Tất
toán giao dịch bán khi đƣờng giá cắt đƣờng trung bình động theo hƣớng từ dƣới lên trên.
Kế hoạch này đƣợc minh hoạ trong hình vẽ sau
Giá
Bán
Đƣờng giá
Đƣờng MA
Mua
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Ta thực hiện phân tích cổ phiếu của CTCP Đại lý liên hiệp vận chuyển (GMD) để thấy
rõ hơn những dự báo này trong những biến động của xu hƣớng giá theo chỉ báo SMA.
Hình 1 cho ta thấy biểu đồ giá của GMD trong 3 tháng trở lại đây(từ giữa tháng
10/2006 đến giữa tháng 1/2007).Ta sử dụng đƣờng SMA 9 ngày và đƣờng giá đóng cửa
của GMD.
Nhìn vào đồ thị ta thấy trong tháng 10 đƣờng giá của GMD không có biến động lớn,
đƣờng SMA và đƣờng giá dao động gần nhau, đƣờng giá vẫn nằm trên SMA.Sang tháng
11,bắt đầu có những biến động rõ nét hơn. Đƣờng giá bắt đầu chuyển động lên trên
đƣờng SMA,kèm theo khối lƣợng tăng dần,thể hiện dấu hiệu của xu hƣớng tăng giá.Theo
dấu hiệu này ta nên tiến hành mua vào.Trên thực tế giá của GMD đã liên tục tăng từ mức
90.000đ/cp (đầu tháng 11/2006) lên đến mức xấp xỉ 160.000đ/cp vào giai đoạn cuối
tháng 11.Khối lƣợng giao dịch liên tục tăng mạnh.
Sau giai đoạn giá tăng đến mức xấp xỉ 160.000đ/cp,ta thấy giá cổ phiếu bắt đầu giảm,
đƣờng giá đi xuống và cắt đƣờng SMA.Thể hiện xu hƣớng bán ra.
Hình1
Nguồn:www.ssi.com.vn
2.1.2.2. Sử dụng hai đường trung bình động:
Khi sử dụng một đƣờng trung bình động, chúng ta thƣờng gặp phải một vấn đề là rất
khó xác định thời điểm đƣòng giá cắt đƣờng trung bình động. Để giải quyết vấn đề này,
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
ngƣời ta có thể sử dụng các "bộ lọc" hoặc sử dụng hai đƣờng trung bình động. Phần này
chỉ đề cập đến phƣơng pháp sử dụng hai đƣờng trung bình động.
Theo phƣơng pháp này ngƣời ta sẽ sử dụng hai đƣờng trung bình động với hai độ dài
một kỳ phân tích là khác nhau (nhƣ ví dụ trên , ta sử dụng độ dài kỳ phân tích là 5 ngày).
Đƣờng trung bình động có độ dài kỳ phân tích ngắn hơn đƣợc gọi là đƣờng trung bình
nhanh, đƣờng trung bình động có độ dài kỳ phân tích dài hơn đƣợc gọi là đƣờng trung
bình chậm. Đƣờng trung bình nhanh đƣợc sử dụng thay cho đƣờng giá thô.
Quy tắc sử dụng hai đƣờng trung bình động tƣơng tự nhƣ quy tắc sử dụng một đƣờng
trung bình động, trong đó đƣờng trung bình động nhanh đƣợc sử dụng thay thế cho
đƣờng giá:
- Khi đƣờng trung bình động nhanh cắt đƣờng trung bình chậm theo hƣớng từ dƣới lên
thì thực hiện mua vào.
- Và thực hiện bán ra khi đƣờng trung bình nhanh cắt đƣờng trung bình chậm theo
hƣớng từ trên xuống.
Hình 2 cho ta ví dụ về sử dụng 2 đƣờng SMA: đƣờng trung bình nhanh là đƣờng SMA
5 ngày, đƣờng trung bình chậm là đƣờng SMA 20 ngày. Vẫn với ví dụ về GMD nhƣ trên,
ta thấy dấu hiệu của hai đƣờng trung bình động chậm hơn dấu hiệu khi sử dụng một
đƣờng trung bình động tuy nhiên dấu hiệu này chính xác hơn khi xác định điểm bán
muộn hơn do vậy khả năng thu đƣợc nhiều lợi nhuận hơn.
Qua ví dụ này ta có thể thấy một nguyên tắc khi sử dụng đƣờng trung bình động, đó là:
với kỳ thời gian càng dài thì đƣờng trung bình phản ứng với biến động giá càng chậm tuy
nhiên lại đem đến dấu hiệu chính xác hơn.
Hình2
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
2.2. CHỈ SỐ CƢỜNG ĐỘ TƢƠNG ĐỐI (RSI)
2.2.1. Khái niệm:
Chỉ số cƣờng độ tƣơng đối đƣợc Welles Wilder xây dựng để đo lƣờng đà dao động của
giá. Đây là một công cụ khá phổ biến với các nhà phân tích kỹ thuật.
2.2.2. Phƣơng pháp tính
Welles Wilder đã sử dụng công thức sau để tính điểm đầu tiên của đƣờng RSI.
100
RSI 100
1 RS
A
RS
B
(*)
A: giá đóng cửa trung bình tăng của n ngày
B :giá đóng cửa trung bình giảm của n ngày
RSI nằm trong khoảng (0, 100).
Khi RS = 0 thì RSI = 0
Khi RS = ∞ thì RSI = 100.
Để tính đƣợc RS cho các điểm tiếp theo, Wilder đã sử dụng cách tính sau:
(a) Để có đƣợc mức giá đóng cửa trung bình tăng tiếp theo,ta nhân mức giá đóng cửa
trung bình tăng trƣớc đó với (n-1),cộng kết quả này với mức giá đóng cửa tăng của ngày
hôm nay, rồi chia cho (n).
(b) Để có đƣợc mức giá đóng cửa trung bình giảm tiếp theo, ta nhân mức giá đóng cửa
giảm trƣớc đó với (n-1),rồi cộng kết quả này với mức giá đóng cửa giảm của ngày hôm
nay, rồi chia cho (n).
(c ) Chia (a) cho(b) ta đƣợc giá trị RS của điểm tiếp theo.Thay vào công thức (*)để tính
RSI.
2.2.3.Quy tắc giao dịch
2.2.3.1.Khái niệm sử dụng trong quy tắc giao dịch:
a, Mức mua quá lớn và bán quá lớn.
RSI biến động trong khoảng 0 đến 100. Khi RSI dƣới 30 tạo thành mức bán quá lớn,
ngƣợc lại RSI trên 70 tạo thành mức mua quá lớn.
-Trong xu hƣớng giá tăng, RSI biến động chủ yếu ở mức mua quá lớn nó hiếm khi dao
động sang bên bán quá lớn
-Tƣơng tự nhƣ vậy, trong một xu hƣớng giảm, RSI biến động chủ yếu ở mức bán quá
lớn, hiếm khi dao động sang mức mua quá lớn.
b, Phân kì:
Phân kì xảy ra khi giá đạt đỉnh mới hoặc đáy mới nhƣng đà dao động không đạt đỉnh
mới hoặc đáy mới tƣơng ứng mới tƣơng ứng.
- Phân kì thị trƣờng giá lên xuất hiện vào cuối giai đoạn giảm và có một dự báo về thị
trƣờng giá lên.
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Phân kì thị trƣờng giá xuống xuất hiện vào cuối giai đoạn tăng và có một dự báo về
thị trƣờng giá xuống.
Tuy nhiên độ tin cậy của phân kì rất nguy hiểm nên phải sử dụng kết hợp với các công
cụ khác. Ngƣời ta thƣờng sử dụng phân kì nhƣ một dấu hiệu cảnh báo sớm hoặc bằng
chứng xác nhận thêm về khả năng thay đổi trong xu hƣớng.
C, Các dao động thất bại.
Hình dƣới đây cho thấy các dạng của dao động thất bại:
100
70
điểm thất bại
điểm thất bại
30
0
-Dạng 1: Đỉnh tăng thứ hai thấp hơn đỉnh tăng thứ nhất sau đó RSI giảm xuống thấp
hơn vùng lõm giữa hai đỉnh
-Dạng 2: Đáy thứ hai cao hơn đáy thứ nhất, sau đó RSI tăng cao hơn đỉnh giữa hai đáy.
Một dao động thất bại có giá trị là đỉnh đầu tiên phải nằm trên mức 70, đáy đầu tiên
phải năm dƣới mức 30. Dao động thất bại không sử dụng nhƣ một dấu hiệu riêng tách
tách rời mà phải kết hợp với các dấu hiệu khác để khằng định xu hƣớng.
2.2.3.2. Qui tắc giao dịch.
-Quy tắc 1: Mua vào khi RSI xuống dƣới đƣờng bán quá lớn và hƣớng lên trên đƣờng
đó.
Quy tắc này đƣợc thể hiện rõ trên biểu đồ giá của VNM trong khoảng 5 tháng (từ
tháng 5/2006 đến tháng 10/2006).Giá của VNM cũng theo xu hƣớng giá xuống của thị
trƣờng trong khoảng tháng 7,tháng 8. Mức giá đi xuống vùng bán quá lớn lần thứ nhất
vào khoảng cuối tháng 6 và lần thứ hai vào khoảng cuối tháng 7, đầu tháng 8.
Dấu hiệu để mua vào đƣợc đánh dấu ở điểm A, B sau khi RSI vƣợt qua vùng bán quá
lớn . Tuy nhiên mua ở điểm B tốt hơn vì sau đó là một xu hƣớng tăng giá mạnh hơn.
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Hình3
-Quy tắc 2: Bán ra khi RSI tăng trên đƣờng mua quá lớn và đang giảm lại xuống phía
dƣới đƣờng đó.
Hình4
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Trong hình trên chúng ta vẫn sử dụng biểu đồ GMD 3 tháng (từ tháng 10/2006 đến
tháng 1/2007).Giá GMD tăng liên tục trong giai đoạn này từ mức 90.000đ/cp lên đến
đỉnh ở mức 156.500đ/cp.Mức giá bắt đầu lên trên vùng mua quá lớn vào đầu tháng 11,và
liên tục ở trên vùng mua quá lớn trong suốt tháng 11. Đến cuối tháng 11 có xu hƣớng
giảm,kèm theo một khối lƣợng giao dịch lớn. Dấu hiệu để bán đƣợc đánh dấu ở điểm A,
khi mà RSI đi qua vùng bán quá lớn và đang giảm xuống dƣới mức đó.Tuy nhiên, đây chỉ
là một biến động giả tạo trong xu thế giá lên của GMD.
-Quy tắc 3: Mua vào trên các phân kì thị trƣờng giá lên, khi vùng lõm đầu tiên nằm
dƣới mức 30. Nếu phân kỳ hình thành một dao động thất bại, đó chính là dấu hiệu mạnh
hơn..
Hình 5
Hình 5 cho thấy một phân kì thị trƣờng giá lên trong giai đoạn đầu tháng 8/2006,giá
VNM có xu hƣớng đi xuống trong ngắn hạn, đỉnh bán quá lớn thứ hai ở mức cao hơn
đỉnh bán quá lớn thứ nhất và RSI có xu hƣớng đi lên từ vùng bán quá lớn,vƣợt qua đƣờng
30 từ phía dƣới lên, và liên tục tiến lên đƣờng 70. Do đó theo quy tắc thì chúng ta nên
mua vào tại điểm A. Và trên thực tế, đã có một đợt tăng giá liên tục đến đầu tháng 9 của
VNM.
-Quy tắc 4: Bán ra trên các phân kỳ thị trƣờng giá xuống khi đỉnh đầu tiên nằm trên
mức 70. Nếu phân kỳ hình thành nên một dao động thất bại, nó chính là một dấu hiệu
mạnh hơn.
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Ta tiếp tục xét sự biến động giá của VNM trong giai đoạn từ tháng 3/2006 đến tháng
7/2006 để thấy đƣợc ví dụ về sự phân kỳ thị trƣờng giá xuống.
Hình 6
Hình 6 là đồ thị VNM, ta có thể thấy phân kì thị trƣờng giá xuống vào giai đoạn cuối
tháng 4,trong giai đoạn đây là một dấu hiệu mạnh tồn tại cùng với một dao động thất bại
ở điểm A. Dấu hiệu rất rõ ràng vì thế B là cơ hội tốt để bán cổ phiếu ra.
2.3. HỘI TỤ VÀ PHÂN KỲ CỦA ĐƢỜNG TRUNG BÌNH ĐỘNG (MACD)
2.3.1. Khái niệm:
MACD là một loại dấu hiệu dự báo thị trƣờng kép, bởi vì bản thân nó là một công cụ
đo độ dao động giá nhƣng lại đƣợc sử dụng nhƣ là một phƣơng tiện cơ bản để xác định
các xu hƣớng giao dịch trên thị trƣờng. MACD đƣợc xác định dựa trên các đƣờng trung
bình động. Nó chính là khoảng cách giữa hai đƣờng trung bình động. MACD dao động
không giới hạn và không đƣợc xem nhƣ là một dấu hiệu thị trƣờng mua quá mức hoặc
bán quá mức.
2.3.2. Phƣơng pháp tính:
Đƣờng MACD đƣợc xác định nhƣ sau:
Bƣớc 1: Xác định theo hàm số mũ 12 kỳ của giá đóng cửa.
Bƣớc 2 :Xác định theo hàm số mũ 26 kỳ của giá đóng cửa.
Bƣớc 3 :Lấy khoảng chênh lệch giữa đƣờng trung bình động 12 kỳ và 26 kỳ. Đây là
đƣờng MACD cơ bản.
Bƣớc 4 :Xác định đƣờng trung bình động theo hàm số mũ 9 kỳ giá đóng cửa từ đƣờng
MACD đã tính đƣợc ở bƣớc 3. Đây là đƣờng tín hiệu.
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Nhƣ vậy, phƣơng pháp MACD bao gồm đƣờng MACD cơ bản và đƣờng tín hiệu.
2.3.3.Quy tắc giao dịch
MACD chỉ thực sự hữu ích đối với việc xác định các xu hƣớng giao dịch.
Quy tắc 1:Thực hiện giao dịch mua vào khi đƣờng MACD cơ bản cắt đƣờng tín hiệu từ
dƣới lên.Tất toán giao dịch mua khi đƣờng MACD thể hiện tín hiệu thị trƣờng bán ra.
Hình7
Trong hình 7, ta thấy trong giai đoạn đầu tháng 11/2006, với đồ thị cổ phiếu GMD,
đƣờng MACD cơ bản cắt đƣờng tín hiệu theo hƣớng từ dƣới lên, báo hiệu một xu hƣớng
tăng giá, lúc này nên tiến hành giao dịch mua vào. Nhìn vào đồ thị ta cũng thấy rằng sau
đó giá tăng đi kèm với khối lƣợng giao dịch lớn.
Quy tắc 2: Bán ra khi đƣờng MACD cắt đƣờng tín hiệu từ trên xuống.Tất toán giao
dịch bán khi đƣờng MACD có dấu hiệu mua vào.
Cũng vẫn theo đồ thị hình 7, ta thấy và thời điểm cuối tháng 11, đầu tháng 12, giá cổ
phiếu GMD có xu hƣớng giảm, đƣờng MACD cơ bản cắt đƣờng tín hiệu theo hƣớng từ
trên xuống. Theo quy tắc 4 thì ta nên thực hiên bán ra tại điểm này để tránh thua lỗ. Tuy
nhiên, nhìn vào đồ thị ta thấy vào giai đoạn đầu tháng 12 thị trƣờng vẫn còn rất nhập
nhằng, trong giai đoạn này tốt nhất là kết hợp mua vào bán ra một cách hợp lý và phải kết
thúc giao dịch mua, tiến hành bán ra ở điểm C. Dấu hiệu này cũng cho kết quả tƣơng từ
nhƣ ta sở dụng hai đƣơng trung bình động để phân tích.
20