Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tính thống nhất và đa dạng trong triết học trung quốc cổ đại ...

Tài liệu Tính thống nhất và đa dạng trong triết học trung quốc cổ đại

.PDF
146
5
89

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƢỜ ĐẠ Ọ ỌC XÃ HỘ VÀ Â VĂ MAI THỊ NGÂN TÍNH THỐNG NHẤT VÀ Đ DẠNG TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI LUẬ VĂ T ẠC SĨ TR ẾT HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƢỜ ĐẠ Ọ ỌC XÃ HỘ VÀ Â VĂ TÍNH THỐNG NHẤT VÀ Đ DẠNG TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI Chuyên ngành: TRIẾT HỌC Mã số: 60.22.03.01 LUẬN VĂ T Ạ SĨ TR ẾT HỌC MAI THỊ NGÂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014 LỜ MĐ Tôi xin cam đoan đây là công trình của tôi nghiên cứu dƣới sự hƣớng dẫn của PGS. TS Nguyễn Thế Nghĩa. Nội dung nghiên cứu là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trên bất kỳ một công trình nào khác. Nếu có gì không đúng, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tp. Hồ Chí Minh, ngày Tác giả Mai Thị Ngân tháng năm 1 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 3 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 9 hƣơng 1: Ơ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VỚI TÍNH THỐNG NHẤT VÀ Đ DẠNG CỦA NÓ ......... 9 1.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI ...................................................................................... 9 1.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế....................................................................... 9 1.1.2. Điều kiện chính trị - xã hội ....................................................................... 15 1.2. NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI .................................................................................................... 31 1.2.1. Những thành tựu về tƣ tƣởng, văn hóa ...................................................... 31 1.2.2. Những thành tựu về khoa học .................................................................... 42 KẾT LUẬ ƢƠ hƣơng 2: NỘ DU 1 ................................................................................... 47 VÀ Ý Ĩ ỦA TÍNH THỐNG NHẤT VÀ Đ DẠNG TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI ............................... 50 2.1. NỘI DUNG CỦA TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI ........................................................................... 50 2.1.1. Nội dung của tính thống nhất trong triết học Trung Quốc cổ đại ............. 50 2.1.2. Nội dung của tính đa dạng trong triết học Trung Quốc cổ đại .................. 63 2.2. Ý NGHĨA CỦA TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI.......................................................................... 112 2.2.1. Tính thống nhất và đa dạng của triết học Trung Quốc cổ đại là động lực thúc đẩy triết học Trung Quốc phát triển ........................................................... 112 2.2.2. Tính thống nhất và đa dạng của triết học Trung Quốc cổ đại là một trong những cơ sở cho sự phát triển xã hội Trung Quốc ............................................. 125 2 KẾT LUẬ ƢƠ 2 ................................................................................. 132 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................... 136 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 139 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tiến trình của lịch sử văn hóa nhân loại nói chung và lịch sử triết học nói riêng, cùng với Hy Lạp - La Mã, Ấn Độ triết học Trung Quốc cổ đại đã trở thành cái nôi của nền triết học nhân loại. Nó thể hiện nhƣ một mốc son chói lọi trong lịch sử văn hóa phƣơng Đông. Trong sinh hoạt học thuật của thế giới hiện nay xu hƣớng quay trở lại các giá trị truyền thống phƣơng Đông đang trở nên phổ biến. Trong xu hƣớng ấy, triết học Trung Quốc cổ đại đƣợc quan tâm rộng rãi của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực (triết học, chính trị học, luật học, văn hóa học, đạo đức học và dân tộc học…). Ảnh hƣởng của triết học Trung Quốc cổ đại đã, đang chi phối sinh hoạt triết học và các lĩnh vực khác ở Trung Hoa và các nƣớc khác nhƣ Việt Nam, Singapo, Nhật Bản, Triều Tiên, Mỹ, Anh, Pháp, Đức… C. Mác đã từng có câu nói nổi tiếng “triết học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới, cũng nhƣ bộ óc không tồn tại bên ngoài con ngƣời” [43, 156], ông chỉ ra, “bất kỳ thứ triết học chân chính nào cũng là tinh hoa tinh thần của thời đại mình, do vậy, tất yếu sẽ xuất hiện một thời đại mà trong đó triết học tiếp xúc và tƣơng tác với thế giới hiện thực của thời đại mình không chỉ thông qua nội dung của mình ở bên trong, mà còn thông qua biểu hiện của mình ở bên ngoài” [43, 157]. Triết học Trung Quốc cổ đại có mầm mống từ thời kỳ Hạ, Thƣơng, Tây Chu và phát triển mạnh mẽ vào thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc: thời kỳ diễn ra bƣớc ngoặt quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến tập quyền trung ƣơng với toàn bộ tính sinh động, phức tạp của đời sống vật chất và tinh thần, chính trị và đạo đức, kinh tế và văn hóa… Trƣớc thực tiễn chính trị - xã hội “đời loạn, đạo suy” đã đặt ra cho các nhà triết học Trung Quốc cổ đại tất yếu phải giải quyết nhiệm vụ đó là phải tìm con đƣờng để “cứu ngƣời, cứu đời” đƣa xã hội từ loạn thành trị. Trong đời sống sinh hoạt tinh thần, đã nảy sinh một loạt các trƣờng phái triết học khác nhau, dấy lên phong trào “trăm nhà đua tiếng” nhằm giải quyết vấn đề chung mang tính sống còn của xã hội đó. Thế nhƣng, trong tƣ tƣởng của Triết học Trung Quốc cổ đại không chỉ phản ánh 4 một chiều đời sống chính trị, nói cách khác là nền triết học chính trị và lễ giáo, mà còn đi sâu bàn về vấn đề nhận thức luận, vũ trụ luận, nhân sinh quan, triết lý về giáo dục, … Các triết gia, trƣờng phái triết học Trung Quốc cổ đại đại diện cho các giai tầng khác nhau trong xã hội với địa vị, lợi ích và giác độ thế giới quan, nhân sinh quan khác nhau đã đƣa ra những lý luận khác nhau, thậm chí đối lập nhau vừa đấu tranh vừa kế thừa, bổ sung cho nhau trong không khí tranh luận học thuật sôi nổi, tự do bình đẳng. Hệ thống tƣ tƣởng, phạm trù phong phú và đa dạng, đa trƣờng phái, đa màu sắc với nhiều loại quan điểm, quan niệm, tƣ tƣởng đối lập, đan xen, giao thoa lẫn nhau, tạo nên một dòng triết học với sắc thái khá đặc sắc kiểu Trung Quốc. Đặc biệt, trong hệ thống lý luận triết học cổ đại với các quan điểm sinh động nhiều vẻ về vũ trụ quan, bản thể luận, triết học nhân sinh, triết học chính trị, tƣ tƣởng đạo đức, triết học giáo dục, triết lý trị nƣớc an dân, …có sự ảnh hƣởng, kế thừa, tiếp thu lẫn nhau, tạo nên tính thống nhất và tính đa dạng khá đặc thù trong triết học Trung Quốc cổ đại không những là nền tảng, khuôn mẫu có tính chuẩn mực xây dựng nên bản sắc riêng, đặc sắc của tƣ tƣởng triết học Trung Quốc trong phong nền của triết học nhân loại mà còn ảnh hƣởng, định hình cho văn hóa Trung Quốc. Thế giới hiện nay với xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động chi phối các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến văn hóa, từ kỹ thuật, công nghệ đến chính trị, tƣ tƣởng. Đặc điểm nổi bật của toàn cầu hóa là quá trình thâm nhập, giao lƣu giữa các quốc gia dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của xã hội trên phạm vi toàn cầu. Trong đó, sự giao lƣu giữa các nền văn hóa trở nên phong phú và đa dạng mà không loại trừ yếu tố thống nhất. Bản báo cáo Hành tinh đa văn hoá của nhóm chuyên gia quốc tế thuộc UNESCO đã chỉ rõ: “Tƣơng lai của nhân loại không thể đƣợc mô tả nhƣ là sự thống nhất mà không có đa dạng hay đa dạng mà không có thống nhất. Thách thức đối với tất cả những ngƣời đƣơng thời là xây dựng một thế giới nhƣ vậy và trên tất cả là thách thức đối với những nền văn hoá làm cơ sở cho thế giới quan và hệ giá trị của họ” [26, 4]. Chính vì những lý do trên, việc nghiên cứu tƣ tƣởng thống nhất và đa dạng trong triết học Trung Quốc cổ đại để rút ra ý nghĩa của nó không những có ý nghĩa về lý luận mà còn về thực tiễn. 5 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Triết học Trung Quốc cổ đại đã sớm thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nƣớc. Các công trình đã công bố có thể khái quát thành các hƣớng chính sau: Thứ nhất, nghiên cứu về Triết học Trung Quốc cổ đại với hƣớng đi sâu vào các trƣờng phái riêng rẽ có rất nhiều nhà nghiên cứu, các dịch giả, có thể kể đến nhƣ: nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê với các công trình nghiên cứu đồ sộ các sách biên dịch nhƣ: Nguyễn Hiến Lê (1994), Lão Tử – Đạo đức kinh, Nxb. Văn hóa –Thông tin, Hà Nội; Nguyễn Hiến Lê (1994), Trang Tử – Nam Hoa kinh, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội; Nguyễn Hiến Lê (1994), Kinh Dịch – Đạo của người quân tử, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội; Nguyễn Hiến Lê (1995), Mặc Học – Mặc Tử & Biệt Mặc (1996), Nxb. Văn hóa – Thông tin,; Nguyễn Hiến Lê (1996), Mạnh Tử, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội; Nguyễn Hiến Lê (1998), Hàn Phi Tử, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. Ngoài ra còn có các tác giả khác nhƣ: Trần Trọng Kim 992 , Nho giáo, Nxb. TP Hồ Chí Minh. Thứ hai, nghiên cứu về triết học Trung Quốc cổ đại qua khái quát toàn bộ nền triết học Trung Quốc cổ đại nhƣ: Trần Đình Hƣợu (2002), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý (2001), Lịch sử Trung Quốc, Nxb. Giáo dục; GS. TS Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), Lịch sử Triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, tập 1, tập 2, Nxb. Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh; GS. TS Lê Văn Quán 2006 , Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Lao Động, Hà Nội, Will Durant Nguyễn Hiến Lê dịch 989 , ịch sử v n minh rung uốc, Nxb. Đại học Sƣ phạm TP. Hồ Chí Minh; Cao Xuân Huy Nguyễn Huệ Chi soạn, chủ biên, giới thiệu 995 , ư tưởng hương Đông g i nh ng đi m nh n tham chiếu, Văn học, Hà Nội; PGS.TS Trịnh Doãn Chính (chủ biên), (1992), Đại cương triết học rung quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; PGS.TS Trịnh Doãn Chính biên dịch 20 0 , Từ đi n triết học rung uốc, Nxb Chính trị Quốc 6 gia, Hà Nội; PGS.TS Trịnh Doãn Chính (chủ biên) (2012 , ịch sử riết học phương Đông, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Bài viết của Trần Phú Huệ Quang, “Sự khác biệt của hai dòng tƣ tƣởng Nam Bắc Trung Quốc: Nho gia và Đạo gia”, rung tâm v n hóa học lý luận và ứng dụng, trƣờng Khoa học xã hội và nhân văn TP Hồ Chí Minh. Trong các công trình nghiên cứu này, đã xuất hiện một số rải rác quan điểm so sánh đối chiếu giữa các tƣ tƣởng, các trƣờng phái triết học với nhau. Trong đó, phải đề cập đến công trình Trung Quốc Nho học văn hóa của Thang Nhất Giới trong khí khái quát toàn diện về Nho gia đã so sánh giữa Nho giáo với Đạo giáo và Phật giáo; Phùng Hữu Lan trong tác phẩm Đại cƣơng triết học sử Trung Quốc nhiều lần đề cập sự giống và khác nhau giữa đạo Lão và Khổng, giữa Pháp gia và Đạo gia.... Thứ ba, hƣớng nghiên cứu về từng vấn đề cụ thể trong tƣ tƣởng triết học Trung Quốc cổ đại nhƣ: Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên) (2002), Vấn đề quản lý nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; Lã Trấn Vũ 964 , Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Luận án tiến sĩ “Ảnh hƣởng của đạo đức nho giáo đối với đạo đức ngƣời cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Mai (2007); Luận án tiến sĩ “Đạo đức nho giáo và ảnh hƣởng của nó trong xã hội Việt Nam” của tác giả Nguyễn Sinh Kế (2005); Luận án tiến sĩ “Bộ Hải Thƣợng y tông tam lĩnh với sự vận dụng những tƣ tƣởng triết học Trung Quốc thời cổ của tác giả Trần Văn Thụy (1996); Luận văn thạc sĩ “Tƣ tƣởng quản lý xã hội của Nho giáo thời Tiên Tần” của tác giả Bùi Thị Thu Hiền (2010); Luận văn thạc sĩ “Học thuyết ngũ hành với việc giải thích chức năng sinh lý cơ thể ngƣời theo y học cổ truyền” của tác giả Đoàn Ngọc Minh 2009 … Thứ tư, hƣớng nghiên cứu về văn hóa với các tác giả và tác phẩm nhƣ: Sử Trọng Văn, Trân Kiều Sinh (2012), V n hóa rung uốc, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh; GS. Ngô Vinh Chính, GS. Vƣơng Miện Quý (1994), Đại cương lịch sử v n hóa Trung Quốc (1993), Nxb. Văn hóa – Thông tin; bài viết của GS. Yao Jiehou, “Giao lƣu văn hóa và tiến bộ chung của các nền văn minh thế giới”, Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc. 7 Nhìn chung, triết học Trung Quốc cổ đại có rất nhiều nhà nghiên cứu, dịch giả, các công trình bài viết, chuyên đề nghiên cứu theo rất nhiều hƣớng khác nhau qua đó cũng đã khái quát nên bức tranh thống nhất trong đa dạng của triết học Trung Quốc cổ đại. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chủ yếu trên phƣơng diện từng học phái triết học riêng rẽ, hoặc nghiên cứu mang tính chung chung, khái lƣợc. Nghiên cứu về tính thống nhất và đa dạng trong triết học Trung Quốc cổ đại trên thực tế chƣa có một công trình nào trực tiếp bàn đến một cách toàn diện và có hệ thống. Với thực tế trên, luận văn đƣợc triển khai trên cơ sở kế thừa, bổ sung những thành quả của các công trình nghiên cứu trƣớc đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn: làm rõ nội dung cơ bản và ý nghĩa của tính thống nhất và đa dạng trong triết học Trung Quốc cổ đại. 3.2. Nhiệm vụ luận văn: để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, phân tích, trình bày khái quát sự hình thành và phát triển tính thống nhất và đa dạng của triết học Trung Quốc cổ đại. Thứ hai, tập trung phân tích làm rõ nội dung cơ bản từ đó rút ra ý nghĩa của tính thống nhất và tính đa dạng trong triết học Trung Quốc cổ đại. 3.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:  Đối tƣợng nghiên cứu: Triết học Trung Quốc cổ đại với các trƣờng phái triết học cơ bản nhƣ: Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia, Âm dƣơng gia, Mặc gia, Danh gia.  Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu tính thống nhất và đa dạng trong tƣ tƣởng của triết gia Trung Quốc cổ đại và ý nghĩa của chúng. 4. ơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu luận văn  Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời đề tài cũng kế thừa những thành quả của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài trong thời gian gần đây. 8  Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài: Đề tài đƣợc thực hiện trên phƣơng pháp biện chứng duy vật với tính cách là phƣơng pháp luận chung nhất. Trên cơ sở đó, đề tài còn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: phƣơng pháp lịch sử – lôgíc, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp so sánh đối chiếu, khái quát hóa… 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn  Về lý luận: Đề tài làm rõ lý luận về nội dung và ý nghĩa của tính thống nhất và đa dạng trong triết học Trung Quốc cổ đại.  Về thực tiễn: Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo bổ ích phục vụ cho công việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu các vấn đề trong triết học Trung Quốc cổ đại. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chƣơng và 4 tiết 9 PHẦN NỘI DUNG hƣơng 1 Ơ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VỚI TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG CỦA NÓ 1.1. NHỮ Đ ỀU KIỆN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, ra đời và phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội nhất định. C Mác đã chỉ rõ: “không có một triết học, trƣờng phái tƣ tƣởng triết học nào nảy sinh trên mảnh đất trống không, mà đều hình thành, phát triển trên những nền tảng, điều kiện kinh tế chính trị, văn hóa nhất định” [44, 15]. Vì vậy, mỗi hệ thống triết học trong khi phản ánh hiện thực xã hội, chúng đồng thời thể hiện đặc điểm của thời đại. Và do đó, triết học Trung Quốc cổ đại cũng không phải là ngoại lệ. Triết học Trung Quốc thời cổ đại hình thành từ cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỷ I trƣớc công nguyên, phát triển trong giai đoạn Hạ, Thƣơng, Tây Chu và nở rộ ở thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc (770 - 221 trƣớc công nguyên) 1.1. 1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế Điều kiện tự nhiên: là một hình thái ý thức xã hội, triết học Trung Quốc cổ đại chịu ảnh hƣởng sâu sắc của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã hội Trung Quốc cổ đại. Lãnh thổ Trung Quốc cổ đại rộng mênh mông, địa hình đa dạng và phức tạp. Phía Tây là hai dãy núi Tần Lĩnh và Côn Lôn trùng điệp, hiểm trở, chia đất nƣớc Trung Hoa thành hai miền Nam - Bắc. Phía Tây Nam là dãy Hy Mã Lạp Sơn với những núi cao vút, nhƣ bức trƣờng thành muôn vạn. Trung Quốc có những dãy núi lớn trùng điệp chạy từ Bắc đến Nam xen lẫn những dãy núi nhỏ, thấp hơn chạy từ Tây qua Đông, chia Trung Hoa thành nhiều miền cách biệt với nhau. Phía Đông là các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, các sông lớn chảy ra Thái Bình Dƣơng. Với địa hình rộng lớn, bị chia cắt tạo nên thổ nhƣỡng, khí hậu đa dạng, miền Bắc có khí hậu lạnh, đất đai cằn cõi và rất ít sản vật hình thành nên nền văn hóa mang tính du mục. Ngƣợc lại, miền Nam khí hậu ôn hòa, cây cối xanh tƣơi, sản vật phong phú thuận lợi cho canh 10 tác nông nghiệp lúa nƣớc mang tính định canh, định cƣ. Nhƣ vậy, địa hình chạy dài từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam với những điều kiện tự nhiên riêng tạo nên lối sinh hoạt giữa các vùng miền khác nhau đã hình thành nên hai diện mạo văn hóa khác nhau trên lãnh thổ Trung Quốc cổ đại: miền Bắc mang tính du mục (trọng động) với lối tƣ duy phân tích, duy lý, miền Nam mang tính nông nghiệp định canh, định cƣ trọng tĩnh với lối tƣ duy tổng hợp, duy tình. Trung Hoa cổ đại có hàng ngàn con sông lớn nhỏ trong đó có hai sông lớn là Hoàng Hà và Trƣờng Giang Dƣơng Tử) bồi đắp phù sa cho các đồng bằng ven bờ, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển, mang lại giá trị kinh tế cao. Từ xa xƣa, hai con sông này là những tuyến giao thông huyết mạch nối liền các vùng trong lãnh thổ Trung Quốc. Các triều đại đã xuất hiện, tồn tại và lớn mạnh trên lƣu vực hai dòng sông này và xây dựng nên nền văn minh đầu tiên của Trung Quốc – văn minh Hoàng Hà (hay còn gọi là văn minh Hoa Hạ). Tuy nhiên, do địa hình hiểm trở cùng với những phƣơng tiện giao thông thô sơ thời cổ đại đã làm cho các nền văn minh này xuất hiện và phát triển một cách độc lập. Sự liên hệ buổi đầu hầu nhƣ không xảy ra, do đó mỗi nền văn minh đã phát triển một cách độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc. Cả hai con sông đem nguồn phù sa và sự sung túc lại cho cái nôi đầu tiên của văn minh Trung Quốc, nhƣng đồng thời cũng là mối đe dọa kinh niên cho sự tồn vong của con ngƣời nơi đây. Tới mùa mƣa nƣớc lũ tràn bờ biến ruộng đồng thành biển cả, cuốn đi của cải và sinh mạng dân cƣ, trong Kinh Thi viết có đoạn miêu tả “nƣớc lũ cuồn cuộn, mênh mông bọc núi trùm gò, dân gian ngất đi vì ngập lụt” [69, 247]. Trong điều kiện nhƣ thế, ƣu tiên thƣờng trực và trọng yếu của tập thể dân tộc Trung Hoa bấy giờ là tìm cách trị thủy. Các vị quân chủ đầu tiên của Trung Hoa đều là những ngƣời có công lớn trong việc trị thủy. Vua Thuấn nhƣờng ngôi cho vua Vũ vì ông Vũ có công trong việc đắp đê ngăn nƣớc lụt. Tuy có bờ biển dài nhƣng miền Bắc Trung Quốc có bờ biển thấp và lầy lại thiếu đảo ở gần; còn niềm Nam, bờ biển lại không bằng phẳng, khí hậu thất thƣờng. Cho nên, mặc dù gần biển nhƣng không có nhà tƣ tƣởng Trung Quốc cổ đại nào mạo hiểm ra khơi. Sách Luận Ngữ, Khổng Tử đề cập đến biển có một lần: “Đạo ta không thi hành, ta sẽ cỡi bè lênh đênh ngoài biển” [30, 33]. Do 11 vậy, có thể nói Trung Quốc cổ đại là một khối biệt lập, đƣợc bao bọc bởi núi non trùng điệp, hệ thống sông ngòi chằng chịt và đại dƣơng bao la, cùng với bãi cát sa mạc. Điều kiện tự nhiên phức tạp, đa dạng nơi đây đã góp phần tạo nên lối tƣ duy độc đáo, thâm trầm mà không kém phần sâu sắc. Tƣ tƣởng triết học Trung Quốc cổ đại không chỉ mang đậm dấu ấn của tự nhiên, mà còn phụ thuộc vào đời sống vật chất xã hội, trƣớc hết là vào cơ sở kinh tế, Ph. Ăngghen nhận định “Mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó tạo thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tƣ tƣởng của mỗi thời đại” [49, 11]. Điều kiện kinh tế: Sản xuất vật chất vào thời kỳ công xã nguyên thủy ở Trung quốc cổ đại cũng đi lên săn bắt, hái lƣợm. Về sau, con ngƣời biết sử dụng những cành cây có sẵn để kiếm thức ăn, dùng những dụng cụ đƣợc mài để gieo trồng, biết thuần dƣỡng súc vật. Đời sống sinh hoạt của ngƣời Trung Quốc cổ đại đƣợc phản ánh qua các truyền thuyết và thần thoại Bàn Cổ, Tam Hoàng, Ngũ Đế. Trong thần thoại Trung Quốc, Thần Nông là ông tổ nông nghiệp, ngƣời đã dạy dân trồng ngũ cốc và chế tạo ra cày bằng gỗ, ông tổ nghề gốm sứ và nghề y dƣợc. Phục Hy kết dây, dân lƣới, săn thú, đánh cá dạy cho dân biết nuôi dƣỡng xúc vật, cho nên cũng đƣợc gọi là Bào Hy. Toại Nhân là ngƣời có công đem lửa cho ngƣời Trung Quốc. Trong di chỉ ở Bản Pha thuộc Tây An đã phát hiện nhiều chum vại còn cất giữ hạt giống ngũ cốc. Nhƣ vậy, vào trong thời kỳ này, ngƣời Trung Quốc đã biết chế ra lửa để nấu chín thức ăn, biết cất nhà, làm quần áo, trồng ngũ cốc, chài lƣới, thực hiện lễ nghi, và bắt đầu tạo ra chữ viết. Chính những phát kiến đó đã thúc đẩy sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, đẩy nhanh việc xuất hiện chế độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất, dẫn đến biến động trong xã hội với sự phân chia giai tầng có lợi ích khác nhau về sau. Tiếp sau thời kỳ Tam Hoàng là thời kỳ văn hóa đồ gốm đen ở Long Sơn, gốm màu ở Ngƣỡng Triều (Hà Nam) với các truyền thuyết về thời kỳ Ngũ Đế. Nền kinh tế của Trung Quốc cổ đại dƣới triều nhà Hạ với việc sử dụng công cụ bằng đồng có những thành tựu mới. Các công cụ bằng đồng bắt đầu xuất hiện và đƣợc đƣa vào sáng chế và sử dụng trong nông nghiệp và khai hoang. Nghề chăn nuôi và trồng trọt đã có sự phát triển ban đầu. Sự phân công 12 lao động đầu tiên trong lịch sử đã tạo tiền đề quan trọng của nền kinh tế Trung Quốc cổ đại. Bên cạnh đó, trong xã hội bấy giờ bắt đầu xuất hiện một bộ phận ngƣời tách khỏi số đông lao động chân tay để chuyên nghiên cứu về các thuật bói toán, thuật số, xem điều cát hung, dự liệu tƣơng lai. Đó chính là vai trò đầu tiên của tầng lớp trí thức của Trung Hoa cổ đại. Dƣới triều đại nhà Thƣơng, nền kinh tế đã có sự phân hóa sâu sắc hơn. Sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi có bƣớc phát triển. Việc sử dụng công cụ bằng đồng ngày càng phổ biến góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Thời Thƣơng - Ân sản xuất nông nghiệp trở thành nguồn sản xuất chủ yếu trong xã hội. Các di chỉ khảo cổ tìm thấy ở Ân Khƣ trên văn giáp cốt cho thấy xuất hiện nhiều chữ khắc nhƣ: nông, thọ, cƣơng, điền, xuyên, tĩnh, phố,... nói về việc cày cấy và nhiều đồ đồng thau nhƣ binh khí, dụng cụ để ăn uống, đồ cúng nhƣ đỉnh, vại. Trao đổi buôn bán chủ yếu với hình thức hàng hóa đổi hàng hóa. Công cụ và vật dụng làm bằng đồng tuy còn ở trình độ thấp nhƣng sử dụng khá phổ biến, đã góp phần phát triển sản xuất, tăng nguồn lƣơng thực. Việc khai hoang ở hạ lƣu sông Hoàng Hà, hệ thống mƣơng rạch, trồng dâu nuôi tằm, ƣơm tơ, dệt lụa; nghề đúc đồng thau đạt tới trình độ khá cao. Ngoài ra, nghề thủ công mỹ nghệ ở thời kỳ này cũng khá phong phú về chất liệu nhƣ đá, ngọc bích, bằng xƣơng, bằng gỗ và đồ gốm tráng men. Nghề chăn nuôi thời kỳ này cũng có nhiều thành tựu. Theo tài liệu trên văn giáp cốt, hàng trăm con trâu bò bị giết trong nhiều lần cúng bái quỷ thần tổ tiên của vua chúa. Đến thời Tây Chu, lực lƣợng sản xuất xã hội có bƣớc phát triển. Kim loại sắt xuất hiện và đƣợc đƣa vào chế tạo ra công cụ sản xuất nông nghiệp, từ đó làm cho kỹ thuật canh tác đƣợc cải tiến, hệ thống thủy nông hoàn thiện, qui mô sử dụng sức lao động đƣợc mở rộng. Vấn đề phân chia ruộng đất đƣợc các vua chúa Trung Quốc cổ đại đặc biệt quan tâm. Chế độ ruộng đất bấy giờ vẫn là chế độ “tỉnh điền”, ngƣời ta chia ruộng đất thành chín mảnh vuông, hình chữ tỉnh. Trong đó, có tám mảnh đất do các hộ gia đình tự do canh tác, còn mảnh thứ chín đƣợc các gia đình hợp lại, cùng nhau canh tác và sản phẩm thu hoạt đƣợc trên mảnh đất ấy đƣợc nộp lại cho nhà vua. Tùy theo thổ nhƣỡng tốt hay xấu mà phân chia cho nông dân công xã theo một thời kỳ nhất định. Nông dân phải 13 nộp khoảng một phần mƣời trong tổng số lúa thu hoạch cho nhà nƣớc, gọi là “thập nhất”. Ngoài việc nộp thuế, nông dân còn phải đi sƣu dịch, xây thành đắp lũy, làm đƣờng xá, đào nƣơng rạch hay đi chiến trận. Vào thời kỳ Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Việc sử dụng công cụ bằng sắt làm cho hiệu quả khai khẩn đất hoang, hoàn thiện kỹ thuật canh tác và kỹ thuật “dẫn thủy nhập điền” đƣợc nâng cao. Nếu nhƣ trƣớc đây trâu bò chủ yếu đƣợc dùng làm thực phẩm, thì đến thời kỳ này nó đƣợc sử dụng làm sức kéo cày đã trở nên phổ biến, góp phần nâng cao năng suất lao động nông nghiệp. Chính vì vậy, hiệu quả khai hoang đất càng cao, diện tích đất vỡ hoang trở thành ruộng đất tƣ ngày càng tăng thêm. Bọn quý tộc có quyền chiếm hữu ruộng đất công ngày một nhiều. Chế độ sở hữu tƣ nhân về ruộng đất hình thành. Thủ công nghiệp đã có bƣớc phát triển mới, đặc biệt là sự phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất, tạo ra ngành nghề mới bên cạnh các nghề cổ truyền nhƣ: “thợ mộc chiếm bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần, thợ thuộc da chiếm năm phần, thợ nhuộm chiếm năm phần, thợ nề chiếm ba phần” [14, 25]. Cùng với sự phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp, thƣơng nghiệp cũng phát triển hơn trƣớc. Tiền tệ đã xuất hiện, “trƣớc kia vua tôi các nƣớc tặng cấp, đúc lót, chuộc tội, dâng hiến thì thƣờng dùng ngựa, gấm vóc, ngọc, chung đỉnh, đồ quý, gái đẹp, nhạc sƣ, không thấy nói đến tiền vàng. Đến thời Chiến Quốc tiền tệ đã đƣợc lƣu hành rộng rãi, vai trò của tiền ngày càng đƣợc thừa nhận” [61, 223]. Trong xã hội hình thành tầng lớp thƣơng nhân giàu có và ngày càng có thế lực nhƣ Huyền Cao nƣớc Trịnh), Tử Cống (học trò của Khổng Tử). Thời Chiến Quốc kinh tế đã phát triển mạnh. Nghề luyện sắt hƣng thịnh, đặc biệt là các công cụ nhƣ lƣỡi cày, lƣỡi liềm, cuốc, rìu, dao,... đƣợc sử dụng phổ biến. Thủy lợi và các kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp vì thế mà phát triển. Cũng trong thời này, ngƣời ta cũng dựa vào kinh nghiệm quan sát thời tiết, tri thức thiên văn mà biết đƣợc mấu chốt trong việc nông nghiệp với mùa vụ: “Việc canh tác ngày nay, ngƣời ta không thu hoạch đƣợc là do ở thời vụ quá sớm, thời quá muộn, lạnh nóng bất phân, cỏ rậm không nhổ” [9, 351]. Ngoài ra, trong sách Tuân Tử chƣơng Phú quốc có đề cập đến kỹ thuật canh tác nông 14 nghiệp: “diệt cỏ, trồng lúa bón phân nhiều cho ruộng phì nhiêu” [9, 352]. Các công trình thủy lợi đƣợc xây dựng khắp nơi dọc theo các lƣu vực sông Hoàng Hà, Trƣờng Giang, từ bờ biển phía Đông đến vùng Tứ Xuyên. Kéo theo đó là sự phát triển các nghề thủ công nhƣ luyện kim, đồ gốm, nghề chạm bạc, nghề dệt lụa ở các trung tâm của các nƣớc chƣ hầu. Tiền tệ bằng kim loại ra đời. Sự xuất hiện tiền tệ, bản thân nó tác động trở lại ngành sản xuất, thƣơng nghiệp làm cho lƣu thông hàng hóa ngày càng thuận lợi. Thƣơng nghiệp và các trung tâm buôn bán trao đổi hàng hóa ngày càng hƣng thịnh. Đô thành ở các nƣớc lớn và một số thành ấp lớn bên các trục giao thông trọng yếu trở thành những trấn đô nổi tiếng thời bấy giờ nhƣ Hàm Dƣơng nƣớc Tần, Thọ Xuân nƣớc Sở, Lâm Truy nƣớc Tề, Khai Phong nƣớc Ngụy, Hàm Đan nƣớc Triệu. Các đô thành này đã có một cơ sở kinh tế tƣơng đối độc lập, từng bƣớc tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc của quý tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên. Thời kỳ này, việc mua bán đất đƣợc tự do, sách Tả truyện chép: “Ngƣời Nhung Dịch đến ở, dùng vật quý để đổi lấy đất, đất có thể mua bán” [16, 142]. Sau đó, chế độ tƣ hữu ruộng đất còn đƣợc luật pháp thừa nhận và bảo vệ. Việc thu thuế dựa trên sản lƣợng đƣợc thay thế bằng đánh thuế dựa theo diện tích ruộng đất. Điều này chứng tỏ triều đình đã thừa nhận sự chênh lệch về ruộng đất trong hàng ngũ nông dân và thừa nhận quyền tƣ hữu ruộng đất trong nông dân là hợp lý. Việc mua bán ruộng đất tự do và sự phổ biến của chế độ tƣ hữu về ruộng đất đã mở đƣờng cho sự tập trung ruộng đất vào tay một số lãnh chúa, địa chủ giàu có. Vì thế, thƣơng nhân giàu có đã chiếm đƣợc nhiều ruộng đất của nông dân, trở thành những địa chủ lớn. Trong khi đó, đa số nhân dân lao động mất hết ruộng đất, phải đi làm thuê trở thành tá điền. Chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô xuất hiện. Trong lòng xã hội yếu tố quan hệ sản xuất mới, đó là quan hệ sản xuất nông nô với chế độ phong kiến quận, huyện xuất hiện dần dần chiếm ƣu thế. Xã hội Trung Quốc thời đó đã có sự phân chia giai cấp gay gắt, giữa một bên là tầng lớp ngƣời giàu có cho thuê đất, một bên là tầng lớp nghèo khổ, không có một tấc đất “Nhà giàu ruộng điền bát ngát, ngƣời nghèo khổ không có tấc đất cắm dùi” [55, 143]. 15 Nhƣ vậy, triết học Trung Quốc hình thành và phát triển trên một không gian sống với toàn bộ tính đa dạng của điều kiện địa hình, khí hậu đã hình thành nên phong nền văn hóa đa dạng vừa trọng tĩnh duy tình, vừa trọng động duy lý. Bên cạnh đó, với sự phát triển của lực lƣợng sản xuất thời Xuân Thu – Chiến Quốc đã làm thay đổi hình thức tổ chức sản xuất mới. Những yếu tố sản xuất trong xã hội nếu trƣớc kia đều phân tán trong mọi giai tầng trong xã hội, thì lúc bấy giờ nó tập trung vào tay một số ngƣời đại địa chủ, thƣơng nhân giàu có. Nền kinh tế của Trung Quốc thời kỳ này về xu hƣớng đi đến thống nhất biểu hiện ở sự tan rã của chế độ “tỉnh điền”, ruộng đất tƣ phát triển, sự thay thế hình thức nộp thuế “thập nhất” bằng hình thức phát canh, thu tô. Do đó, với sự biến chuyển trong cơ cấu kinh tế trên, cơ sở sản xuất xã hội có khuynh hƣớng đi đến thống nhất, bên cạnh sự đa dạng các hoạt động sản xuất đã là những điều kiện để hình thành phát triển những tƣ tƣởng triết học có sự đa dạng nhƣng thống nhất. 1.1.2. Điều kiện chính trị - xã hội Xã hội Trung Quốc cũng tuân theo dòng chảy tiến trình lịch sử của nhân loại. Thời kỳ nguyên thủy loài ngƣời sống thành bầy đàn, thị tộc và theo chế độ mẫu hệ. Các thành viên trong thị tộc sống cuộc sống cùng làm cùng hƣởng, bình đẳng với nhau. Vào thời kỳ này, năng suất lao động còn thấp, không có nhiều sản phẩm dƣ thừa, do đó giai cấp chƣa xuất hiện. Đến khi thực tiễn lao động sản xuất thay đổi, ngƣời đàn ông là lực lƣợng sản xuất chính trong gia đình, những bộ tộc sinh sống tại lƣu vực hai con sông Hoàng Hà và Trƣờng Giang lần lƣợt chuyển sang xã hội phụ quyền, tức là xã hội mà trong đó, thế hệ con cái đƣợc tính theo cha, tài sản cũng đƣợc thừa kế theo cha. Trong xã hội này, ngƣời đàn ông dần dần thay thế vị trí trung tâm của ngƣời phụ nữ trong xã hội thị tộc mẫu hệ trƣớc đó, đồng thời từng bƣớc hình thành nên kiểu gia đình phụ quyền với việc lấy ngƣời đàn ông làm trung tâm, chi phối mọi công việc chính trong gia đình. Sau này, cùng với sự phát triển của năng suất lao động, sự tích luỹ tài sản tƣ hữu, những yêu cầu cũng nhƣ quyết định về quyền thừa kế đƣợc hình thành, do đó giữa các gia đình với nhau trong tập đoàn bắt đầu xuất 16 hiện tình trạng sống chung độc chiếm (hai vợ chồng sống chung với nhau nhƣng tách dần ra khỏi thị tộc . Chính điều này đã dẫn đến sự ra đời của hình thức hôn nhân đối ngẫu. Để khẳng định và củng cố vị trí lãnh đạo của mình, những qui định trật tự luân lý đạo đức đƣợc lập ra. Những ngƣời đàn ông có tài năng và đức độ trong thị tộc đƣợc bầu làm tù trƣởng. Dân cƣ Trung Quốc cổ đại chủ yếu sống tập trung trên ba khu vực con sông lớn; các chủng tộc Hoa Bắc ở phía Tây, thuộc các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây, đó là tiền thân của Hán tộc sau này. Các thị tộc này sẵn sàng thôn tính các nƣớc yếu hơn, đồng thời đồng hóa hoặc du nhập các nền văn hóa. Chủng tộc Tam Miêu lại tập trung quanh khu vực sông Hoàng Hà, Dƣơng Tử. Các dân tộc Bắc Việt sống ở phía Nam sông Dƣơng Tử, họ tổ chức quốc gia riêng, họ yêu chuộng tự do và có nền kinh tế rất phát triển. Các dân tộc này có nền văn hóa khác nhau về ngôn ngữ, phong tục tập quán, kỹ thuật canh tác. Qua các cuộc chiến tranh thôn tính, đến thời Xuân Thu các dân tộc phía Nam lần lƣợt bị các dân tộc phía Bắc thôn tính và đồng hóa. Trên lĩnh vực văn hóa, việc “Nam tiến” của các dân tộc phía Bắc qua các cuộc chinh phạt, thôn tính thúc đẩy việc giao lƣu, dung hợp của hai nền văn hóa Bắc – Nam đã tạo ra cuộc giải phóng tƣ tƣởng đầu tiên mang tính lịch sử của Trung Quốc. Từ đây, diện mạo nền văn hóa Trung Quốc vừa có tính du mục (trọng động) vừa có tính nông nghiệp (trọng tĩnh với hai phong cách tƣ duy vừa phân tích vừa có thiên hƣớng tổng hợp. Vì vậy, trong triết lý Trung Quốc tồn tại với những khuynh hƣớng đối lập nhau tạo nên sự phong phú, đa dạng mà không kém phần sâu sắc. Cách đây 4000 năm trƣớc công nguyên ở vào cuối công xã nguyên thủy, ở đất nƣớc Trung Hoa cổ đại xuất hiện truyền thuyết về các thánh vƣơng trị đời, lịch sử gọi đó là thời kỳ Tam Hoàng, Ngũ Đế. Thời kỳ Tam Hoàng gồm Toại Nhân, Phục Hy và Thần Nông. Thời kỳ Ngũ Đế gồm: Chuyên Húc, Đế Cốc, Hoàng Đế, Đƣờng Nghiêu, Ngu Thuấn. Trong đó, Hoàng Đế đƣợc xem là thủy tổ của ngƣời Trung Quốc đã liên minh với các bộ tộc ngƣời Hán để đánh Xuy Vƣu tù trƣởng bộ tộc Miêu để chiếm đất đai ven lƣu vực sông Hoàng Hà. Khoảng thế kỷ XXI trƣớc công nguyên ở Trung Quốc xuất hiện triều đại nhà Hạ. Căn cứ vào các bản văn cổ và những di chỉ khảo cổ học có liên quan 17 đến giai đoạn này đƣợc tìm thấy ở Ngƣỡng Triều, Thăng Trì, tỉnh Hà Nam. Có thể nói, triều Hạ đánh dấu bƣớc nhảy vọt trong xã hội Trung Quốc cổ đại. Đó là sự xuất hiện giai cấp và hình thành nhà nƣớc chiếm hữu nô lệ đầu tiên ở Trung Quốc. Vào những thập kỷ cuối triều Hạ, tình trạng bất bình đẳng xã hội trở nên sâu sắc. Chủ nô quý tộc có một cuộc sống xa hoa, còn đời sống nông dân ngày một bần cùng. Đến thế kỷ XVII trƣớc công nguyên, vua Kiệt nhà Hạ chỉ lo ăn chơi, trác táng, ham mê tửu sắc, bỏ bê việc triều chính, khiến cho lòng ngƣời oán hận. Trƣớc hoàn cảnh đó, Thành Thang vốn là tù trƣởng nhà Thƣơng đã đứng lên lập đổ vua Kiệt, lập ra nhà Thƣơng ở đất Bạc. Đến thế kỷ thứ XIV trƣớc công nguyên, Bàn Canh dời đô về đất Ân nên triều Thƣơng còn gọi là triều Ân. Cuối đời Thƣơng – Ân, nội bộ triều đình ngày càng mâu thuẫn gay gắt. Bọn cầm quyền quý tộc sống xa hoa, trác táng, vua bấy giờ của nhà Ân là Đế Tân, hiệu là Trụ bá đạo, say mê tửu sắc, đặt thuế khóa nặng nề đẩy tầng lớp dƣới của xã hội vào bƣớc lầm than, đói khổ. Nhiều trung thần khuyên can nhà vua, kết quả bị bắt giam, chết thảm hoặc phải giả điên. Nội bộ nhà Ân rất hoảng loạn. Khoảng thế kỷ XI trƣớc công nguyên, Chu Vũ Vƣơng của bộ tộc Chu ở đồng bằng Hoa Bắc đã nổi dậy diệt vua Trụ lập ra nhà Chu năm 22 trƣớc công nguyên), đóng đô ở Hạo Kinh (phía tây thành Tây An). Lịch sử gọi đây là thời Tây Chu. Ba triều Hạ, Thƣơng, Chu đều theo chính thể quân chủ quý tộc. Trong chính thể này, tổ chức nhà nƣớc lấy dòng máu họ hàng làm sợi dây gắn bó, hệ thống gia tộc cùng với hệ thống chính quyền hợp lại thành một, thủ lĩnh của dòng họ là vị gia trƣởng cao nhất trong dòng họ. Khác với chính thể quân chủ phong kiến tức là theo thể chế “tôn quân quyền” (quyền lực cao nhất thuộc về vua), trong chính thể quân chủ quý tộc, quyền tối cao điều khiển việc nƣớc là nhà vua và hội đồng hoàng tộc (những ngƣời có quan hệ huyết thống với nhà vua). Tổ chức quốc gia lấy quan hệ dòng tộc làm sợi dây gắn bó, quyền lực, địa vị dựa vào quan hệ thân hay sơ mà quyết định các chức quan trong vƣơng thất hoặc phong vua các nƣớc chƣ hầu và hƣởng đặc quyền trong chính quyền. Địa vị, đặc quyền ấy đƣợc truyền sang đời con cháu. Cho nên thể chế này còn đƣợc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan