TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ OANH
TÍNH QUY PHẠM VÀ BẤT QUY PHẠM
TRONG THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ văn
Cán bộ hướng dẫn: PHAN THỊ MỸ HẰNG
Cần Thơ, 5 - 2011
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm
1.1.1. Quy phạm
1.1.2. Bất quy phạm
1.2. Quy phạm, bất quy phạm – đặc trưng thi pháp của văn học trung đại
Việt Nam
1.2.1. Thi pháp
1.2.2. Khái quát về đặc trưng thi pháp của văn học trung đại.
1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến tính quy phạm và bất quy phạm trong thơ
văn Nguyễn Khuyến
1.3.1. Ảnh hưởng của truyền thống bác học và bình dân trong thơ văn
Nguyễn Khuyến.
1.3.2. Ảnh hưởng sự chuyển mình của văn học nửa cuối thế kỉ XIX sang
phạm trù văn học mới.
Chương 2
TÍNH CHẤT QUY PHẠM VÀ BẤT QUY PHẠM TRONG
THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN
NỘI DUNG
2.1. Sự tuân thủ và không tuân thủ một số đề tài trong văn học truyền thống
2.1.1. Đề tài vịnh cảnh
2.1.2. Đề tài vịnh sử
2.1.3. Đề tài ẩn dật
2.2. Sự tuân thủ và không tuân thủ một số quan niệm sáng tác trong văn học
truyền thống
2.2.1. Quan niệm “thi ngôn chí”
2.2.2. Quan niệm “văn dĩ tải đạo”
2.3. Sự tuân thủ và không tuân thủ một số đối tượng sáng tác trong văn học
truyền thống
2.3.1 Con người ưu tư
2.3.2 Con người tự trào
2.3.3 Con người của cuộc sống nông thôn
CHƯƠNG 3
TÍNH CHẤT QUY PHẠM VÀ BẤT QUY PHẠM TRONG
THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN
HÌNH THỨC
3.1 Sự tuân thủ và không tuân thủ một số hình thức ngôn ngữ của văn học
trung đại
3.1.1 Ngôn ngữ quy phạm
3.1.2 Ngôn ngữ bất quy phạm
3.2 Sự tuân thủ và không tuân thủ một số nguyên tắc của thể thơ Đường luật
3.2.1 Về vần
3.2.2 Về niêm luật
3.2.3 Về đối
3.3 Sự tuân thủ và không tuân thủ về miêu tả thời gian và không gian nghệ
thuật trong văn học truyền thống.
3.3.1 Thời gian nghệ thuật
3.3.2 Không gian nghệ thuật
KẾT LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam là dòng văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp và
sâu sắc nhất của thơ văn Trung Quốc. Các nhà thơ trung đại cũng chính là tầng lớp
Nho học chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia và các quy định, thể chế của việc
làm văn hết sức nghiêm nhặt. Chính vì thế, trong suốt chặng đường văn học trung
đại, chúng ta luôn bắt gặp những bài thơ mang âm hưởng và những quy định giống
như thơ văn Trung Quốc. Ví dụ, gặp một cảnh đẹp thì ví với những cảnh đẹp đã
xuất hiện trong thơ văn Trung Hoa, làm bài thơ để răn dạy hoặc giáo hóa người
đời thì dùng những điển tích, điển cố cũng của Trung Hoa. Tuy nhiên, ông cha ta
trên con đường sáng tạo văn học đã dùng tài năng và tấm lòng yêu quê hương, đất
nước tha thiết của mình đã sáng tác nên những tác phẩm mang âm hưởng, tâm tư,
tình cảm của con người Việt Nam. Họ đã để cho hồn thơ của mình được tự do bay
bổng không bị gò bó bởi một niêm luật, một công thức, một quy chế nào. Và
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ xuất sắc ấy. Thơ văn Nguyễn Khuyến
bên cạnh tính quy phạm mà ông đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia thì cũng
chính ở ông đã có những bước phá cách, không theo những quy tắc nghiêm ngặt
đó để tạo nên những vần thơ mang vẻ đẹp của chính người Việt Nam và Xuân
Diệu đã mệnh danh Nguyễn Khuyến là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam và là
nhà thơ của dân tình”.
Không chỉ đến Nguyễn Khuyến mới có những bước phá cách như thế mà ở
các nhà thơ trước ông tính bất quy phạm trong thơ thể hiện rất rõ như Nguyễn
Trãi, Hồ Xuân Hương….Các tác gia trung đại tuy chịu ảnh hưởng của tư tưởng
Nho gia nhưng cũng chính họ muốn thoát khỏi những ảnh hưởng đó để tạo nên
những cái mới cho nền văn học. Những điều này trong suốt quá trình học tập,
người viết đã được biết đến qua từng tác giả cụ thể nhưng chưa thực sâu sắc và
toàn diện mà chỉ tìm hiểu ở một hoặc một vài bài thơ tiêu biểu. Do đó, người viết
chọn đề tài Tính quy phạm và bất quy phạm trong thơ văn Nguyễn Khuyến cho
luận văn, một mặt muốn tìm về hồn thơ tha thiết và chân tình của ông, mặt khác
muốn áp dụng những điều đã biết vào nghiên cứu một tác giả cụ thể một cách sâu
sắc và toàn diện hơn để bổ sung vào những kiến thức còn thiếu sót.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Khuyến là một tác giả lớn của giai đoạn văn học nửa cuối thế kỉ
XIX. Trên con đường tìm hiểu sự nghiệp văn chương của ông có rất nhiều nhà lí
luận, phê bình nghiên cứu thẩm định để đóng góp ngày một hoàn thiện hơn về thơ
văn Nguyễn Khuyến. Trong đó tính quy phạm và bất quy phạm là một mảng nhỏ
nhưng vẫn được khá nhiều nhà phê bình đề cập đến, cụ thể:
Công trình Thơ văn Nguyễn Khuyến [3], Xuân Diệu nhận định thơ văn Nguyễn
Khuyến đã có sự phá cách làm nên những nét mới mà không theo một ước lệ,
tượng trưng nào. Ông dẫn ra ba bài thơ thu và phân tích, so sánh nó với các bài thơ
trước đó để làm rõ sự khác biệt trong cách miêu tả và thể hiện của Nguyễn
Khuyến. Cảnh trong thơ Nguyễn Khuyến là cảnh thật, cảnh thu miền Bắc nước ta
chớ không phải ở đâu khác, cũng không phải là hình ảnh ước lệ nào. Qua đây tác
giả khẳng định thơ văn Nguyễn Khuyến có những nét cách tân mới, đưa chất liệu
đời sống vào thơ. Đây là đóng góp đáng kể của Xuân Diệu trong quá trình nghiên
cứu tính bất quy phạm trong thơ văn Nguyễn Khuyến.
Công trình Đến với thơ Nguyễn Khuyến [12] tập hợp nhiều bài viết có liên
quan đến đề tài, trong đó có bài viết của Văn Tân Nghệ thuật thơ văn Nguyễn
Khuyến tác giả đã đưa ra tám đặc điểm về thơ văn Nguyễn Khuyến trong đó có
đặc điểm “cách dùng điển tích để nêu dụng ý”[12, tr 791] đây là tính quy phạm
trong thơ ông. Bên cạnh đó tác giả còn cho rằng thơ Nguyễn khuyến còn mang
tính bất quy phạm ở chỗ: “thơ văn ông, bên cạnh những câu có những chữ đối chữ
chan chát, lại có những câu mà chữ với chữ không cần đối chọi nhau cho lắm” và
“ông thường nghiêng về nội dung hơn là nghiêng về nghệ thuật”.[12,tr 789 – 791]
Cũng trong quyển này, ở bài Nghệ thuật tả cảnh thôn quê của Nguyễn
Khuyến Minh Văn – Xuân Tước đã nhận định: “lời thơ của Cụ Nguyễn Khuyến là
những lời rung cảm chân thành của tâm hồn dân quê, lắm khi nhẹ nhàng, mộc
mạc như lời ca dao”[12, tr 763] Nhận định này cho thấy, ngôn ngữ trong thơ
Nguyễn Khuyến không còn là cao xa, quý phái, trang nhã mà chơn chất như lời
nói hằng ngày của con người. Đó là tính bất quy phạm. Tuy nhiên hai tác giả chỉ
làm rõ thêm ba bài thơ thu chớ chưa tìm hiểu một cách toàn diện và sâu sắc toàn
bộ tác phẩm của ông. Bởi không chỉ có ba bài thơ thu mà nhiều nội dung khác
cũng có sự cách tân.
Bài viết Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Khuyến và ảnh hưởng của Đường
thi, Lam Giang – Vũ Ký đưa ra hai lề lối chịu ảnh hưởng của Đường thi: thứ nhất
ảnh hưởng hình thức là về từ ngữ, cú điệu, cú pháp còn ảnh hưởng thứ hai là về
tinh thần: cảm hứng, cách sáng ý, cách truyền cảm…Và đưa ra nhận định: thơ
Nguyễn Khuyến chịu ảnh hưởng của Đường thi nhưng “thoát li được lề lối chịu
ảnh hưởng theo cách thứ nhất”[12, tr 775] có nghĩa là thoát li khỏi những ngôn từ
sáo rỗng, để đem đến một sinh khí mới trong thơ. Sinh khí mới đó ta có thể bắt
gặp ở mỗi tác phẩm của ông sau khi về Yên Đỗ, ông đã đem cái tài, cái tình của
mình gắn vào cảnh vật khiến chúng trở nên sinh động, đầy màu sắc nhưng không
hời hợt như việc lắp đặt ngôn từ.
Công trình Nguyễn Khuyến tác phẩm [10] đưa ra nhận xét về tình hình văn
bản tác phẩm và giới thiệu Nguyễn Khuyến về cuộc đời, tâm hồn, tài năng và quê
hương của nhà thơ. Ở mỗi phần nhỏ, tác giả đưa ra những đặc trưng về nội dung
cũng như về nghệ thuật trong thơ Nguyễn Khuyến và cho ta thấy được sự khác
biệt trong thơ ông đối với những giai đoạn trước. Cuối cùng tác giả nhận định:
Nguyễn Khuyến có những đóng góp “trong việc đưa thơ ca Việt Nam trên đường
tìm một cách diễn đạt khoáng đạt, thích nghi với hoàn cảnh mới”[10, tr 97]. Đây
là bài tiểu luận sâu sắc, tìm ra những nét đặc trưng, cơ bản của thơ văn Nguyễn
Khuyến.
Công trình Văn học Việt Nam – Văn học trung đại, những công trình
nghiên cứu”[23] đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu của các tác giả về văn học trung
đại, trong đó có bài viết của Đào Thản về nghệ thuật thơ văn Nguyễn Khuyến ở
Tài chơi chữ của ông. Ở bài viết này, tác giả nghiên cứu cách đối trong thơ văn
Nguyễn Khuyến và đưa ra những ví dụ cho thấy rằng trong thơ văn Nguyễn
Khuyến những quy định chặt chẽ về đối ngẫu không còn nghiêm ngặt nữa. Như
trong câu đối Vợ thợ nhuộm khóc chồng và ông cho rằng câu đối này “là một sáng
tác độc đáo trong cách chơi chữ. Tác giả đã huy động cả một trường từ vựng
phong phú gồm hầu hết các đơn vị biểu thị màu sắc của tiếng Việt để tập trung
cho một chủ đề”[23, tr 351]. Tuy rằng câu đối này không thật chỉnh nhưng tác giả
khẳng định rằng: “chúng ta tâm đắc với nhà thơ rằng, đối chẳng qua chỉ là hình
thức (….) cái quan tâm đạt tới là nội dung” [23, tr 352] Đây là phát hiện hết sức
mới mẻ của tác giả bởi từ điều này suy ra, trong thơ văn Nguyễn Khuyến đã có sự
đột phá mới mẻ, những quy định của văn chương khoa cử không bó buộc được
ông và đây cũng tạo thành tính bất quy phạm trong thơ văn Nguyễn Khuyến
Công trình “Địa vị Nguyễn Khuyến trong lịch sử văn học Việt Nam” [11]
bàn về tính bất quy phạm trong thơ Nguyễn Khuyến có viết: “Thơ đề vịnh của
Nguyễn Khuyến đã vượt qua được những sáo mòn “tuyết nguyệt phong hoa” của
thi ca cổ để tả những cảnh thực, tình thực, những hình ảnh cụ thể, hiện thực của
cảnh sắc Việt Nam: ao cá, bờ tre, ngõ trúc, vườn cà, vườn cải….Điều đặc biệt ở
đây là Nguyễn Khuyến đã phát hiện, khám phá và truyền cho người đọc cái thú vị,
kì thú của những sự việc bình thường, vẫn diễn ra trong cuộc sống ngày thường
quanh ta”[11, tr 160]. Đây là bài viết có giá trị nói lên được tính bất quy phạm
trong thơ Nguyễn Khuyến đã thoát khỏi những công thức, những quy định cũ đưa
vào thơ văn những cái bình thường mà thú vị của cuộc sống.
Qua các bài viết, các công trình nghiên cứu của các tác giả, ta thấy có nhiều
ý kiến khác nhau nhưng tựu trung lại tất cả đều đi đến kết luận: Nguyễn Khuyến là
một nhà nho chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn chương bác học nhưng vẫn đậm đà
tính dân quê. Trong thơ Nguyễn Khuyến có tính ước lệ, tượng trưng nhưng cũng
có cái cụ thể, thực tế; có ngôn ngữ bác học và cũng có ngôn ngữ của cuộc sống đời
thường. Nhưng tất cả đều khẳng định ông là “nhà thơ của quê hương làng cảnh
Việt Nam”. Đây là những đóng góp hết sức đáng kể cho việc nghiên cứu về một
tác giả lớn trong nền văn học trung đại. Các tác giả đã đi sâu phân tích từng khía
cạnh cụ thể của thơ văn Nguyễn Khuyến để đem đến cái nhìn mới mẻ cho thơ văn
của ông. Từ nền tảng đó người viết tổng hợp và phát triển thêm ý mới để góp phần
vào việc đánh giá và tìm hiểu tác giả một cách sâu sắc và toàn diện hơn.
3. Mục đích yêu cầu
- Tìm hiểu đặc trưng tính quy phạm và bất quy phạm của văn học trung đại Việt
Nam nói chung và thơ văn Nguyễn Khuyến nói riêng.
- Khảo sát đặc trưng này trong mối quan hệ với hoàn cảnh lịch sử để tìm ra nguyên
nhân ảnh hưởng đến tính quy phạm và bất quy phạm trong thơ văn Nguyễn
Khuyến. Từ đó góp phần tìm hiểu sự kế thừa và sáng tạo của Nguyễn Khuyến qua
một số phương diện về nội dung và nghệ thuật.
- Góp phần nâng cao hiểu biết về Nguyễn Khuyến - cuộc đời cũng như thơ văn của
ông trong giai đoạn văn học, những nguyên nhân ảnh hưởng cũng như chi phối
toàn bộ sáng tác và làm nên phong cách trong thơ ông. Qua đó, người viết rèn
luyện khả năng nghiên cứu, đánh giá chuyên sâu về một tác giả cụ thể.
4. Phạm vi đề tài
Trong khuôn khổ của đề tài, người viết nghiên cứu tính quy phạm và bất
quy phạm trong thơ văn Nguyễn Khuyến về nội dung và nghệ thuật ở hai mảng
chữ Hán và chữ Nôm. Nhưng về phần thơ chữ Hán người viết chủ yếu căn cứ vào
bản dịch.
Về phạm vi tư liệu, người viết dựa trên các tư liệu có liên quan đến đề tài.
Riêng về dẫn chứng minh họa, người viết dựa vào các quyển:
- Nguyễn Khuyến – tác phẩm [10]
- Thơ văn Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu [3]
Cấu trúc luận văn: gồm 3 chương
- Chương 1: Một số vấn đề chung.
- Chương 2: Tính quy phạm và bất quy phạm trong thơ văn Nguyễn Khuyến xét từ
phương diện nội dung.
- Chương 3: Tính quy phạm và bất quy phạm trong thơ văn Nguyễn Khuyến xét từ
phương diện hình thức.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Tập hợp tư liệu, sắp xếp hệ thống những vấn đề có liên quan đến đề tài, cơ bản
bám sát vào những tác phẩm của giai đoạn trước và những tác phẩm của Nguyễn
Khuyến. Từ những tác phẩm cụ thể, người viết tìm hiểu khảo sát chúng ở nội dung
và nghệ thuật đồng thời tìm những nét tương đồng và khác biệt, kế thừa và phá
cách của thơ Nguyễn Khuyến đối với văn học trước đó.
Như vậy, ở đề tài này người viết sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp so sánh: thơ văn Nguyễn Khuyến với thơ văn giai đoạn trước.
- Phương pháp phân tích và chứng minh: để làm rõ tính quy phạm và bất quy
phạm trong thơ văn Nguyễn Khuyến.
- Phương pháp tổng hợp: tìm ra cách lí giải, giải thích cho từng vấn đề cụ thể.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Văn học trung đại là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc
và nhân loại bên cạnh văn học cổ đại và hiện đại. Văn học trung đại có những đặc
trưng tiêu biểu mà văn học ở trước và sau nó không có được, điều này đã làm nên
giá trị của văn học trung đại trong suốt giai đoạn lịch sử. Một trong những đặc
trưng đó là tính quy phạm và bất quy phạm trong việc thể hiện tác phẩm văn học ở
phương diện nội dung và nghệ thuật.
1.1. Khái niệm
1.1.1. Quy phạm
Về khái niệm quy phạm có nhiều quan niệm khác nhau:
150 thuật ngữ văn học [1] của Lại Nguyên Ân: “Quy phạm nghệ thuật là
khái niệm chỉ hệ thống những biểu trưng và ngữ nghĩa nghệ thuật được quy chuẩn
, cố định hóa”. Ông còn cho rằng “quy phạm nghệ thuật có vai trò to lớn đối với
những thời đại văn hóa được tổ chức nghiêm ngặt chủ yếu là văn học cổ đại và
trung đại trước chủ nghĩa lãng mạn”.[1, tr 277]
Đại từ điển Tiếng Việt thì có cách định nghĩa ngắn gọn hơn: “Quy phạm là
điều quy định chặt chẽ, đòi hỏi phải tuân thủ”.[22, tr 1457]
Sách văn học lớp 10 [14] trong bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X
– hết thế kỉ XIX, mục III – Mấy yếu tố lớn về hình thức có viết : “Tính quy phạm
thể hiện ở quan niệm nghệ thuật rất coi trọng mục đích giáo huấn của văn học, ở
tập quán và tư duy nghệ thuật là quen nghĩ và phải nghĩ qua những kiểu mẫu nghệ
thuật có sẵn, đã thành công thức. Về mặt hình thức, tính quy phạm đó được thể
hiện ở việc sử dụng các thể loại văn học có lối kết cấu định hình, có niêm luật chặt
chẽ và thống nhất. Ở cách sử dụng văn liệu, thi liệu đã thành mô tip quen thuộc
(…), tính quy phạm như trên đã tạo ra một kiểu ước lệ mang đặc điểm riêng là
thiên về công thức, trừu tượng, nhẹ về tính cá thể, cụ thể trong nghệ thuật”.[14, tr
208]
Sách giáo khoa lớp 10 [17] trong bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ
X đến hết thế kỉ XIX phần IV – Những đặc điểm lớn về nghệ thuật của văn học từ
thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX có viết: “Tính quy phạm, đặc điểm nổi bật của văn học
trung đại, là sự quy định chặt chẽ theo khuôn mẫu. Tính quy phạm thể hiện ở quan
điểm văn học: coi trọng mục đích giáo huấn “thi dĩ ngôn chí” (thơ để nói chí),
“văn dĩ tải đạo” (văn để chở đạo); ở tư duy nghệ thuật: nghĩ theo kiểu mẫu nghệ
thuật có sẵn đã thành công thức; ở thể loại văn học với những quy định chặt chẽ
về kết cấu; ở cách sử dụng thi liệu: dẫn nhiều điển tích, điển cố, dùng nhiều văn
liệu quen thuộc. Do tính quy phạm, văn học trung đại thiên về ước lệ, tượng
trưng”.[17, tr 110]
Thi pháp văn học trung đại Việt Nam [20] cho quy phạm là “sáo ngữ, công
thức trong trần thuật, miêu tả, định danh; sử dụng chất liệu ngôn ngữ cao quý,
đầy hoán dụ, ví von, định nghĩa nghệ thuật làm cho lời văn mỹ lệ” và “Tính nghi
thức đòi hỏi miêu tả từng loại nhân vật phải tuân theo yêu cầu của loại nhân vật
ấy”.[20, tr 61] Ông còn nêu ra một số tiêu chí trong cách miêu tả nhân vật trong
văn chương trung đại như miêu tả vua, chúa, Phật phải như thế nào, nông dân, phu
sĩ như thế nào nhất nhất đều có quy tắc nhất định.
Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam [21] cho rằng quy phạm là “những
quy định bảo đảm một nơi nào đó hoạt động có tổ chức, nề nếp, đạt hiệu quả cao.
Nó là một biểu hiện của văn minh, văn hóa ở mỗi con người, ở mỗi cộng đồng, ở
cả một xã hội. Dùng thuật ngữ thời xưa thì nó là biểu hiện của chữ “lễ”.” [21, tr
227].
Tóm lại, tính quy phạm trong văn học trung đại đó là công thức, một khuôn
mẫu bắt buộc những nhà thơ, những người sáng tác văn học phải tuân theo một
cách nghiêm ngặt. Tính quy phạm đó nó quy định về nội dung, hình thức thể hiện
một cách cụ thể cho từng thể loại văn học nhất là đối với những thể loại dùng
trong thi cử mà sĩ tử cần phải học thuộc. “Thi thiên, phú bách, văn sách năm
mươi” là câu nói mà những người theo khoa cử đúc kết lại trong quá trình học
hành và thi cử của mình. Điều này cho thấy tính quy phạm được quy định một
cách rất chặt chẽ.
Tuy nhiên, ông cha ta trong quá trình sáng tác văn học thì không tuân theo
những quy định đó một cách cứng nhắc, khô khan mà đã dần dần phá vỡ tính quy
phạm đó tạo nên một đặc điểm mới đi song song với tính quy phạm là bất quy
phạm trong văn học
1.1.2. Bất quy phạm
Là cái đi ngược lại với tính quy phạm. Nếu quy phạm là sự bắt buộc tuân
theo một quan niệm, một cấu trúc truyền thống thì tính bất quy phạm là cái vượt
lên trên những yếu tố đó.
Bất quy phạm trong văn học trung đại Việt Nam được hình thành qua quá
trình tiếp nhận văn học Trung Quốc. Tuy vậy, ông cha ta không “di thực” toàn bộ
nền văn học Trung Quốc mà qua quá trình sáng tác văn học đã để cho hồn thơ, hồn
văn của mình được tự do bay bổng.
Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam [21] viết về tính bất quy phạm trong
thơ, ông đã dẫn ra thể loại thơ Đường. Thơ Đường “khi đã được đưa vào thi cử, nó
càng trở nên có tính chất quan phương (…). Nói quy phạm triệt để là từ số câu, số
chữ, cân đối thanh điệu, cân đối trong đối ngẫu, ở lời, ở ý, đến kết cấu chặt chẽ,
phá thừa, thực, luận, kết nhất nhất có nhiệm vụ, nội dung riêng, luôn tới đề tài, lập
ý, cấu tứ, chọn lời, tránh những thứ khiếm nhã, những khuyết tật phong yêu, hạc
tất….tất cả đều theo những quy tắc cứng rắn, tuyệt đối không được vi phạm (….).
Văn học nước ta khi tiếp nhận thể thơ luật này tất nhiên không bỏ chút gì về mọi
quy phạm trong đó”. Tuy nhiên, ông cho rằng đó chỉ mới là về “hình thức, mặt
cạn của thi pháp”. Vì ông đã chứng minh được ông cha ta, trong quá trình sáng
tạo tác phẩm văn học đã có sự thay đổi. Ví dụ thơ Nguyễn Trãi “quy phạm về
thanh điệu, về đối ngẫu, về số chữ trong câu không luôn luôn được tuân thủ. Đến
thời Lê Thánh Tông, những sự bất quy phạm càng tăng, câu thơ sáu chữ xen lẫn
vào giữa bài thơ thất luật trở nên bình thường” [21, tr 234 – 235].
Thi pháp văn học trung đại Việt Nam [20] đã dẫn ra những quan niệm văn
chương của người xưa và những biến đổi về quan niệm đó cho thấy được tính quy
phạm và bất quy phạm trong đó. Quan niệm cũ về văn chương: “Văn là gì? Văn là
vẻ đẹp; Chương là gì? Chương là vẻ sáng. Lời của ta rực rỡ, bóng bẩy tựa như ta
có vẻ đẹp, vẻ sáng nên gọi là văn chương”[20, tr 81]. Vậy văn chương là lời đẹp
đẽ, bóng bẩy. Nhưng càng về sau, quan niệm này đã bị đổi khác. Lời trong ngôn
ngữ văn chương không còn là “lời văn óng ả, câu văn mượt mà” nữa mà có khối
lượng lớn những lời nói thường ngày, lời “nôm na, mách qué” được đưa vào tác
phẩm văn chương là tính bất quy phạm. Trần Đình Sử còn cho rằng “người trung
đại thích noi theo, vay mượn các chất liệu truyền thống (cốt truyện, điển cố…)
nhưng chính họ cũng thích đổi mới: xem tên các tác phẩm truyện Nôm có chữ
“tân” càng thấy rõ đều này: Bướm hoa tân truyện, Đoạn trường tân thanh….Với
chữ “tân” trong nhan đề, tác giả khẳng định và thông báo cho người đọc tính
sáng tạo của mình” [20, tr 91].
Lí luận văn học [18] có nói văn nghệ có tính dân tộc. Các tác giả cho rằng:
“Tính dân tộc cũng biểu hiện ở hình thức tác phẩm. Mỗi nền văn học dân tộc có hệ
thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện riêng, nhất là
ngôn ngữ dân tộc thể hiện tư duy, thị hiếu và tâm hồn dân tộc mình” [18, tr 106].
Từ đó suy ra, ông cha ta trong quá trình sáng tác văn chương mặc dù hình thức,
ngôn ngữ được vay mượn từ nước ngoài nhưng ở mỗi tác phẩm, mỗi quan niệm
đều đứng trên tiêu chí, trên cái nhìn của dân tộc mình để nhận xét, đánh giá. Ví dụ,
Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm lấy cốt truyện từ Trung Quốc của Thanh
Tâm tài nhân nhưng ông đã dùng quan niệm, ngôn ngữ của dân tộc để sáng tạo tác
phẩm mới, phù hợp với cái nhìn, cái nghĩ của con người Việt Nam. Đồng thời tạo
nên tác phẩm vừa quy phạm vừa bất quy phạm.
1.2. Quy phạm, bất quy phạm – đặc trưng thi pháp của văn học trung
đại Việt Nam.
1.2.1. Thi pháp
Thi pháp văn học trung đại Việt Nam [20] định nghĩa: “Thi pháp là hệ
thống các nguyên tắc nghệ thuật chi phối sự tạo thành của một hệ thống nghệ
thuật với các đặc sắc của nó. Thi pháp không phải là nguyên tắc có trước, nằm
bên ngoài mà là nguyên tắc bên trong, vốn có của sáng tạo nghệ thuật, hình thành
cùng với nghệ thuật”. Ông còn nhấn mạnh: “Nó (chỉ thi pháp) là mỹ học nội tại
của sáng tác nghệ thuật gắn liền với sự sáng tạo và một trình độ văn hóa nghệ
thuật nhất định, mang một quan niệm nghệ thuật nhất định đối với cuộc đời, con
người và bản thân nghệ thuật”. [20, tr 6].
150 thuật ngữ văn học [1] nói: “Thi pháp là ngành học thuật nghiên cứu hệ
thống các phương thức, phương tiện biểu hiện trong các tác phẩm văn học (…)
nghiên cứu đặc trưng của các loại hình, loại thể văn học, các trào lưu và khuynh
hướng, các phong cách và phương pháp, nghiên cứu các quy luật liên hệ và quan
hệ nội tại giữa các cấp độ khác nhau của chỉnh thể nghệ thuật” ông cho rằng ngôn
từ là cái mà “thi pháp nghiên cứu” [1, tr 295]
Lí luận văn học [5] trong phần Thi pháp học, nhóm tác giả đưa ra quan
niệm về thi pháp: nếu thi pháp “chỉ còn là nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật tỏ ra rất
mâu thuẫn với bản thân đối tượng nghiên cứu. Ngay cả khi chỉ đề cập thuần túy
đến phương diện thi pháp của tác phẩm nghệ thuật, vẫn không thể bỏ qua những
quan niệm của nhà văn về thế giới và con người, những định hướng làm cơ sở cho
hành vi sáng tạo cũng như quan niệm của nghệ sĩ về mối tương quan và khả năng
chuyển hóa giữa cuộc sống và nghệ thuật, giữa chất liệu và hình tượng”[5, tr 302].
Từ đó, nhóm tác giả cho rằng: “Thi pháp học là khoa học về hình thức nghệ thuật.
Ngay trong luận điểm xuất phát đó đã chứa một đặc trưng rất cơ bản của cách
tiếp cận đối tượng trong bộ môn này. Thi pháp học cần phát hiện ra những quy
luật chi phối thế giới hết sức đa dạng và phong phú các hiện tượng nghệ thuật”
[5, tr 303]. Các tác giả còn cho rằng: “Thi pháp học không chỉ có nhiệm vụ thống
kê và mô tả đơn thuần các phương diện, các thành tố cụ thể hiện tồn của hình thức
nghệ thuật. Nó còn phải nghiên cứu hình thức đó trong chức năng tổ chức và thể
hiện nội dung. Đồng thời, nó cần phải đi ngược lên phát hiện ra những cơ sở và
ảnh hưởng vô cùng phức tạp đã quy định sự lựa chọn của nghệ sĩ, đã định hướng,
dẫn dắt anh ta rốt cục đến những giải pháp hình thức cụ thể trong số vô vàn khả
năng có thể có. Thi pháp học đồng thời là một kiểu “triết luận về hình thức nghệ
thuật” [5, tr 315].
Thi pháp thơ Đường [7] khi định nghĩa về thi pháp tác giả đã dẫn ra 2 định
nghĩa về thi pháp. Một là ở trong “Từ điển Bách khoa Xô Viết” và hai là “Từ điển
thuật ngữ văn học”. Từ đó tác giả rút ra định nghĩa về thi pháp: “Thi pháp là hệ
thống các phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ
thuật trong sáng tác văn học. Hệ thống đó có thể chia thành các phương diện (yếu
tố); thể loại, kết cấu, phương pháp, không gian, thời gian, ngôn ngữ…[7, tr 7 – 8]
Từ điển thuật ngữ văn học [8] định nghĩa: “Thi pháp tức là hệ thống các
phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ
thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống
hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ
thuật, ấn tượng thẩm mỹ và chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật”. [8, tr
304].
Đại từ điển tiếng Việt [22] định nghĩa thi pháp là “phương pháp, quy tắc
làm thơ nói chung”. [22, tr 1560]
Nói chung thi pháp là phương tiện, quy tắc dùng trong sáng tác văn
chương.
1.2.2. Khái quát về đặc trưng thi pháp của văn học trung đại
Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam [21] của Lê Trí Viễn nghiên cứu về
cảm thức thế giới của con người trung đại, đôi nét thẩm mỹ Việt Nam và quan
trọng hơn ông đưa ra ba đặc trưng cơ bản của văn học trung đại:
- Cao nhã
- Vô ngã và hữu ngã
- Quy phạm và bất quy phạm
Trong đó, “cao nhã là muốn nói cao quý, thanh nhã ở quan niệm về văn chương, ở
quan niệm sáng tác, ở người sáng tác, ở hạn hẹp của sự phổ biến, ở trong điều
kiện lịch sử cụ thể thời trung đại”[21, tr 137]. Điểm qua các tác phẩm thời trung
đại, ông cho rằng văn học trung đại có sự chuyển biến từ vô ngă sang hữu ngă từ
“con người – công dân đổi sang con người cá nhân”[21, tr 224]. Ban đầu theo
quan niệm Nho giáo con người trung đại phải sống trong những gò bó đủ mặt về
vật chất, tinh thần nhưng trải qua biến cố lịch sử, con người cá nhân hình thành,
được đưa vào văn chương đó là sự biến đổi lớn nhưng cũng là tất yếu của lịch sử.
Điểm cuối cùng trong quan niệm của ông về văn chương trung đại là quy phạm và
bất quy phạm. Trong đó, ông đưa ra các tác phẩm thơ, phú, văn xuôi, truyện thơ,
tuồng chèo để phân tích tính quy phạm và bất quy phạm của chúng về đề tài, quá
trình hình thành tác phẩm, về hình tượng nghệ thuật, kết cấu, ngôn ngữ, tính hàm
súc…để cuối cùng ông kết luận: Tuy nền văn học nước ta tiếp thu từ nước ngoài
và phải chịu những gò bó, những quy luật khắt khe nhưng “không phải ai cũng
giam mình trong quy phạm ấy, nhất là các bậc tài hoa”. Ông cho rằng đó là sự
“tiếp biến văn hóa nước ngoài từ xưa” và “nhờ đó mà nền văn chương dân tộc
như đã có” [21, tr 270].
Tóm lại, đặc trưng thi pháp trung đại có ba yếu tố chính đó là: cao nhã, vô
ngã và hữu ngã, cuối cùng là quy phạm và bất quy phạm. Trong đó, tính quy phạm
và bất quy phạm là yếu tố quan trọng, nó đã chứng minh rằng, ông cha ta trong
con đường sáng tạo văn học đã có những phá cách mới mẻ làm nên hồn thơ của
dân tộc. Bên cạnh phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định về nội dung, về
hình thức thơ: nội dung phải trang nhã, trong sáng, phải phục vụ cho mục đích răn
dạy, giáo huấn người đời; câu văn phải cao quý, thoát tục; hình thức thể hiện phải
rõ ràng, khúc chiết đầy đủ niêm luật, tuân thủ phép đối trong thơ mà thơ văn trung
đại còn miêu tả những việc tầm thường, những con người bình thường với những
công việc bình thường đúng nghĩa với chính nó. Tuy nhiên, sự bất quy phạm này
cũng nằm trong khuôn khổ quy phạm.
1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến tính quy phạm và bất quy phạm
trong thơ văn Nguyễn Khuyến.
1.3.1. Ảnh hưởng của truyền thống bác học và bình dân trong thơ văn
Nguyễn Khuyến
Tính quy phạm và bất quy phạm trong thơ văn Nguyễn Khuyến thể hiện rất
rõ ở hình thức và nội dung. Tuy nhiên đó không phải là tự thân của ông trong con
đường sáng tác văn chương mà đó là sự kế thừa một truyền thống lâu dài từ văn
chương bác học và tư tưởng bình dân. Về văn chương bác học:
Nước ta trong thời kì nghìn năm Bắc thuộc đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Trung Quốc về tất cả các phương diện: chính trị, xã hội, luân lí, tôn giáo, phong
tục…. Về văn học ta cũng theo người Trung Quốc, theo đạo Nho và viết chữ Hán.
Xem chữ Hán là loại chữ cao quý, văn chương Trung Quốc là những tác phẩm
kinh điển và tư tưởng này ảnh hưởng rất sâu xa. Cũng chính vì vậy, dù khi đã
giành được độc lập nhưng những mặt khác còn phụ thuộc vào Trung Quốc nhất là
quan điểm sáng tác và ngôn ngữ văn chương. Các tác giả trung đại cho rằng: “văn
là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng” như Phan Kế Bính, Ngô Thì Nhậm. Vì vậy, văn
chương phải thể hiện cái cao quý, trong sáng, phải có sức thuyết phục và răn dạy
người đời. Các tác giả dùng văn chương chủ yếu để ngôn chí, hoài bão, niềm ước
ao được tỏ sáng công danh, đem tài học để phò vua, giúp nước:
Tùng, bách đâu há chịu đầu hàng tuyết lạnh
Kình, nghê sao lại tiếc vũng chân trâu
Từng thấy cá côn hóa làm chim bằng ở biển Nam
Vỗ cánh tung bay ngang với sông Thiên Hà
( Tự thuật – Phùng Khắc Khoan)
Hay:
“Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
(Chí nam nhi - Nguyễn Công Trứ)
Trong thơ trung đại không chỉ có ngôn chí mà còn tải đạo. Đạo ở đây là đạo
lí, cương thường, đạo nghĩa theo giáo huấn của Nho gia: con người phải có nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín. Làm bầy tôi phải biết trung với vua, là phụ nữ phải biết lấy chữ
trinh, tiết hạnh lên làm đầu. Thơ văn phải nói về cái chung, cái cao cả còn những
gì thuộc về riêng tư con người đều bị phê phán, bị liệt vào “dâm thư”. Với tư
tưởng như vậy cho nên các tác giả trung đại không chú ý đến tả thực, tất cả đều
theo một lí tưởng, một ước lệ. Dùng chủ quan để miêu tả khách quan, đem tâm
cảm của mình gắn vào thiên nhiên chớ ít khi miêu tả ngoại cảnh:
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Thành quách lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Kẻ đấy người đây luống đoạn trường”.
(Thăng Long thành hoài cổ - Bà huyện Thanh
Quan)
Hay nếu có miêu tả thiên nhiên thì không miêu tả một cách cụ thể, xác
thực, đúng với thực tế bên ngoài mà đó là cảnh của tâm trạng:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua đèo ngang – Bà huyện Thanh Quan)
Hay đó là cảnh ước lệ, công thức:
“Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Hoặc là dịch thoát ý từ lời văn của cổ nhân:
“Nhìn quanh nào thấy mặt người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Văn chương bác học – tức văn chữ Hán không chuộng những gì bình
thường của cuộc sống mà thơ văn khi tả thì phải tả những cái cao quý, con người
phải sang trọng, quyền uy: đó là vua chúa hay các bậc giai nhân tài tử; cảnh thì
phải là cảnh hùng vĩ, hay là nơi ghi lại chiến tích của người xưa như Bạch Đằng
giang phú của Trương Hán Siêu. Nhưng nếu có khi vì cảm khái mà đưa những
hình ảnh bình thường của cuộc sống vào trong thơ thì bài thơ đó cũng mang màu
sắc triết lí như Thiên trường vãn vọng của Trần Nhân Tông hay là cảnh sống lí
tưởng không vướng chút bụi trần trong thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm.
Tuy nhiên, cũng chính các tác giả trung đại trong quá trình sáng tạo văn học
đã dần dần thoát khỏi những quy định nghiêm nhặt đó để cho hồn văn, hồn thơ của
mình được bay bổng và điều này làm nên mặt thứ hai của văn học trung đại là tư
tưởng bình dân:
Chữ Hán không còn độc tôn trong sáng tác văn học nữa mà có thêm vào đó
là chữ Nôm – chữ của người Việt thể hiện tâm hồn Việt. Bên cạnh đó văn học dân
gian tuy không được đưa vào giảng dạy nhưng từ lâu nó đã ảnh hưởng vào tâm trí
các nhà nho – nhà thơ. Cùng với tư tưởng của người bình dân trong những sáng
tác văn học dân gian và chữ Nôm, các tác giả trung đại đã đem vào trong thơ văn
những vật bình thường của cuộc sống bình thường:
“Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen”
(Nguyễn Trãi)
Không những thế mà những ham muốn, những mong ước của con người mà trước
kia Nho giáo cho là “dâm” thì nay đi vào thơ một cách chân thành, tự nhiên:
“Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì múi nó dày
Quân tử có yêu thì đóng cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay”
(Quả mít – Hồ Xuân Hương)
Con người cá nhân thay thế dần con người cộng đồng. Con người không
phải chỉ sống vì lí tưởng, phải trung quân mà con người trong thơ đã biết sống vì
cá nhân mình, ý thức sống cho hạnh phúc của bản thân mình:
“Trong cửa này đã đành phận thiếp
Ngoài cửa kia há kiếp chàng vay
Những mong cá nước sum vầy
Nào ngờ đôi ngã nước mây cách vời”
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn)
Người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã ý
thức được sự tan vỡ của hạnh phúc gia đình và tìm hiểu nguyên nhân vì đâu. Nàng
không còn mong ước cho chồng lập nên công danh nữa mà giờ chỉ mong ước sao
cho “chim liền cánh, cây liền cành”, vui vầy hạnh phúc khi tuổi còn xanh chớ
không như người phụ nữ xưa cắt đứt tấm lụa đang dệt để bày tỏ sự kiên quyết, sự
mong muốn chồng lập được công danh.
Từ ngày xưa, như quan niệm của Phan Kế Bính “văn là vẻ đẹp, chương là
vẻ sáng”, văn chương gợi lên những gì trong sáng, tươi đẹp – đó là quan niệm
chung của tất cả nhà nho nhưng đến thế kỉ XVIII nó không còn là chủ yếu. Việc
đưa vẻ đẹp hình thể con người vào thơ là sự cố gắng thần kì, thoát khỏi những
quan niệm văn chương chỉ thiên về tả cảnh tự nhiên. Và bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày
của Hồ Xuân Hương đã làm được điều đó:
“Nắng chiều hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc biến cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng nỡ
Đi thì cũng dở ở không xong”
Bài thơ không chỉ miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ mà còn hạ bệ những đối
tượng tự cho mình là quân tử, luôn đề cao khẩu hiệu “nam nữ thụ thụ bất thân”
nhưng lại thích và chỉ thích sắc dục. Nếu thơ xưa chỉ nói về thánh nhân, những bậc
quân tử thì dần dần hình tượng đó đã có sự thay đổi. Người phụ nữ đã dần được
đưa vào thơ văn và trở thành hình tượng chủ đạo. Các nhà thơ không chỉ quan tâm
về tình cảm, suy nghĩ, cá tính, nguyện vọng, vẻ đẹp tâm hồn và hình thể của người
- Xem thêm -