Tình hình xuất khẩu hàng song, mây, tre trong những năm qua ở
công ty xuất nhập khẩu mây tre Bộ Thương Mại
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nghị quyết lần thứ 7 của Trung Ương Đảng ( tháng 7 năm 1994) có
đặt vấn đề “ xây dựng một nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu ...” Quan
điểm xây dựng một nền kinh tế mở của Đảng đã phù hợp với qui luật hình thành
một nền kinh tế thị trường ở nước ta, là động lực tác động tích cực đến hoạt động
của các ngành, các thành phần kinh tế, đặc biệt là các tổ chức kinh doanh, xuất
nhập khẩu.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang nỗ lực cố gắng hoà nhập vào nền kinh
tế thế giới, thông qua chính sách kinh tế mở cửa nhằm đẩy mạnh hơn nữa tốc độ
tăng trưởng kinh tế, góp phần làm giảm tỉ lệ lạm phát, nâng cao đời sống nhân
dân. Trong một vài năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã đạt
được ở mức khá cao so với khu vực và thế giới. Đạt được kết quả đó, có một
phần đóng góp của các tổ chức đơn vị kinh doanh thương mại quốc tế (kinh
doanh xuất nhập khẩu) góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam hoà nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Công ty xuất nhập khẩu mây tre, Bộ Thương Mại (gọi tắt là Barotex) ra đời
từ năm 1971. Gần 30 năm hình thành và phát triển, công ty đã đóng góp tích cực
vào hoạt động xuất nhập khẩu chung của cả nước. Từ khi ra đời cho đến nay công
ty không ngừng củng cố và phát triển về cả mặt chất và mặt lượng, ngày đầu
thành lập công ty chỉ có hơn 20 cán bộ và bộ đội chuyển ngành có trình độ nghiệp
vụ đối ngoại non yếu, tình hình sản xuất hàng xuất nhập khẩu mấy tre ở các địa
phương thì manh mún, phân tán, cơ cấu hàng hoá thì nhỏ bé, không ổn định, thị
trường xuất khẩu thì chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước trong phe Xã hội chủ
nghĩa...
2
Đến nay, công ty đã có một đội ngũ cán bộ hầu hết có trình độ đại học
(chiếm trên 90% cán bộ nhân viên khối kinh doanh dịch vụ xuất nhập khẩu) và
với đội ngũ công nhân có tay nghề khá, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đa dạng,
phong phú, thị trường xuất khẩu đã được mở rộng, sản phẩm song, mây, tre của
công ty đã có mặt ở khắp các châu lục trên thế giới.
Những đặc điểm kinh tế, chính trị trong và ngoài nước những năm gần đây,
đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh hàng song mây tre xuất
khẩu. Với hàng loạt các sự kiện diễn ra liên tiếp trong thời gian gần đây: Mỹ bỏ
cấm vận với Việt Nam, và lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ, Việt Nam ra nhập
khối ASEAN v.v... và nhất là với chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, đã giúp cho ngành kinh doanh xuất nhập
khẩu nói chung và ngành xuất khẩu mây tre nói riêng có điều kiện xâm nhập vào
thị trường mới, mở ra tiềm năng mới trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh ngành
song mây tre xuất khẩu ở Việt Nam.
3
PHẦN 1
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG SONG, MÂY, TRE TRONG NHỮNG NĂM
QUA Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU MÂY TRE BỘ THƯƠNG MẠI
1.1 Vài nét khái quát về công ty
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Vì là nghề “cha truyền con nối” nên chỉ những người con trai trong gia đình
mới được dậy bí quyết nghề nghiệp. Năm tháng trôi qua những bí quyết này được
truyền ra ngoài và ngành mây tre theo đó cũng ngày càng lan rộng. Ban đầu chỉ là
những tỉnh kế cận như Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam v.v... rồi sau
đó lan dần ra tất cả các tỉnh miền Bắc. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng,
sản xuất và chế biến hàng song mây tre không còn là độc quyền của miền Bắc
nữa. Dưới sự hướng dẫn của các nghệ nhân miền Bắc, đội ngũ nghệ nhân của các
tỉnh miền Nam và miền Trung đã phát triển nhanh chóng ngành nghề mây tre ở
các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, Sông Bé, Thành phố Hồ Chí Minh
v.v... Trước năm 1954 hàng mây tre chủ yếu được sản xuất để sử dụng ở trong
nước, từ năm 1956 hàng mây tre của Việt Nam đã được thị trường nước ngoài
biết đến. Lúc đầu hoạt động xuất khẩu còn do một bộ phận nhỏ của công ty xuất
nhập khẩu tạp phẩm đảm nhận với kim ngạch Ýt ỏi chỉ vào khoảng 200.000 Rúp
và Đôla mỗi năm. Từ năm 1960 bộ phận này được tách riêng thành phòng mây
tre trực thuộc Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, với kim ngạch tăng
dần lên 400.000 Rúp và Đôla. Đến năm 1970 đạt 700.000 Rúp và Đô la.
Trước tình hình đó tháng 4/1971, Tổng công ty xuÊt nhập khẩu mây tre (tên
giao dịch là Barotex) được thành lập với giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu số
1.16.1.032/GP.
Đến năm 1995, căn cứ quyết định số 108 TM /TCCB Tổng công ty xuất
nhập khẩu mây tre đổi tên là công ty xuất nhập khẩu mây tre (gọi tắt là Barotex).
Trải qua 27 năm với những biến đổi lớn lao của đất nước, Tổng công ty xuất
nhập khẩu mây tre đã không ngừng củng cố và phát triển.
Được tách ra từ Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, tổ chức bộ
máy lúc đầu của công ty xuất nhập khẩu mây tre còn hết sức nhỏ bé. Văn phòng
4
của công ty chỉ có 4 phòng ban và một chi nhánh giao nhận tại Hải Phòng. Cơ sở
vật chất nghèo nàn, thiếu thốn, đội ngũ cán bộ nhân viên vừa yếu lại vừa thiếu.
Với 26 cán bộ từ bộ đội chuyển ngành hoặc từ các ngành khác chuyển sang, số
cán bộ có trình độ Đại học, trình độ ngoại ngữ hiểu biết nghiệp vụ kinh doanh đối
ngoại rất Ýt.
Trong thời kỳ 5 năm đầu tiên, Tổng công ty chủ yếu tập trung vào xây dựng
cơ sở vật chất, tổ chức sản xuất, củng cố bộ máy tổ chức sản xuất. ĐÕn năm
1975 kim ngạch xuất khẩu đã tăng 2,22 lần so với năm đầu thành lập.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước đã thống nhất thì phạm vi
hoạt động của công ty đã được mở rộng hơn, tuy có nhiều thuận lợi nhưng khó
khăn cũng không Ýt. Đất nước bắt tay vào khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh,
các cơ sở sản xuất hàng mây tre xuất khẩu ở phía Nam hầu như chưa có gì. Để
nhanh chóng mở rộng ngành hàng phát triển trong toàn quốc, công ty đã lần lượt
thành lập các chi nhánh đại diện của mình ở các thành phố Hồ Chí Minh và Đà
Nẵng, để khôi phục và phát triển ngành hàng mây tre xuất khẩu ở đây. Nhờ đó,
sau một thời gian ngắn đã khai thác thêm được nguồn hàng, mặt hàng cho xuất
khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre so với năm 1971 đã tăng gấp 8 lần. So
víi 5 năm thời kỳ đầu mới thành lập, thì tổng kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre 5
năm 1976 -1980 đã tăng gấp 3,8 lần.
Kết thúc năm 1990 Tổng công ty đã thực hiện đạt 106% kế hoạch được
giao, kim ngạch xuất khẩu bằng 28 lần so với năm 1971 và tăng gấp 1,7 lần sản
phẩm với năm 1985. Trong 5 năm (1986 -1990) kim ngạch xuất khẩu đã tăng 1,5
lần so với thời kỳ 1981 -1985.
Thời kỳ 1991 - 1995. Vào đầu những năm 90 khi các nước Đông Âu và Liên
Xô cũ trong tình trạng khủng hoảng về chính trị, kinh tế, xã hội thì thị trường khu
vực 1 (là thị trường chủ yếu của Tổng công ty gồm các nước Đông Âu và Liên
Xô) giảm sút một cách đột biến thì hoạt động của Tổng công ty vẫn được giữ
vững. Một mặt Tổng công ty đã năng động, linh hoạt vận dụng các phương thức
để nâng cao uy tín và duy trì các thị trường truyền thống, mặt khác tìm cách
nghiên cứu để thâm nhập thị trường mới, cho nên thị trường nước ngoài của Tổng
công ty đã được mở rộng. Trong quan hệ quốc tế, trước đây chủ yếu là khu vực 1,
đến cuối năm 1995 Tổng công ty đã có quan hệ với hơn 200 hãng kinh doanh và
tổ chức thương gia quốc tế thuộc 45 nước khác nhau trên thế giới. Chính vì vậy,
đến cuối năm 1995 kim ngạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty đã đạt 24, 2 triệu
5
Rúp - Đôla. Trong đó xuất khẩu đạt 11,91 triệu, nhập khẩu đạt 11,29 triệu, tăng
10% so với kế hoạch mà Bộ thương mại giao cho.
Từ năm 1996 đến nay, để mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh, tăng kim
ngạch xuất nhập khẩu và đặc biệt là tạo ra công ăn việc làm cho người lao động.
Từ cuối năm 1995 công ty đã đưa vào hoạt động xí nghiệp giầy thể thao ở Gia
Lâm, tạo ra công ăn việc làm cho hơn 1.000 lao động, chủ yếu là người địa
phương. Trong khi đó cơ cấu mặt hàng xuất khẩu vẫn đảm bảo, tỷ trọng hàng
chuyên doanh, thủ công mỹ nghệ là chủ lực, ngoài ra còn mở rộng và phát triển
thêm mặt hàng nông sản xuất khẩu và một số Ýt hàng tiêu dùng. Đồng thời cũng
trong thời gian này công ty đã thí điểm mở rộng tổ chức mô hình các phòng kinh
doanh xuất nhập khẩu, củng cố các phòng chuyên doanh và trung tâm dịch vụ
xuất nhập khẩu, giảm bít bộ máy và các cán bộ làm công việc gián tiếp. Tiếp tục
thử nghiệm quy chế khoán trong kinh doanh nên đã phát huy được một số mặt
tích cực, tăng được kim ngạch xuất nhập khẩu, phát huy được tính năng động của
cán bộ công nhân viên trong toàn công ty. Cho đến hết năm 1997 kim ngạch xuất
nhập khẩu của công ty trong hai năm (1996 - 1997) đã đạt 63 triệu Rúp - USD.
Đã mở rộng phát triển xuất khẩu sang 35 thị trường và nhập khẩu từ 22 thị trường
thuộc hơn 50 quốc gia trên thế giới. Như vậy so với năm 1971, năm đầu thành lập
công ty, với năm 1997 (sau 26 năm thành lập) thì kim ngạch xuất nhập khẩu đã
tăng khoảng 30 lần, và với số cán bộ công nhân viên lúc đầu (năm 1971) là 26
người thì đến hết năm 1997 toàn công ty đã có 1.534 cán bộ công nhân viên với 4
xí nghiệp sản xuất, 3 chi nhánh và 15 phòng ban thuộc văn phòng công ty có trụ
sở chính tại 37 Lý Thường Kiệt - Hà Nội với vốn điều lệ là 24.533.000.000 đồng
trong đó:
Vốn cố định: 8.653.000.0000 đồng
Vốn lưu động: 15.880.000.000 đồng
Có tài khoản tiền Việt và Ngoại tệ tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
6
1.1.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty và chức năng nhiệm vụ của từng
bộ phận
Công ty xuất nhập khẩu mây tre là một doanh nghiệp nhà nước được phép
hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu theo quyết định thành lập số 212
của Bộ thương mại ký ngày 20 tháng 8 năm 1985.
Quyền hạn của công ty
Được quyền ký kết hợp đồng kinh tế với tất cả các tổ chức và cá nhân
trong nước và quốc tế;
Được phép mở rộng văn phòng đại diện của mình ở tất cả các nước trên
thế giới đã có thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam;
Được quyền bổ nhiệm, điều động, khen thưởng, kỷ luật cán bộ công nhân
viên trong công ty;
Tổ chức doanh nghiệp theo hình thức công ty kinh doanh hạch toán độc
lập, có con dấu công ty.
Xuất phát từ quyền hạn chức năng, nhiệm vụ và qui mô hoạt động của mình,
công ty xuất nhập khẩu mây tre đã xây dựng bộ máy quản lý của đơn vị như sau:
1.1.2.1 Ban giám đốc
Gồm có: 1 giám đốc
2 phó giám đốc
Công ty thực hiện chế độ một thủ trưởng, giám đốc có quan hệ trực tiÕp
xuống các phòng ban theo quan hệ trực tuyến hai chiều, đồng thời các phòng ban
còng quan hệ hai chiều với nhau và cũng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc.
Ngoài ra giám đốc công ty còn kiêm phụ trách chi nhánh Barotex tại thành
phố Hồ Chí Minh.
*0
Mét phó giám đốc công ty còn kiêm bí thư Đảng uỷ phụ trách xí nghiệp
mây tre Kiêu Kị - Gia lâm - Hà Nội và 2 chi nhánh Barotex Hải Phòng và Đà
Nẵng.
*1 Một phó giám đốc đặc trách công tác phụ trách xí nghiệp sản xuất giầy
thể thao
Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban và các đơn vị trực thuộc.
7
*2
Phòng tổ chức
Xây dựng và lựa chọn mô hình tổ chức lao động sao cho phù hợp với nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty với phương châm gọn nhẹ,
hiệu quả và khoa học. Thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng cán bộ,
sử dụng cán bộ đúng năng lực, đúng chuyên môn, xây dựng kế hoạch tiền lương,
tiền thưởng, lựa chọn phương thức trả lương ngoài ra còn làm công tác chính sách
xã hội.
*3
Phòng hành chính bảo vệ
Phong kế toán tài chính
*4
Phòng kế hoạch thị trường
*5
Phòng chuyên doanh 1
*6
Phòng chuyên doanh 2
*7
Phòng chuyên doanh 3
*8
Các phòng tổng hợp 1,2,3,4
*9
Ban kiến thiết cơ bản
*10
Trung tâm dịch vụ du lịch và kinh doanh xuất nhập khẩu
*11
Chi nhánh Barotex TP Hồ Chí Minh
*12
Chi nhánh Barotex Đà Nẵng
*13
Chi nhánh Barotex Hải Phòng
*14
Xí nghiệp mây tre xuất khẩu Kiêu Kị
*15
Xí nghiệp giầy thể thao xuất khẩu
1.2. Những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và chế biến hàng song
mây tre trong những năm qua
Để thấy được tình hình xuất khẩu hàng song mây tre trong những năm qua
và triển vọng xuất khẩu trong những năm tới, chúng ta phải đi sâu tìm hiểu những
thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và chế biến hàng song mây tre. Để tạo ra
hàng hoá xuất khẩu phải trải qua quá trình chế biến và sản xuất hàng hoá. Đây là
quá trình quan trọng trong hoạt động xuất khẩu vì giá cả và chất lượng hàng hoá
do sản xuất và chế biến quyết định. Sản xuất và chế biến hàng song mây tre ở
nước ta từ trước đến nay vẫn mang tính chất thủ công, làm bằng tay là chính.
1.2.1 Những thuận lợi và khó khăn
8
1.2.1.1 Thuận lợi
Ngoài những chính sách lớn của Đảng và nhà nước ưu tiên khuyến khích sản
xuất hàng xuất khẩu (nhất là những ngành hàng sản xuất từ nguyên liệu trong
nước như song mây tre, nứa lá ... ) như chính sách thuế, cho vay ưu đãi, ... thì
trong sản xuất và chế biến hàng song mây tre có một số thuận lợi sau:
*16
Về lao động
Nước ta là nước nông nghiệp, mới bắt đầu phát triển công nghiệp nhẹ, công
nghiệp chế biến nên người lao động còn dư thừa nhiều ở các vùng nông thôn.
Người lao động Việt Nam vốn cần cù khéo léo và sáng tạo, đấy là những đặc
điểm rất phù hợp với nghề thủ công. Ngoài ra nước ta còn có nhiều làng nghề,
vùng nghề sản xuất chế biến hàng song mây tre có truyền thống lâu đời, có nhiều
nghệ nhân, thợ lành nghề có nhiệt huyết với nghề.
*17
Về nguyên liệu
Nguyên liệu để sản xuất chế biến hàng song mây tre có hầu hết ở các địa
phương trong cả nước. Từ Bắc đến Nam, từ Đông sang Tây, từ miền xuôi đến
miền ngược. Đây là một điều kiện rất thuận lợi để phát triển hàng song mây tre ở
khắp mọi miền đất nước.
Về công cụ sản xuất
Công cụ dùng trong sản xuất chế biến hàng song mây tre hiện nay ở nước ta
hầu hết là dụng cụ cầm tay, đơn giản dễ chế tạo, rẻ tiền. Ở đâu cũng có thể tự sản
xuất, chế tạo lấy được.
*18
Về khí hậu
Nước ta ở vào vùng khí hậu nhiệt đới nóng Èm, mùa hè có nắng nhiều, mùa
rét khí hậu khô hanh nên cũng là một thuận lợi trong khai thác và chế biến hàng
song, mây, tre.
Ngoài những thuận lợi chính đã nêu ở trên, trong sản xuất và chế biến hàng
song, mây, tre không cần vốn đầu tư lớn, diện tích dùng để sản xuất chế biến
không cần rộng, không cần nhà xưởng lớn. Có thể sản xuất chế biến song mây tre
ngay trong từng gia đình và có thể tận dụng cả thời gian nhàn rỗi, nghỉ ngơi giải
trí để sản xuất ra sản phẩm.
1.2.1.2 Khó khăn
9
Ngoài những thuận lợi vừa kể trên, trong sản xuất chế biến hàng song mây
tre còn gặp nhiều khó khăn nữa như: Đội ngũ lao động của nước ta ở các vùng
nghề nhiều nhưng chưa tinh thông, năng lực sáng tạo còn hạn chế, chưa được đào
tạo cơ bản, chưa được đầu tư thích đáng về khoa học kỹ thuật, về công nghệ tiên
tiến cho sản xuất chế biến hàng song mây tre. Trong khai thác chế biến còn dùng
công cụ thô sơ, vì vậy dẫn đến năng suất rất thấp, chất lượng không cao. Ngoài ra
khí hậu nhiệt đới ở nước ta, một mặt cũng gây không Ýt khó khăn cho việc sản
xuất chế biến hàng song mây tre nhất là vào mùa xuân, độ Èm không khí rất cao
làm cho công tác bảo quản rất khó khăn, sản phẩm dễ bị mốc ải biến mầu nếu như
không có phương pháp và hình thức bảo quản thích hợp.
1.2.2 Tiềm năng nguyên liệu và tình hình sản xuất hàng song mây tre
1.2.2.1 Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng song mây tre trên thế giới
Một điều dễ nhận thấy là không phải nước nào, vùng nào trên thế giới cũng
có được cây song, mây, tre và cũng không phải bất cứ nước nào, quốc gia nào có
loại cây này đều có ngành song mây tre phát triển.
*19
Tình hình cung trên thị trường mây tre trên thế giới
Trong nửa đầu thập niên 90, tình hình cung hàng mây tre trên thế giới hầu
như không có biến động gì đáng kể. So với những năm 80, lượng cung trung bình
những năm gần đây tăng lên rất chậm, hàng năm chỉ tăng trung bình vào khoảng
0,23%/ năm. Trong khi đó chỉ tiêu này của những năm 80 đạt tới 3% / năm. Ta có
thể thấy rõ điều này qua bảng 1.
Song điều chú ý về cung hàng mây tre trên thế giới là cơ cấu của các nước
xuất khẩu mây tre nguyên liệu so với các nước xuất khẩu mây tre thành phẩm
hoặc bán thành phẩm đang có thay đổi. Inđônêxia trước kia phần lớn là xuất khẩu
song mây nguyên liệu cho Hông Công, Đài Loan, Trung Quốc ... Các nước này
nhập khẩu nguyên liệu rồi tổ chức sản xuất ra thành phẩm như chiếu mây, bàn
ghế ... rồi lại xuất khẩu sang các nước khác. Nhưng hiện nay Iđônêxia và một số
nước khác đang có chính sách cấm xuất khẩu song, mây, tre dưới dạng nguyên
liệu. Dự đoán trong tương lai, các nước trước kia xuất khẩu nguyên liệu sẽ
chuyển sang xuất khẩu thành phẩm và bán thành phẩm để cung cấp cho thị trường
thế giới. Một đặc điểm nữa là cung hàng mây tre là lượng cung ra thị trường luôn
phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu của các nước xuất khẩu, chủ yếu là các nước châu
Á.
10
Bảng 1 Kim ngạch trao đổi hàng năm trên thế giới giai đoạn 1985 - 1995
Năm
Tổng kim ngạch trao đổi của thế giới
(1.000 USD)
Tỷ lệ tăng so với năm trước
đó (%)
1985
20.30
3.223
1986
20.810.803
2,5
1987
21.372.694
2,7
1988
22.056.620
3,2
1989
22.828.601
3,5
1990
22.874.258
0,2
1991
22.920.006
0.2
1992
22.965.846
0,2
1993
23.020.964
0,24
1994
23.087.724
0,29
1995
23.173.148
0.37
Trên thế giới, buôn bán đồ dùng gia đình bằng song, mây, tre tăng từ 13,58
tỷ USD (năm 1990) lên 15,2 tỷ USD (năm 1995). Nước cung cấp khối lượng đồ
dùng gia đình bằng song, mây, tre lớn trên thế giới hiện nay là Inđônêxia,
Philipin, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Công.
*20
Tình hình cầu hàng mây tre trên thế giới
Điểm qua kim ngạch trao đổi trên thị trường mây tre thế giới những năm gần
đây (Bảng 1) ta sẽ thấy rõ điều đó.
Ngoài mức tăng về số lượng, nhu cầu về hàng song, mây, tre cũng rất đa
dạng, các sản phẩm có kiểu cách đơn điệu vẫn ở dạng thô như hiện nay không
được người tiêu dùng ưa chuộng. Sở thích của họ là gọn nhẹ, bền, đẹp và tiện lợi
trong sử dụng.
Dự báo trong thời gian tới, những sản phẩm có độ tiện lợi cao sẽ có nhu cầu
cao nhất. Đó là những sản phẩm: Đồ đạc nội thất trong nhà như giường, tủ, bàn
ghế, v.v ... Được sản xuất theo từng bộ với các bộ phận tách rời mà người tiêu
dùng có thể tự lắp ráp lấy. Trên thế giới buôn bán đồ dùng gia đình đã chiếm 75 -
11
80 % tổng lượng buôn bán hàng mây tre. Năm 1995, lượng này tăng lên 15,2 tỷ
USD, tức là tăng 12% so với con sè 13,58 tỷ USD của năm 1994.
*21
Các nước xuất khẩu hàng mây tre chính trên thế giới
Trên thế giới các nước xuất khẩu hàng song, mây, tre tập trung hầu hết ở
châu Á, trong đó có 1 số các quốc gia đáng chú ý như: Inđonêxia, Malayxia,
Singapo, Philipin, Ên Độ, Trung Quốc ... Giữa các nước này tỷ lệ thị trường
chiếm giữ là khá đồng đều. Dưới đây là kim ngạch xuất khẩu hàng song, mây, tre
ở một số nước trên thế giới, xếp theo thứ tự từ các nước xuất khẩu nhiều đến các
nước xuất khẩu Ýt (bảng 2).
Bảng 2 Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng song, mây, tre trên thế giới (từ
1997 - 2000) , đơn vị 1.000 USD*
TT
Nước xuất
khẩu
1997
1998
1999
2000
1
2
Inđônêxia
Malasia
3.890.543
3.578.597
Kim ngạch Tỷ trọng
3.901.825 3.916.263 3.928.216
16,09
3.591.838 3.601.574
15,48
3
4
5
6
3.568.254
Thái Lan
Philipine
Ên Độ
Trung Quốc
2.923.662
2.647.410
2.371.159
2.302.096
2.932.140
2.655.093
2.378.035
2.308.772
2.942.989
2.664.911
2.386.833
2.317.318
2.954.232
2.676.942
2.390.756
10,00
12,70
11,51
10,28
1.657.509
1.473.341
1.289.173
22.497
1.662.315
1.477.614
1.292.912
25.163
2.326.536
1.668.467
1.493.080
1.297.695
33.722
1.672.861
1.488.282
1.301.216
39.876
7,19
6,40
5,59
0,17
900.421
903.754
873.760
3,75
23.020.964
23.087.724
23.173.148
23.254.253
7
8
9
1
0
1
1
Đài Loan
Singapo
Hồng Công
Việt Nam
Các
khác
nước
897.817
1
2
*
Tổng
Theo tµi liÖu vÒ hµng m©y tre cña Philipine
100%
12
Từ bảng trên ta thấy có thể rót ra hai nhận xét:
Thứ nhất : Tỷ lệ % kim ngạch của mỗi nước so với tổng kim ngạch xuất
khẩu của toàn thế giới trong 5 năm qua gần như không đổi.
Thứ hai: Kim ngạch xuất khẩu của mỗi nước tăng lên rất đÒu đặn, không
hề có sự tăng giảm đột biến nào. Điều này chứng tỏ là cung mặt hàng này trên thế
giới là rất ổn định.
Tuy khá đồng đều về lượng kim ngạch, nhưng mỗi nước lại có đặc điểm
riêng về nhóm hàng xuất khẩu của mình.
Inđônêxia là nước có nguồn nguyên liệu dồi dào nhất, do đó lượng kim
ngạch thu về chủ yếu là từ xuất khẩu nguyên liệu.
Malaysia có giai đoạn phát triển của ngành công nghiệp chế biến song,
mây, tre cũng tương tự như Inđônêxia chủ yếu đi lên từ xuất khẩu nguyên liệu và
bán thành phẩm.
Thái Lan chủ yếu là xuất khẩu hàng mây tre dưới dạng dụng cụ gia đình.
Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Thái lan tăng rất nhanh chóng. Từ 1 tỷ
103 triệu USD năm 1991 lên đến 1 tỷ 573 triệu USD năm 1995 (tức là tăng
42,6%). Có thể nói ngành xuất khẩu đồ đạc bằng mây tre của nước này đầy triển
vọng.
Theo trung tâm thông tin về song mây (RIC) đặt tại Malaysia thì hàng năm
Philippine có thể khai thác được khoảng 40 - 57 triệu mét song mây, với khối
lượng từ 7.000 đến 10 nghìn tấn. Tuy trữ lượng này không nhiều lắm nhưng nước
này lại có công nghệ chế biến tiến bộ. Xuất khẩu dụng cụ gia đình của Philippine
tăng từ 925 triệu USD năm 1991 lên 1 tỷ 25 triệu USD năm 1995 (tức là tăng
32,4%).
Ên Độ và Trung Quốc là 2 nước chủ yếu xuất khẩu bán thành phẩm và
thành phẩm.
Còn Đài Loan và Hồng Công chuyên nhập khẩu nguyên liệu (thường nhập
của Inđônêxia) để đem về công nghiệp trong nước thành sản phẩm hoàn thiện
xuất đi các nước khác.
2.2.2.2 Tiềm năng nguyên liệu và tinh hình sản xuất hàng song, mây, tre ở Việt
Nam
13
*22
Tiềm năng nguyên liệu
Như chóng ta đã biết: Cây song, mây là loại cây leo được phát triển tự nhiên
ở những khu rừng nhiệt đới có mưa nhiều. Do đó với ưu thế về rừng chiếm 40%
diện tích toàn lãnh thổ, đã tạo cho Việt Nam có một trữ lượng đáng kể về các loại
cây. Song, mây, tre, nứa, mai, v.v... Được bắt đầu từ các tỉnh phía Bắc trải dài
dọc Trường Sơn, chạy vào phía nam. Đâu đâu người ta cũng có thể tìm thấy cây
song, mây, tre.
Ở Việt Nam có đủ 5 dòng họ song mây, trong đó có tới 145 loại, chủ yếu là
giống song mây calamus, hasces ... mà chúng ta quen gọi là song hèo, song bét,
song đá, song cát, mây nước, mây rút... Nguồn nguyên liệu này được tập trung
nhiều ở các tỉnh Lai Châu, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Nghệ An, Thanh
Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam- Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hoà, Tây
Nguyên... ngoài ra còn một số khu vực trồng vườn như Hưng Yên, Thái Bình.
Tình hình sản xuất và chế biến hàng mây tre xuất khẩu ở Việt Nam
Bảng.3 Kim ngạch xuất khẩu hàng song, mây, tre của cả nước
Đơn vị tính: 1.000 USD
Năm
1997
1998
1999
2000
Tổng
Tổng kim ngạch 22.823 22.497 25.163 33.722 128.843
1.3 Thực tế xuất khẩu hàng song, mây, tre của Barotex
1.3.1.Thị trường xuất khẩu của Barotex
14
Bảng 4 Kim ngạch xuất khẩu của Barotex*
(Đơn vị: triệu Rúp)
Nước
1986
1987
1988
1989
1990
Liên Xô cũ
16,4
22
24,9
33,6
27,5
Ba Lan
3,8
2,9
3,8
8,0
5,0
Bulgaria
0,3
0,4
0,1
0,3
0,2
Cu ba
4,1
3,0
3,8
2,6
2,7
CHDC Đức
1,5
1,0
0,4
1,1
1,0
Hung ga ri
1,1
0,7
0,6
0,3
0,3
Rumania
0,4
0,2
0,8
0,7
Tiệp Khắc
0,8
0,6
1,2
2,5
1,3
Tổng cộng
28,4
30,6
36,0
49,2
38,7
Bảng 5. Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre từ năm 1991 đến 1995
(Đơn vị: triệu USD)
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
*
Kim ngạch xuất khẩu hàng song, mây, tre
1,9
2,2
2,4
2,8
7,1
9,5
6,67
Nguån: Tµi liÖu B¸o c¸o tæng kÕt 5 n¨m (86 - 90) cña Barotex
Số thị trường xuất khẩu
21 nước
25 25 26 38 52
54
15
Hình 1. Sơ đồ biểu diễn kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre của Barotex vào một
số nước châu Á năm 1995, đơn vị tính USD
NhËt B¶n
1.500.000
Singapo
§µi Loan
1.000.000
Hµn Quèc
500.000
Malaysia
Hång C«ng
Bảng 6. Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo loại hàng của Barotex vào Nhật
Bản (từ 1993 - 1995)*
Loại
Song mây nguyên liệu
Mặt mây
Mành các loại
Hàng mây tre đan
Tổng sè
*
Tµi liÖu vÒ thÞ trêng cña c«ng ty
1993
500.575
69.800
92.100
215.321
877.796
1994
715.233
82.115
105.829
251.612
1.154.789
1995
897.556
96.527
120.537
308.856
1.423.476
1996
972.836
130.216
165.312
1.277.101
2.545.465
1997
989.401
125.763
150.000
456.312
1.721.476
16
Hinh 2. Sơ đồ biểu diễn kim ngạch xuất khẩu của Barotex vào một số nước
ở khu vực Tây Băc  u năm 1995*
1.200.000
T©y Ban Nha
Hµ Lan
1.000.000
Italia
800.000
600.000
Ph¸p
400.000
Thuþ §iÓn
200.000
§øc
Châu Phi tuy là thị trường rất khó xâm nhập nhưng công ty cũng đang đầu tư
tìm hiểu để không để lỡ những cơ hội có thể có.
Sang năm 1996, công ty vẫn đầu tư và duy trì phát triển các mặt hàng
chuyên doanh song, mây, tre xuất khẩu, cố gắng khai thác thương nhân, thị
trường để phát triển mặt hàng mới. Đặc biệt là ở hai khu vực châu Á Thái bình
dương và Tây bắc Âu, đồng thời vẫn duy trì phát triển các thị trường khác. Kết
quả công ty đã phát triển thêm được nhiều thương nhân, ký thêm được nhiều hợp
đồng xuất khẩu hàng mây tre, tăng được kim ngạch xuÊt khẩu, đảm bảo cho công
ty hoàn thành kế hoạch năm 1996 và còn kim ngạch gối đầu cho sản xuất và kinh
doanh năm 1997. Trong đó ở một số thị trường chính như:
Thị trường Nhật tăng 9% so với năm 1995.
Thị trường Hàn Quốc tăng 4% so với năm 1995.
Thị trường Italia tăng 40% so với năm 1995.
*
Theo tµi liÖu vÒ thÞ trêng cña c«ng ty
17
Thị trường Tây Ban Nha tăng 22% so với năm 1995.
Thị trường Hà Lan tăng 25% so với năm 1995.
Bảng 7. Kết quả kim ngạch xuất khẩu mây tre 2 năm (1995-1996) của công
ty Barotex (Đơn vị 1.000USD)
Mặt
Hàng
Song,
mây
và tre
Công
ty
7.134
Năm 1995
Bắc
Trung
3.034
719
Nam
3.381
Công
ty
9.500
Năm 1996
Băc Trung
4.900
1.900
Nam
2.700
Bảng 8. Kim ngạch xuất khẩu song, mây, tre năm 1997 của công ty
Barotex. (Đơn vị tính 1000 USD)
Năm
1996
1997
Kim ngạch xuất khẩu song, mây, tre
9.500
6.665
Bảng 9. Kim ngạch xuất khẩu song, mây, tre năm 1997 của công ty Barotex
sang một số thị trường chính (Đơn vị tính 1000 USD).
Thị trường
Nhật
Tây Ban Nha
Năm 1996
Kim ngạch
Tỷ trọng
2.545
26,79
1.025
10,79
Năm 1997
Kim ngạch
Tỷ trọng
1.721
25,82
1.111
16,66
Ý
1.237
13,02
698
10,47
Hà Lan
300
3,15
200
3,0
Thuỵ Điển
407
4,28
201
3,01
Pháp
242
2,54
168
2,52
Singapo
241
2,53
90
1,35
Hàn Quốc
594
6,25
113
1,69
Đài Loan
147
1,54
113
1,69
Các nước khác
2.762
29,07
2.250
33,75
Tổng cộng
9.500
100
6.665
100
1.3.2 Hiệu quả xuất khẩu hàng song, mây, tre của công ty Barotex.
Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về một số mã hàng song, mây, tre mà công
ty Barotex đang xuất.
18
Thí dô 1: Xuất nguyên liệu song sơ chế.
Theo số liệu tính toán của phòng chuyên doanh 2 thì chi phí cho việc xuất
khẩu 1 tấn song luộc dầu như sau:
Chi phí nguyên liệu
Chi phí nhiên liệu
Chi phí bao bì
Chi phí nhân công
Chi phí vận chuyển - lưu kho
Các chi phí khác
Giá thành xuất khẩu
Giá bán FOB là
Thí dô 2: Xuất khẩu bàn ghế song mây
3.400.000 đ.
505.000 đ
100.000 đ
225.000 đ
500.000 đ
287.000 đ
5.017.000 đ
550 USD/1tấn
Theo số liệu tính toán của xí nghiệp sản xuất mây tre Kiêu Kỵ- Gia Lâm- Hà
Nội thì xuất khẩu một bộ bàn ghế mã 51020 gồm : một bàn chính, 2 bàn phụ, 2
ghế đi văng thì toàn bộ chi phí sẽ là:
Chi phí nguyên liệu song mây các loại
Chi phí nguyên liệu sợi mây vỏ
Chi phí nguyên liệu ruột mây
Chi phí nguyên liệu đinh, vít các loại
Chi phí nguyên liệu xăng
Chi phí nguyên liệu dầu bóng
Chi phí nguyên liệu giấy nháp
Chi phí nguyên liệu bao bì
Các chi phí khác
Giá thành xuất khẩu
Giá bán FOB
Vậy chi phí để có 1 USD là:
1.017.0
360.000 đ
168.000 đ
60.000 đ
9.000 đ
20.000 đ
100.000 đ
10.000 đ
30.000 đ
260.000 đ
1.017.000 đ
110 USD/bộ
đ : 110 USD = 9.245 đ
Giá bán 1 USD trên thị trường Việt Nam cuối năm 1997 là 11.500 đ/1USD
Vậy 11.500 đ - 9.245 đ = 2.255 đ
Như vậy cứ xuất khẩu một bộ bàn ghế song mây với giá 110 USD thì được
lãi là: 2.255 đ x 110 USD = 248.050 đ
Như vậy tỷ lệ lãi sẽ là: 24%.
19
Thí dô 3: Xuất khẩu hàng mây đan (đĩa mây) mã KK-129. Theo số liệu tính
toán của xí nghiệp sản xuất mây tre Kiêu Kỵ- Gia Lâm - Hà Nội thì khi xuất mà
KK-129 thì toàn bộ chi phí sẽ gồm:
Chi phí mua nguyên liệu
3.500 đ
Chi phí lao động
3.000 đ
Chi phí bao bì
2.000 đ
Chi phí kho bãi, vận chuyển
1.500 đ
Chi phí khác
1.700 đ
Giá thành xuất khẩu
11.700 đ
Giá bán FOB
1,2 USD/chiếc
Chi phí để có 1 USD: 11.700 đ : 1,2 USD = 9.750
Giá bán 1 USD trên thị trường Hà Nội cuối năm 1997 là 11.500 đ/1USD.
Vậy: 11.500đ - 9.750 đ = 1.750 đ
Khi xuất khẩu một mã hàng mây đan với giá 1USD thì người xuất khẩu được
lãi: 1.750 x 1,2 = 2.100 đ
Như vậy tỷ lệ lãi sẽ là: 18%.
20
PHẦN 2
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG
SONG, MÂY, TRE CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU MÂY TRE BỘ
THƯƠNG MẠI
2.1 Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng song, mây,
tre của công ty xuất nhập khẩu mây tre Bộ Thương Mại
Qua công tác nghiên cứu khảo sát, công ty đã chủ động sử dụng tất cả các
hình thức để thực hiện mục tiêu tìm kiếm thị trường như:
Tăng cường cử các đoàn ra nước ngoài (kể cả những người trực tiếp sản
xuất ở các địa phương cũng được đi cùng với các đoàn công ty) để trực tiếp
quảng cáo, giới thiệu hướng dẫn và tìm hiểu thị hiếu khách hàng nước ngoài.
Chủ động mời, tiếp xúc và lôi kéo khách hàng nước ngoài vào Việt Nam,
tạo điều kiện cho khách hàng tiếp xúc với các cơ sở sản xuất để khách hàng có
điều kiện cơ sở để quyết định nhanh việc ký kết hợp đồng.
Tích cực tham gia hội chợ triển lãm trong nước và nước ngoài.
Tăng cường cải tiến sáng tác đa dạng hoá đề tài, mẫu mã mới và sử dụng
nhiều hình thức tuyên truyền quảng cáo bằng catalogue, lịch, tờ bướm...
Gửi đơn chào hàng tới tất cả các khách hàng mới thông qua các đại diện ở
các cơ quan thương vụ của ta ở nước ngoài, đồng thời tổ chức các hội nghị khách
hàng thông qua các thương vụ, các văn phòng đại diện của các nước khác tại Việt
Nam vào các dịp Noel, tết dương lịch v.v...
Dưới đây là các biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng song, mây,
tre ở công ty trong năm nay và những năm tiếp theo.
2.1.1 Phân loại thị trường xuất khẩu để có biện pháp ứng xử cho phù
hợp
Hiện nay trong chiến lược thị trường, công ty xuất nhập khẩu mây
tre Bộ thương mại phân thị trường tiêu thụ hàng song, mây, tre thành các nhóm:
- Xem thêm -