Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tình hình thực trạng kinh doanh của công ty cổ phần thương mại minh khai...

Tài liệu Tình hình thực trạng kinh doanh của công ty cổ phần thương mại minh khai

.DOC
73
20
75

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam. Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người, là ngành giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội và đặc biệt nó là ngành có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của đất nước. Trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá hiện nay, ngành Dệt may đang chứng tỏ là một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trong mấy năm gần đây, các thị trường luôn được rộng mở,số lao động trong ngành ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp, giá trị đóng góp của ngành vào thu nhập quốc dân…. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành dệt may Việt Nam đã và đang gặp những vấn đề cần khắc phục như chất lượng tăng trưởng của ngành thấp, vốn đầu tư xây dựng không hiệu quả, mất cân đối giữa hai ngành Dệt và May…Trở ngại lớn đối với sự phát triển của ngành Dệt May hiện nay là tỷ lệ nội địa hóa còn rất thấp, sự phụ thuộc rất lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Điều đó là do ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành DMVN chưa phát triển tương xứng với sự phát triển của ngành dệt may để đáp ứng nhu cầu của ngành dệt may trong nước. Những tồn tại và hạn chế của ngành CNHT đã làm cho ngành DMVN chưa phát triển một cách tương xứng so với tiểm năng thực sự của ngành. Trong khi đó, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2020 là trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới; từng bước đưa ngành Dệt May thoát khỏi tình trạng gia công sản xuất. Do đó, để đạt được mục tiêu đã định, thì việc nghiên cứu thực trạng của ngành công nghiệp hỗ trợ ngành Dệt May Việt sẽ đóng góp một vai trò quan trọng. Nó phù hợp với yêu cầu thực tế của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như yêu cầu của sự phát triển ngành dệt may. Từ yêu cầu thực tế đó và mục đích tìm hiểu những vấn đề lớn liên quan đến ngành CNHT ngành DMVN trong giai đoạn hiện nay và thử tìm một số giải pháp để khắc phục những vấn đề đó, sau quá trình thực tập tại Vụ Công Nghiệp, thuộc Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, em đã quyết định lựa chọn đề tài “ Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020” Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào thực tiễn ngành công nghiệp hỗ trợ ngànhdệt may Việt Nam qua đó xem xét thực trạng phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam, những tồn tại, hạn chế của ngành. Từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020. Đây là kết quả của quá trình thực tập và nghiên cứu với việc áp dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê mô tả, phương pháp hệ thống hoá và phương pháp suy luận logic. Trên cơ sở mục đích, phạm vi và phương pháp nghiên cứu, nội dung của đề tài nghiên cứu được chia là ba chương, cụ thể như sau: Chương I: Một số lý luận về công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Chương II: Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam Chương III: Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020 Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS- TS Nguyễn Ngọc Sơn đã giúp tôi hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HỔ TRỢ NGÀNH DỆT MAY 1.1. Khái niệm chung về công nghiệp hỗ trợ 1.1.1. Khái niệm chung. Công nghiệp hỗ trợ (supporting industry) là một khái niệm khá mới đối với Viêt Nam. Gần đây khái niệm công nghiệp hỗ trợ đã bắt đầu được đề cập đến ngày càng nhiều với cách nhìn nhận ngày càng rõ hơn tầm quan trọng của nó trong sự phát triển của ngành công nghiệp của đất nước. “ Công nghiệp hỗ trợ” là một từ tiếng Anh – Nhật được các doanh nghiệp Nhật sử dụng từ lâu trước khi trở thành thuật ngữ chính thức. thuật ngữ này trở nên thông dụng ở Nhật vào khoảng giữa những năm 1980. Và được chính thức sử dụng ở Việt Nam từ năm 2003 bắt đầu từ khi Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn I ( 2003 – 2005) đề xuất việc soạn thảo quy hoạch tổn thể về phát triển công nghiệp hỗ trợ như là một biện pháp cấp bách để xúc tiến đầu tư nước ngoài. Hiểu theo nghĩa rộng thì CNHT là toàn bộ các ngành công nghiệp cung cấp đầu vào cho sản phẩm. Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, công nghiệp hỗ trợ là ngành công nghiệp sản xuất những sản phẩm trung gian, các linh kiện, phụ tung và công cụ có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất một loại sản phẩm cuối cùng nhất định. Tuỳ từng loại sản phẩm cụ thể cần sản xuất, những sản phẩm trung gian có thể bao gồm nguyên liệu, vật liệu, linh kiện, phụ tùng, các bộ phận chi tiết lẻ, phụ liệu, bao bì, nhãn mác, thuốc nhuộm, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế,… Nếu kể các sản phẩm tương tự thì phạm vi sẽ rất rộng nhưng nếu thêm một đặc tính nữa sẽ thấy phạm vi rõ ràng hơn: Sản phẩm CNHT thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các DN nhỏ và vừa. Những sản phẩm trung gian là một loại yếu tố “đầu vào” của quá trình sản xuất công nghiệp. Do tính phức tạp của mối liên hệ sản xuất giữa các ngành công nghiệp, việc xác định loại hình CNHT của một ngành nào đó cũng chỉ mang tính chất tương đối. Mỗi ngành công nghiệp đều phát triển theo chuỗi giá trị riêng biệt, song đều có một điểm chung là được hình thành từ sự liên kết giữa 2 khu vực: khu vực thượng nguồn (upstream) và khu vực hạ nguồn (downstream). Trong đó, khu vực thượng nguồn thường được gọi là CNHT, làm nền tảng cơ sở để phát triển khu vực hạ nguồn. Ngược lại, khu vực hạ nguồn là ngành công nghiệp chính, chỉ có thể phát triển khi khu vực thượng nguồn phát triển, và khi khu vực hạ nguồn đã phát triển sẽ tạo “động lực” thúc đẩy phát triển khu vực thượng nguồn. 1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp hỗ trợ. Việc phát triển CNHT là một vấn đề rất phức tạp trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia. Với các nước đang trong quá trình công nghiệp hoá, khi các nguồn lực còn hẹp, qui mô các ngành kinh tế còn nhỏ bé, việc giải quyết bài toán quan hệ giữa phát triển CNHT và khu vực hạ nguồn lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Do đó, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển CNHT sẽ tạo lập luận cứ khoa học nhằm lựa chọn chiến lược phát triển công nghiệp thích hợp, cụ thể: - Một là, thị trường của khu vực hạ nguồn: Khả năng đảm bảo sự tương thích giữa qui mô của các ngành hỗ trợ và khu vực hạ nguồn phải đủ lớn để tạo ra thị trường ổn định phát triển có hiệu quả các ngành hỗ trợ. Nếu khu vực hạ nguồn có qui mô nhỏ, sản xuất những sản phẩm có chủng loại đa dạng và sản lượng không lớn thì khối lượng sản xuất của các ngành hỗ trợ cũng sẽ nhỏ, do đó, giá thành chế tạo sẽ tăng cao. Điều này sẽ vấp phải sự từ chối của chính khu vực hạ nguồn trong nước và gặp khó khăn khi muốn xuất khẩu sản phẩm hỗ trợ ra nước ngoài. Thêm vào đó, cần chú trọng đến khả năng đảm bảo yêu cầu về chủng loại, chất lượng và thời hạn cung ứng các sản phẩm hỗ trợ cho các ngành hạ nguồn vì thông thường, yêu cầu của các DN ở khu vực hạ nguồn rất khắt khe do họ phải đảm bảo những cam kết với khách hàng, đặc biệt là những đơn hàng xuất khẩu. - Hai là, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ: Đây là nhân tố quan trọng không chỉ đối với các ngành công nghiệp nói chung mà còn cả với CNHT nói riêng do tính chất thường xuyên thay đổi để thích ứng với xu hướng phát triển của thế giới. Vì thế, một mặt, việc áp dụng thành tựu mới của khoa học và công nghệ trong các ngành hỗ trợ ảnh hưởng có tính chất “dẫn dắt” sự phát triển khu vực hạ nguồn nhờ tạo ra những chi tiết, bộ phận hoặc vật liệu mới, góp phần tạo ra sự thay đổi căn bản trong thiết kế và chế tạo sản phẩm ở khu vực hạ nguồn; mặt khác, việc thiết kế và chế tạo các sản phẩm mới ở khu vực hạ nguồn yêu cầu CNHT phải nghiên cứu và chế tạo những vật liệu, phụ liệu, bộ phận hay chi tiết sản phẩm phù hợp. Sự phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử cho phép “làm các bên có cung và có cầu gần lại với nhau” và giảm thời gian giao dịch giữa họ. Điều đó cho phép mở rộng không gian tổ chức quan hệ giữa khu vực hỗ trợ và khu vực hạ nguồn. - Ba là, nguồn lực tài chính. Việc giải quyết mối quan hệ giữa CNHT và khu vực hạ nguồn cũng chính là việc giải quyết mối quan hệ liên ngành công nghiệp. Đầu tư vào các ngành hỗ trợ bất lợi hơn so với đầu tư vào khu vực hạ nguồn do khối lượng vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp, thời hạn đầu tư và hoàn vốn đầu tư dài, độ rủi ro trong đầu tư cao. Từ đó cho thấy việc cân đối nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển công nghiệp và chính sách huy động các nguồn lực ấy có vai trò hết sức to lớn trong việc bảo đảm các ngành CNHT phát triển có hiệu quả và bền vững. Bên cạnh đó, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một vấn đề quan trọng đòi hỏi phải được xem xét một cách toàn diện để thấy được vai tr ̣ cũng như tác động của nó đến sự phát triển của ngành CNHT. Mối liên hệ giữa FDI và CNHT có thể chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Trước khi có FDI, nhiều công ty trong nước đã sản xuất sản phẩm và CNHT cung cấp cho các công ty lắp ráp, gia công sản xuất sản phẩm chính cho thị trường nội địa. Khi có FDI, một bộ phận những công ty sản xuất CNHT sẽ phát triển mạnh hơn nếu đựơc tham gia vào mạng lưới chuyển giao công nghệ của các DN FDI. Sự liên kết này không phải tự nhiên hình thành mà các công ty CNHT phải tỏ ra có tiềm năng cung ứng linh kiện, nguyên phụ liệu với chất lượng và giá thành cạnh tranh được với hàng nhập. Giai đoạn 2: Đồng thời với sự gia tăng của FDI, nhiều DN trong nước ra đời trong các ngành CNHT chủ yếu để phục vụ cho hoạt động của ngành công nghiệp chính thông qua các DN FDI. Những DN này sớm hình thành sự liên kết với DN FDI để được chuyển giao công nghệ và sẽ phát triển một cách nhanh chóng. Giai đoạn 3: Sau một thời gian hoạt động của DN FDI với qui mô sản xuất ngày càng mở rộng, tạo ra thị trường ngày lớn cho CNHT, nhiều công ty vừa và nhỏ ở nước ngoài sẽ đến đầu tư. Như vậy, mối liên hệ giữa CNHT và FDI có thể được hiểu: chừng nào các công ty nước ngoài không thấy Chính phủ đưa ra các chính sách cụ thể và dài hạn để phát triển CNHT theo hướng giai đoạn 1 và 2 cũng như không tạo điều kiện môi trường kinh doanh ổn định như giai đoạn 3 thì môi trường thu hút FDI ở nước đó sẽ không được đánh giá cao. Bốn là, mức độ bảo hộ thực tế. Mức độ bảo hộ thực tế là tỷ lệ % giữa thuế quan danh nghĩa với phần giá trị gia tăng nội địa. Chính tỷ lệ này sẽ nâng cao thêm giá của một đơn vị sản phẩm cuối cùng. Tỷ lệ này nói lên mức bảo hộ thực tế cao hay thấp cho các ngành sản xuất trong nước. - Năm là, các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các tập đoàn xuyên quốc gia. Việc bảo đảm quan hệ giữa khu vực hỗ trợ và khu vực hạ nguồn không thể chỉ bó hẹp trong phạm vi từng quốc gia, mà cần được thực hiện trong phạm vi khu vực và toàn cầu. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải cân nhắc thận trọng việc quyết định mức độ đầu tư vào khu vực CNHT trong nước. Khuynh hướng cần tránh là đầu tư khép kín theo kiểu khu vực hạ nguồn cần gì thì đầu tư phát triển khu vực hỗ trợ sản xuất cái đó. Trong phát triển kinh tế thế giới hiện nay, các tập đoàn xuyên quốc gia có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế quốc tế. Với nguồn lực to lớn về tài chính, khoa học và công nghệ, các tập đoàn này có mạng lưới sản xuất và phân phối rộng rãi với chiến lược phát triển và thương hiệu thống nhất, các bộ phận trong mạng lưới đó được chuyên môn hoá hợp lý nhằm khai thác lợi thế ở mỗi quốc gia và mỗi khu vực, có những chi nhánh chuyên sản xuất một số loại chi tiết, bộ phận nhất định cung cấp cho các chi nhánh khác ở phạm vi khu vực, thậm chí toàn cầu. Trong việc hoạch định chiến lược phát triển các ngành CNHT, cần có các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và kết hợp hợp lý giữa sản xuất trong nước với các chi nhánh của các tập đoàn xuyên quốc gia ấy. - Sáu là, cơ chế chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển CNHT. Sự ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện trên hai mặt chủ yếu. Một mặt, quan điểm của Nhà nước về phát triển CNHT trong định hướng chiến lược phát triển công nghiệp. Mặt khác, các chính sách hỗ trợ phát triển khu vực CNHT như chính sách nội địa hoá, chính sách đầu tư phát triển CNHT, chính sách thuế đánh vào khâu nhập khẩu và khâu sản xuất các sản phẩm hỗ trợ, mức độ đầu tư của Nhà nước vào nghiên cứu khoa học và công nghệ ở khu vực CNHT. 1.1.3. Vai trò công nghiệp hỗ trợ đối với sự phát triển kinh tế Ngành CNHT có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành công nghiệp chính. Nếu được phát triển một cách hợp lý, nó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chính, tạo nên sự phát triển theo chiều sâu cho nền công nghiệp. Mặt khác, nếu nó kém phát triển, thì sẽ là một rào cản rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp sự phát triển của ngành công nghiệp chính. Do đó có thể nói, CNHT - có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia. Vai trò ấy thể hiện trên những mặt chủ yếu sau: - Thứ nhất, CNHT là điều kiện quan trọng đảm bảo tính chủ động và nâng cao giá trị gia tăng của ngành sản xuất sản phẩm của khu vực hạ nguồn. CNHT không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp, gia công và những công ty sản xuất các thành phẩm cuối cùng khác phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí chuyên chở, bảo hiểm sẽ tăng lên làm tăng chi phí đầu vào. Đó là chưa kể đến sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Vì vậy, CNHT thiếu sẽ làm giá trị gia tăng thấp đi, ngành công nghiệp chính thiếu sức cạnh tranh. - Thứ hai, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, giảm xuất khẩu các sản phẩm thô và nhập khẩu nguyên phụ liệu, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo hướng vừa mở rộng (broadening) vừa chuyên sâu (deepening). - Thứ ba, phát huy ảnh hưởng của tác động “lan toả” trong phát triển hệ thống công nghiệp. Hệ thống này có thể liên kết theo chiều dọc hoặc chiều ngang, tạo thành các cụm công nghiệp có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Do vậy, sự phát triển của một ngành công nghiệp trong hệ thống đó sẽ có tác động mạnh mẽ đến các ngành công nghiệp khác, kích thích các ngành này cũng phát triển theo sao cho đáp ứng được yêu cầu của thời kì mới. - Thứ tư, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động, thu hút lao động dư thừa, đặc biệt là trong những ngành sử dụng nhiều lao động thủ công, giản đơn như dệt may, chế biến nông sản… - Thứ năm, mở rộng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển công nghiệp. Từ những nhận định trên có thể thấy CNHT phải phát triển mới thu hút FDI, đặc biệt là FDI trong những ngành sử dụng nhiều máy móc hiện đại. Tỷ lệ của chi phí CNHT cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng CNHT không phát triển sẽ làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn.Tuy nhiên, cũng không phải CNHT phát triển đồng bộ rồi mới có FDI. Có nhiều trường hợp FDI đi trước và kéo theo các công ty khác (kể cả công ty trong và ngoài nước) đầu tư phát triển CNHT, do đó có sự quan hệ tương hỗ 2 chiều giữa FDI và CNHT. Thứ sáu, là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên lợi thế cạnh tranh của một ngành công nghiệp, góp phần đẩy mạnh thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. - Thứ bảy, phát triển công nghiệp hỗ trợ sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế theo chiều sau và giảm thâm hụt tài khoản vãng lai. Theo quan niệm của M. Porter năm 1990, khả năng cạnh tranh của một ngành công nghiệp là khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Khả năng này được hình thành bởi 4 yếu tố, bao gồm: (1) điều kiện các yếu tố sản xuất, (2) điều kiện cầu, (3) các ngành CNHT và các ngành liên quan, (4) chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh nội bộ ngành. Cả 4 yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau tạo thành “mô hình kim cương Porter” nhằm để chỉ khả năng chịu “va đập” của một quốc gia trước môi trường cạnh tranh gay gắt. Trong đó, mối quan hệ 2 chiều giữa các yếu tố được thể hiện qua mô hình sau: - Hình 1.1: Các yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh ngành công nghiệp Chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh nội bộ ngành Điều kiện các yếu tố sản xuất Điều kiện cầu Các ngành CNHT và các ngành liên quan Nguồn: Trung tâm thông tin kinh doanh và thương mại 1.2. Công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may. 1.2.1. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may. Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam. Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người, là ngành giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội và đặc biệt nó là ngành có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của đất nước. Nó đáp ứng các nhu cầu về sản phẩm tiêu dùng bao gồm các loại quần áo, chăn ga, gối đệm, các loại đồ dùng sinh hoạt trong gia đình như: rèm cửa, vải bọc đồ dùng, khăn các loại…Mặt khác, sản phẩm của ngành dệt may cũng được sử dụng trong ngành kinh tế khác như vải kỹ thuật dùng để lót đường, thi công đê điều, các loại vải làm bọc đệm ô tô, làm vật liệu lọc vật liệu chống thấm. Sản phẩm của ngành dệt may không chỉ là quần áo, vải vóc và các vật dụng quen thuộc như khăn bàn, khăn tắm, chăn mền, nệm, rèm, thảm, đệm ghế, ô dù, mũ nón v.v. mà còn cần thiết cho hầu hết các ngành nghề và sinh hoạt: lều, buồm, lưới cá, cần câu, các loại dây nhợ, dây thừng, dây chão, các thiết bị bên trong xe hơi, xe lửa, máy bay, tàu bè (một chiếc xe hơi trung bình dùng đến 17 kí sợi vải), vòng đai cua-roa, vỏ săm lốp, ống dẫn, bao bì, và nói chung mọi vật liệu dùng để đóng gói, bao bọc, để lót, để lọc, để cách nhiệt, cách âm, cách điện, cách thuỷ, và cả những dụng cụ y khoa như chỉ khâu và bông băng. Bất cứ một ngành công nghiệp nào muốn phát triển mạnh mẽ đều phải dựa trên một nền tảng vững chắc, cũng như có một mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành công nghiệp cả theo chiều dọc và chiều ngang. Đối với ngành dệt may, quan hệ theo chiều dọc của ngành này được biểu hiện dưới dạng chuỗi giá trị như sau: Sản xuất nguyên liệu Kéo  sợi Dệt  vải Nhuộm, in Cắt  vải  may Phân phối  hàng may Trong chuỗi giá trị trên, các giai đoạn sản xuất nguyên liệu, kéo sợi, dệt vải, nhuộm, in vải được gọi là khu vực thượng nguồn, hay đây cũng chính là các ngành CNHT và có liên quan chặt chẽ đến ngành may. Còn các giai đoạn cắt may, phân phối hàng may được gọi là khu vực hạ nguồn và là “động lực” thúc đẩy khu vực thượng nguồn phát triển. Để có được một sản phẩm dệt may cuối cùng cần trải qua rất nhiều các công đoạn trong sản xuất tạo nên thành một chuỗi giá trị của ngành. Theo hình trên ta thấy chuỗi giá trị của ngành dệt may bao gồm rất nhiều công đoạn khác nhau từ sản xuất xơ đến khéo sợi dệt vải nhuộm in hoa, hoàn tất cắt và may. Hình 1.2: Quy trình sản xuất hoàn tất sản phẩm dệt may. S¶n phÈm phô trî Ph©n bãn, thuèc phßng dÞch bÖnh C¸c laoij phô tïng kim khÝ vµ phi kim lo¹i C¸c lo¹i phô tïng kim khÝ vµ phi kim lo¹i C¸c lo¹i thuèc nhuém vµ hãa chÊt phô trî C«ng nghÖ dÖt may S¶n xuÊt x¬ sîi tæng hîp S¶n xuÊt b«ng KÐo sîi DÖt v¶i méc Nhuém - In hoa C¸c lo¹i hãa chÊt phô trî Hoµn tÊt C¸c lo¹i phô liÖu may C¾t may C«ng nghÖ phô trî C«ng nghÖ hãa dÇu C«ng nghÖ c¬ khÝ, chÕ t¹o vµ ®iÒu khiÓn tù ®éng C«ng nghÖ c¬ khÝ, chÕ t¹o vµ ®iÒu khiÓn tù ®éng C«ng nghÖ c¬ khÝ, chÕ t¹o vµ ®iÒu khiÓn tù ®éng C«ng nghÖ c¬ khÝ, chÕ t¹o vµ ®iÒu khiÓn tù ®éng C«ng nghÖ thiÕt kÕ thêi trang Tiªu dïng Nguồn: Quy hoạch phát triển DMVN đến năm 2020 Nếu tạo ra được mối liên hệ hữu cơ giữa các khâu trong những điều kiện sẵn có thì sẽ có tác động lớn lao vào việc đảm bảo tính chủ động, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm DMVN trên thị trường trong nước và thế giới. 1.2.2. Các ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may. 1.2.2.1. Ngành sản xuất nguyên liệu. Ngành sản xuất nguyên liệu cung cấp các nguyên liệu tự nhiên như bông len, tơ sợi để xe sợi, chỉ. Ngành này thường là lợi thế của các nước có điều kiện khí hậu thích hợp với sự phát triển của cây bông, đay và những ngành trồng dâu nuôi tằm. Trung Quốc là nước có nghề trồng dâu nuôi tằm sớm nhất trên thế giới, sau đó dâu tằm mới được phát triển và lan rộng đến các vùng khác trên thế giới. Cách đây 4-5 nghìn năm người Trung Quốc đã biết nuôi tằm và thuần hoá giống tằm, cuốn Biên niên sử[đã đề cập tới dâu tằm vào triều vua Châu Vương (2200 trước Công nguyên). Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quí tộc, nó thể hiện sự thuần phục của dân đối với vua. Bí mật của ngành dâu tằm tơ được người Trung Quốc giữ kín rất lâu, phải gần 1000 năm sau ngành nghề này mới được để lộ và lan truyền sang các nước lân cận bằng con đường tơ lụa. Theo một số tài liệu khác cho rằng nghề dâu tằm được lan truyền sang Triều Tiên vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên, sau đó là Nhật Bản thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, Ấn Độ giữa thế kỷ 2 trước Công nguyên. Theo các nhà lịch sử phương Tây, cây dâu được trồng phát triển ở Ấn Độ thông qua Tây Tạng vào khoảng năm 1400 trước Công nguyên và nghề trồng dâu, nuôi tằm bắt đầu ở vùng châu thổ sông Hằng. Theo các nhà lịch sử Ấn Độ, nơi nuôi tằm đầu tiên ở đây là thuộc vùng núi Hymalaya. Khi người Anh đến Ấn Độ, do buôn bán tơ lụa mà nghề dâu tằm được phát triển và lan rộng sang vùng khác như Mysore, Jamu, Kashmir. Ả Rập do nhập trứng tằm và hạt dâu từ Ấn Độ nên cũng là một trong những nơi sớm có nghề dâu tằm. Vào thế kỷ 4, nghề dâu tằm được thiết lập ở Ấn Độ như là trung tâm của châu Á và tơ lụa được xuất khẩu tới Roma (Ý), nhưng đến thế kỷ 6 người Roma đã học được kỹ nghệ sản xuất tơ và tơ đã được sản xuất ở châu Âu, người Roma đã hoàn toàn chiếm lĩnh trong lĩnh vực sản xuất này. Từ Ý, dâu tằm được phát triển tới Hy Lạp, Áo và Pháp. Vì lợi ích kinh tế đem lại nên ngành dâu tằm tơ được nhiều nước quan tâm. Ngày nay các nước có ngành sản xuất nguyên liệu dệt may phát triển chủ yếu là các nước Mỹ la tinh,Trung Quốc, Ân Độ. Trong đó Brazil là nước cung cấp bông sợi lớn thứ 5 thế giới. 1.2.2.2. Ngành cơ khí. Ngành cơ khí cung cấp các trang thiết bị máy móc cho ngành dệt may và các sản phẩm dầu khí đốt tự nhiên để vận hành máy móc, hóa dầu tạo thành sợi tổng hợp. Ngành cơ khí đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của ngành dệt may. Cơ khí hóa ngành dệt may với các máy móc hiện đại sẽ làm cho năng suất lao động tăng lên, chất lượng sản phẩm dệt may được nâng cao, tiết kiệm lao động và chuyên môn hóa quá trình sản xuất sản phẩm dệt may. Đặc biệt, ngành dệt đang có những định hướng mới trong việc áp dụng những sản phẩm vải, nhưng không phải là quần áo, được gọi là vải kỹ thuật. Đây là lĩnh vực có mức độ tăng trưởng nhanh nhất. Dự kiến các sản phẩm vải kỹ thuật sẽ có mức tăng trưởng gấp đôi so với các sản phẩm dùng để may quần áo và chiếm khoảng hơn 50% toàn bộ sản phẩm dệt. Quá trình sản xuất các sản phẩm vải kỹ thuật đòi hỏi máy móc hiện đại đắt tiền và công nhân có trình độ cao. Hiện tại lĩnh vực này tập trung ở những nước phát triển với trình độ công nghệ và máy móc hiện đại, tiên tiến. 1.2.2.3. Kéo sợi. Đây là giai đoạn từ các nguyên liệu thô ban đầu bằng các phương pháp hóa dầu để tạo thành các sản phẩm nguyên vật liệu phuc vụ cho dệt may như chỉ, sợi và vải , mà nhiều nhất là tơ sợi tổng hợp. Công đoạn này do các công ty may đảm nhiệm. Có nhiều loại tơ sợi khác nhau. Tơ sợi có nguồn gốc từ thực vật hoặc từ động vật được gọi là tơ sợi tự nhiên. Tơ sợi được làm ra từ chất dẻo như các loại sợi ni lông được gọi là tơ sợi nhân tạo. Do Hiệp định sợi đa phương được các nước công nghiệp phát triển ký với vài nước đang phát triển năm 1974 cho phép giảm dần dần thuế quan đối với hàng dệt và xóa bỏ thuế quan vào năm 2002-2005 nên Trung Quốc và các quốc gia đang phát triển khác ở châu Á trở thành người khổng lồ trong lĩnh vực sản xuất sợi và hàng dệt. 1.2.2.4. Ngành dệt vải. Đây là quá trình dệt sợi thành tấm vải, cung cấp nguyên liệu cho ngành may. Đặc điểm nổi bật nhất của ngành này là thu hút một lượng nguồn nhân lực rất lớn, tỷ trọng lợi nhuận rất cao tương đối phù hợp với các nước đang phát triển. 1.2.2.5. Nhuộm, in vải. Trong ngành này có chuỗi dài các công đoạn sản xuất ướt, đòi hỏi nước, hóa chất và các năng lượng đầu vào. Do đòi hỏi của lĩnh vực may thời trang nên ngành này rất phong phú theo yêu cầu về chất liệu, màu sắc của vải. 1.3. Các nhân tố tác động đến sự phát triển của ngành CNHT ngành dệt may. 1.3.1.Thị trường. Như đã nói ở trên, ngành CNHT có vai trò sản xuất các sản phẩm trung gian hỗ trợ cho việc sản xuất một sản phẩm cuối cùng. Như vậy nếu có sự tương thích đủ lớn thì sự phát triển của ngành công nghiệp chính sẽ tạo ra thj trường ổn định phát triển có hiệu quả các ngành hỗ trợ. Đối với ngành dệt may, nếu như ngành may có quy mô nhỏ, sản xuất nhưng sản phẩm có chủng loại đa dạng và sản lượng không lớn thì khối lượng sản xuất bông, vải, sợi...sẽ nhỏ, giá thành sẽ tăng cao. Điều ấy dẫn đến khó tiêu thụ sản phẩm của ngành hỗ trợ. Làm cho các ngành hỗ trợ kém phát triển. Gây ảnh hưởng trực tiếp đến ngành dệt may, đặc biệt là dệt may xuất khẩu. Do đó để ngành hỗ trợ phát triển tương xứng, đáp ứng được nhu cầu của dệt may trong nước thì cần một chính sách đầu tư đồng bộ, liên kết chặt chẽ giữa các DN hỗ trợ và DN khu vực hạ nguồn. Đảm bảo được chất lượng sản phẩm hỗ trợ và thị trường tiêu thụ. 1.3.2.Vốn. Việc đầu tư vốn vào khu vực hỗ trợ ngành dệt may bất lợi hơn so với khu vực hạ nguồn do khối lượng vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp, thời hạn đầu tư và hoàn vốn dài, mức độ rủi ro cao. Do đó việc cân đối nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển ngành công nghiệp dệt may và chính sách huy động phát triển các nguồn lực ấy có vai trò rất to lớn trong việc bào đảm các ngành CNHT ngành dệt may phát triển có hiệu quả và bền vững, đáp ứng được nhu cầu nguyên nhiêu liệu của ngành dệt may. Bên cạnh đó việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành hỗ trợ cũng là một vấn đề quan trọng đòi hỏi phải được xem xét một cách toàn diện. Với sự gia tăng của vốn FDI vào ngành công nghiệp dệt may, đồng thời nhiều DN hỗ trợ cũng ra đời và phát triển chủ yếu phục vụ cho hoạt động chính của ngành dệt may, cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt may phát triển. CacsDN hỗ trợ sẽ hình thành mối liên kết với các DN FDI để chuyển giao công nghệ và phát triển một cách nhanh chóng. Khi các DN hỗ trợ của dệt may phát triển thì sẽ thu hút được nhiều hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư cho dệt may. Như vậy nhà nước cần phải có chính sách sử dụng vốn đầu tư một cách hợp lý, tạo điềuk iện cho các DN hỗ trợ dệt may phát triển. Đó là cách hợp lý nhất để tiếp tục thu hút được lượng đầu tư FDI đối với ngành. 1.3.3. Khoa học kỹ thuật và Công nghệ. Đây là nhân tố quan trọng không chỉ với ngành dệt may mà còn cả với CNHT của ngành. Do tính chất khoa học công nghệ thường xuyên thay đổi và phát triển không ngừng để theo kịp với xu hướng phát triển của thế giới. Vì vậy việc áp dụng thành tựu mới của khoa học công nghệ vào các ngành hỗ trợ cho ngành dệt may có tính chất dẫn dắt sự phát triển của ngành dệt may, nhờ việc tạo ra những chất liệu vải mới, đa dạng hóa các sản phẩm dệt may, làm thay đổi căn bản trong thiết kế và tạo sản phẩm mới ở ngành dệt may. Ngược lại, sự phát triển của ngành may mặc đòi hỏi ngành hỗ trợ phải không ngừng phát triển để tạo ra những nguyên nhiên liệu mới, đáp ứng nhu cầu của ngành. Sự phát triển của công nghệ thông tin và thương mai điện tử làm cho mối liên hệ giữa ngành coongn ghiệp dệt may và ngành CNHT trở nên gần nhau hơn. Giamr tối thiểu thời gian giao dịch, tiết kiệm chi phí, thúc đẩy được sự phát triển của cả ngành dệt may lẫn ngành hỗ trợ. 1.3.4. Các chính sách của nhà nước với phát triển CNHT. Quan điểm của nhà nước về phát triển CNHT ngành dệt may trong đinh hướng phát triển chung của ngành dệt may cả nước tác động trực tiếp đến quy mô, cơ cấu của ngành CNHT dệt may. Mặt khác các chính sách hỗ trợ phát triển khu vực CNHT như chính sách nội địa hóa, chính sách đầu tư phát triển ngành nguyên liệu, cơ khí... phục vụ ngành dệt may, chính sách thuế đánh vào khâu nhập khẩu và xuất khẩu các sản phẩm bông, tơ sợi...và mức độ đầu tư của nhà nước vào nghiên cứu khoa học công nghệ, tất cả quyết định sự phát triển của ngành hỗ trợ dệt may. 1.3.5. Các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu. Ngành công nghiệp dệt may không phải là một ngành riêng lẻ, mà nó có một chuỗi giá trị toàn cầu. Cùng với sự hội nhập kinh tế thế giới, mối liên hệ kinh tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên mật thiết. Việc đảm bảo quan hệ giữa ngành dệt may và các ngành hỗ trợ không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà cần thực hiện trong phạm vi khu vực và thế giới. Điều đó buộc mối quốc gia phải cân nhắc mức độ đầu tư vào ngành hỗ trợ trong nước, không những chỉ dệt may trong nước cân gì thì ngành hỗ trợ mới sản xuất cái đó. Mà cần mở rộng xuất khẩu các sản phẩm hỗ trợ dệt may, và tăng cường tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm dệt may để tạo được lợi thế cho các mặt hàng hệt may xuất khẩu. 1.4. Kinh nghiệm của các nước trong phát triển CNHT dệt may. CNHT đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển ngành công nghiệp chính. Thực tế các nước phát triển trên thế giới từ lâu đã rất đầu tư chú trọng phát triển ngành CNHT để ngành CNHT làm cơ sở cho việc phát triển ngành công nghiệp chính. Có thể rút ra được rất nhiều kinh nghiệm quý báu từ sự phát triển CNHT dệt may của các nước có ngành dệt may phát triển như Trung Quốc, ấn Độ, Nam Phi... 1.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc. Công nghiệp dệt may của Trung Quốc đã và đang phát triển mạnh trong 2 thập kỷ qua. Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia lớn nhất thế giới về sản xuất một số loại sản phẩm dệt may, đồng thời cũng là quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Quá trình phát triển công nghiệp dệt may của Trung Quốc được chia làm 3 giai đoạn. - Giai đoạn 1: nhận thức được mối quan hệ mật thiết giữa ngành dệt và may, Trung Quốc đã coi ngành dệt là ngành hỗ trợ chủ đạo cho ngành may, và sự phát triển của 2 ngành công nghiệp này là đồng hành, song song cùng tồn tại, sự tăng trưởng của ngành này là nền tảng cho ngành kia. Ngành dệt của Trung Quốc được bắt đầu từ năm 1870. Từ năm 1870 cho đến 1940 là giai đoạn đầu phát triển ngành dệt. Trong giai đoạn này, ngành dệt phát triển với tốc độ thấp, nguyên liệu tự cấp với chất lượng thấp, thiết bị nhập khẩu. Hầu hết các nhà máy dệt là của tư nhân được bố trí ở dọc bờ biển hoặc đường bộ để thuận tiện cho hoạt động chuyên chở và giao thương. - Giai đoạn 2: tính từ năm 1949 đến cuối thập kỉ 70. Để đáp ứng nhu cầu may mặc của nhân dân Trung Quốc, Chính phủ đã hết sức cố gắng mở rộng năng lực ngành dệt. Đến cuối năm 1978, sản lượng sợi hoá học sản xuất ở Trung Quốc đạt 280000 tấn, sản xuất vải trước hết được ưu tiên cho nhu cầu thị trường nội địa. Do vậy, Trung Quốc đã có các chiến lược ngắn hạn phát triển ngành dệt như là một trong những hàng hoá tiêu dùng. - Giai đoạn 3: cuối những năm 70, Chính phủ Trung Quốc đã ra các quyết sách nhằm phát triển kinh tế đất nước theo hướng mở cửa thị trường quốc tế. Kể từ đó đến nay, ngành dệt Trung Quốc đã có sự tăng trưởng vượt bậc và có sự thay đổi đáng kể. Chủ sở hữu được đa dạng hoá, khu vực ngoài quốc doanh đã phát triển rất mạnh. Năng lực sản xuất gia tăng đáng kể, đồng thời ngành dệt cũng được củng cố thêm nhờ đổi mới công nghệ và sản phẩm dệt đã có khả năng cạnh tranh. Cũng trong giai đoạn này, khi CNHT đã có một cơ sở vững chắc thì ngành may của Trung Quốc cũng có những bước khởi sắc. Cùng với hàng dệt, kim ngạch xuất khẩu hàng may tăng đáng kể (bảng 1) Sau nhiều năm vừa cải cách vừa thực hiện, Trung Quốc đã xây dựng được ngành dệt hoàn hảo, có khả năng sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau, trở thành ngành CNHT đắc lực đáp ứng mọi nhu cầu của ngành may trong quá trình thâm nhập thị trường các nước trong khu vực và thế giới. Để xây dựng được ngành dệt mạnh như vậy, bên cạnh chiến lược phát triển ngành theo từng bước vững chắc, Nhà nước Trung Quốc cũng đã có những biện pháp hỗ trợ như: Về chính sách hỗ trợ xuất khẩu: năm 1986, hoàn trả thuế trung gian và VAT, năm 1988 hoàn trả thuế gián tiếp luỹ tiến ở các khâu, hình thành các quĩ hỗ trợ tín dụng nhằm cấp tín dụng xuất khẩu, tín dụng cải tiến kỹ thuật,…để khuyến khích các DN dệt may đổi mới năng lực và hiện đại hoá công nghệ, thiết bị, dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ và có những chính sách ưu đãi đặc biệt với các nhà đầu tư nước ngoài, cụ thể ngày 11/10/1996 “qui định về khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài” đã giảm mức thuế thu nhập từ 30% xuống còn 15% và cho các DN ở đặc khu kinh tế chỉ còn 10%, miễn thuế 5 năm đầu cho các DN mới thành lập ở đặc khu, miễn thuế thu nhập khi chuyển lãi ra nước ngoài, hoàn trả thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư… 1.4.2. Kinh nghiệm của Nam Phi Từ năm 1994, Nam Phi đã đầu tư 1 tỷ USD để nâng cấp và hiện đại hoá ngành công nghiệp dệt, may mặc và giày dép, giúp ngành này có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nhu cầu của thị trường Nam Phi ngày càng phản ảnh tính phức tạp của một thị trường phát triển. Ngành dệt may của địa phương đã không ngừng lớn mạnh để cung cấp cho thị trường một loạt các sản phẩm, từ sợi tự nhiên, sợi nhân tạo, đến dệt, xe sợi, dệt kim, nhuộm… Nhờ áp dụng những tiến bộ công nghệ, ngành dệt địa phương đã phát triển thành một ngành dựa chủ yếu vào thiết bị sản xuất, trong đó sản xuất sợi nhân tạo chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Mặc dù có quy mô tương đối nhỏ, ngành công nghiệp dệt của Nam Phi đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ trên thị trường thế giới: - Nhà sản xuất sợi Sans Fibres cung cấp 80% chỉ khâu (may) sử dụng trong ngành may mặc trên thế giới) - Nhà máy dệt vải Gelvenor Textiles cung cấp hơn 50% nhu cầu của thế giới về vải may dù (parachute fabrics - Nhà sản xuất quần áo vét House of Monatic đã cung cấp cho thị trường Anh sản phẩm thứ 1 triệu Một số nhân tố khiến cho việc đầu tư vào ngành dệt may và giày dép tại Nam Phi trở nên hấp dẫn hơn. Nam Phi có hiệp định thương mại với EU và Mỹ theo đó Nam Phi được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi 17,5%. Tại thị trường Mỹ, xuất khẩu dệt may của Nam Phi đã tăng 62% kể từ khi được hưởng ưu đãi theo đạo luật AGOA. Nam Phi cũng được hưởng ưu đãi về thuế mà các nước SADC dành cho theo Hiệp định Thương mại tự do SADC, thực hiện hoàn toàn vào năm 2008. Nam Phi có lợi thế về nguyên liệu thô (sợi tự nhiên). - Bông: Nam Phi sản xuất 40000 tấn bông một năm. Sợi bông cũng có thể nhập từ các nước SADC để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ. - Da: Nam Phi có đủ nguyên liệu thô cần thiết để sản xuất bất kỳ loại giày dép nào. Da bò, đà điểu, cá sấu sông Nile, da thú rừng, dệt và nguyên liệu nhựa PVC … có thể mua tại địa phương một cách dễ dàng. - Sợi thực vật: Nam Phi đang triển khai khá thành công các dự án trồng và chế biến sợi tự nhiên, chẳng hạn như cây lanh, cây gai dầu, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên từ ngành công nghiệp ô tô và hàng không (nguyên liệu tự nhiên sản xuất một số bộ phận của ô tô và máy bay không gây ô nhiễm môi trường). - Len và lông cừu: Nam Phi là nước sản xuất lông cừu (mohair) lớn nhất thế giới và sản xuất len lớn thứ năm trên thế giới. Ngành dệt Nam Phi có 350 nhà máy, sản xuất 560 triệu mét vuông vải từ bông trồng tại địa phương, sợi polyester sản xuất tại địa phương và sợi nhập khẩu. Giá trị sản xuất vải đạt 12 tỷ rand năm 2005 và 191 triệu đơn vị sản phẩm may mặc, trị giá 11 tỷ rand năm 2005. Xuất khẩu hàng may mặc đạt 1,4 tỷ rand, hàng dệt đạt 2,5 tỷ rand, chủ yếu sang thị trường Mỹ và EU. Sản phẩm may mặc chủ yếu sản xuất tại các tỉnh Western Cape, Kwa-Zulu Natal, Gauteng và Eastern Cape. Năm 2007, Nam Phi xuất khẩu sản phẩm dệt may đạt 5 tỷ rand. Nhập khẩu dệt may khoảng 14 tỷ rand (Tỷ giá tham khảo 1 usd = 7,5 rand. 1.4.3. Kinh nghiệm của Ấn Độ. Ấn Độ là một ví dụ điển hình cho năng lực và kinh nghiệm xây dựng CNHT cho ngành dệt may ở Châu Á. Hiện nay, Ấn Độ đang là quốc gia có kim ngạch xuất khẩu dệt may lớn trên thế giới. Xuất khẩu hàng may đã tăng lên nhanh chóng từ thập niên 1970. Năm 1970-1971, ngành này mới đạt 3,9 triệu USD và tỷ trọng trong tổng lượng xuất khẩu chỉ đạt 1,9%. Năm 1980-1981, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 6,96 triệu USD và tương ứng thị phần là 8,2%. Từ năm 1997-1998, kim ngạch đã đạt tới 3776 triệu USD, thị phần 9,6%, cho đến nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã tăng đáng kể, giúp cho Ấn Độ trở thành quốc gia đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu ngành hàng này. Vậy đâu là nguyên nhân tạo nên sự tăng trưởng vượt bậc đó? Thứ nhất, do mức lương khá thấp ở Ấn Độ đã tạo nên lợi thế so sánh trong ngành công nghiệp may mặc. Theo thống kê của Vinatex, mức lương trung bình trong ngành dệt may của Ấn Độ hiện là 0,54 USD/h, thấp hơn 6,3 lần so với Hồng Kông, 1,6 lần so với Thái Lan. Thứ hai, ngành may mặc Ấn Độ có nguồn vải phong phú với chất lượng đa dạng và giá khác nhau, vì vậy đã đáp ứng được mọi yêu cầu cho ngành may mặc. Hàng nghìn loại sợi đa dạng đều có nguồn cung cấp trong nước để thích hợp với sở thích và thời trang của khách hàng. Thứ ba, ngành may mặc xuất khẩu đã phát triển mạnh mẽ đặc biệt từ sau cải cách theo chiến lược định hướng xuất khẩu. Điều quan trọng đối với các nhà xuất khẩu là cần thay đổi sản phẩm để bắt nhịp với xu hướng thời trang, trên cơ sở đó, các qui trình sản xuất được thực hiện sao cho linh hoạt, mềm dẻo trở nên hết sức quan trọng. Nhìn chung, ngành may xứng đáng là một trong những ngành chủ lực trong chiến lược xuất khẩu của Ấn Độ. Đó cũng là một trong những ngành có thu nhập ngoại tệ nhiều nhất ở Ấn Độ, chiếm gần 16% lượng hàng xuất khẩu của nước này. Hàng may mặc của Ấn Độ được đánh giá cao tại các thị trường lớn ở Châu Âu, Mỹ, các nước Bắc Âu và Úc. Chính sách tự do hoá nhập khẩu và hỗ trợ xuất khẩu thời kì cải cách đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất Ấn Độ về năng suất, công nghệ và mẫu mã với các đối thủ Châu Á khá hùng mạnh như Thái Lan, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan. 1.4.4. Bài học kinh nghiệm từ các nước có thể áp dụng ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích những đặc điểm của quá trình phát triển ngành dệt may nói chung và ngành CNHT dệt may nói riêng của các nước trên, với các chính sách và giải pháp mà các nước đã áp dụng để thúc đẩy sự phát triển của ngành CNHT, có một số giải pháp hay và thích hợp với điều kiện của Việt Nam. Và Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi và áp dụng các chính sách đó một cách linh hoạt và hợp lý. Cụ thể: - Ở tầm vĩ mô quản lý nhà nước, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược phát triển ngành tổng thể và đồng bộ, trong đó định hướng và quy hoạch rõ sự phát triển cảu ngành dệt may nói chung và ngành CNHT nói riêng theo từng giai đoạn và quá trình cụ thể. Qua đó xây dựng các chương trình và kế hoạch cụ thể với các cấp các địa phương để tạo một sự phát triển đồng bộ có hệ thống, không chắp vá, nhỏ lẻ gây khó khăn cho sự phát triển chung của ngành công nghiệp dệt may. - Tận dụng tối đa lợi thế so sánh của Việt Nam có được bởi nguồn lao động dồi dào và mức lương thấp so với các nước khác. Bên cạnh đó quy hoạch khai thác những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng bông, dâu...Khai thác sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, mục tiêu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong các sản phẩm dệt may, tạo lợi thế cho mặt hàng dệt may xuất khẩu - Chú trọng đầu tư xây dựng một ngành dệt hoàn hảo, phục vụ tốt cho ngành may trong nước hướng tới xuất khẩu. Trong đó vai trò định hướng và các chính sách của chính phủ rất quan trọng. Thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ xuất khẩu, chính sách thuế cho các ngành hỗ trợ, thu hút đầu tư nước ngoài bằng cơ sở hạ tầng hiện đại, môi trường đầu tư thuận lợi. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỔ TRỢ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM. 2.1. Đánh giá chung về ngành DMVN hiện nay. Ngành Dệt - May VN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Là ngành cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động, đồng thời đã mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu và đóng góp một nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của Ngành chiếm bình quân trên 9% toàn ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu chiếm 14,6% so với tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và đã tạo việc làm cho gần một triệu lao động công nghiệp. Tuy vậy có thể thấy hiện nay mặc dù có nhiều lợi thế và điều kiện khá thuận lợi song khả năng cạnh tranh của ngành DMVN hiện nay đang rất thấp. Để thấy rõ thực trạng này, có thể đánh giá một số chỉ tiêu: Điều kiện về cầu: Việt Nam hiện nay có dân số đông, gần 80 triệu người và sẽ tiếp tục tăng lên nữa, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao vào loại cao nhất thế giới. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, bình quân các hộ gia đinh Việt Nam chi tiêu trên 3% thu nhập cho may mặc. Điều này cho thấy thị trường nội địa đầy tiềm năng với sức tiêu thụ lớn. Thêm vào đó. hiện nay, thị trường trong nước đang ngày càng yêu cầu cao về chất lượng, dịch vụ đối với hàng dệt may, đây sẽ là động lực thúc đẩy các DN thường xuyên cải tiến và đổi mới sản phẩm. Cùng với sự dỡ bỏ hạn ngạch của WTO, thị trường nước ngoài đang đặt ra những tiêu chuẩn cao đối với các sản phẩm không chỉ về mẫu mã, chất lượng mà còn cả dịch vụ đi kèm. Điều này đòi hỏi các DN nếu muốn tồn tại và phát triển thì phải không ngừng nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng. Điều kiện về các yếu tố sản xuất: Các yếu tố sản xuất bao gồm yếu tố cơ bản và yếu tố tiên tiến. Ngành DMVN được coi là có ưu thế: lao động dồi dào, ngành dệt may có truyền thống lâu đời, vị trí địa lý thuận lợi…, đã tạo cho Việt Nam có điều kiện về các yếu tố cơ bản khá đầy đủ. Tuy nhiên, các yếu tố tiên tiến như cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, viễn thông, nguồn nhân lực kỹ thuật cao (các kỹ thuật viên đã qua đào tạo, các chuyên gia trong lĩnh vực dệt may) lại rất khan hiếm. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho ngành dệt may trong quá trình phát triển lên cấp độ cao,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan