LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu của nền kinh tế Thế giới, các nước
chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác, quan hệ trên cơ sở hai bên cùng có lợi,
cùng nhau phát triển kinh tế. Xu thế này đã góp phần tích cực vào sự tăng trưởng
và phát triển của một số nước trên thế. Đặc biệt là đối với Việt Nam, thực trạng
nền kinh tế sau chiến tranh giành độc lập hoàn toàn, tiến tới xây dựng, ổn định và
từng bước phát triển kinh tế: Việt Nam là một nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu, đời sống nhân dân còn quá thấp so với các nước trên thế giới. Tình hình đó
đòi hỏi nước ta phải có sự đổi mới cho phù hợp với xu thế chung của thế giới.
Quan điểm mở rộng hợp tác kinh tế của Việt Nam được thể hiện rõ trong đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII: Thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại theo
hướng mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
quốc tế, phấn đấu thực hiện mục tiêu “ Dân giàu,nước mạnh, xã hội công bằng và
văn minh”.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước được thực hiện thông qua việc
mở rộng các hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, tín dụng nước ngoài…
Trong đó, hoạt động xuất nhập khẩu có tầm quan trọng hơn cả, là yếu tố quan
trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh. Nhập khẩu là để bù đắp những mặt
hàng còn thiếu mà nền trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng không
đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước. Cơ cấu nhập khẩu củaViệt Nam chủ yếu bao
gồm những mặt hàng sau: máy móc thiết bị, khoa học kĩ thuật, công nghệ mới và
nguyên vật liệu phục vụ cho phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng ở nước ta.
Trong giai đoạn trước đây, thép là mặt hàng quan trọng trong cơ cấu nhập
khẩu của nước ta vì đây là mặt hàng cần thiết cho nhiều ngành công nghiệp, xây
dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng phục vụ cho nhiều ngành sản xuất nói chung. Tuy
nhiên, việc nhập khẩu thép thành phẩm chỉ là biện pháp trước mắt và tình thế. Do
đó, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải đẩy mạnh
hoạt động sản xuất theo hướng ngày càng nâng cao chất lượng và sản lượng thép.
Trang 1
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp luyện kim nói chung là nguồn
nguyên liệu đầu vào cho luyện kim mà chủ yếu là thép phế liệu sẽ đuợc lấy ở đâu
khi mà tổng sản lượng thu gom được trong nước chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu,
vậy để đảm bảo sản xuất thép trong nước được ổn định thì 70% nhu cầu thép phế
này phải được nhập khẩu từ nước ngoài (theo thống kê của Bộ Công nghiệp Việt
Nam). Vì vậy, việc nhập khẩu thép phế liệu góp phần tích cực vào sự ổn định và
phát triển ngành luyện thép ở nước ta, từ đó thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, là động lực tích cực để xây dựng và cải tạo cơ sở của Việt
Nam trong giai đoạn 2000- 2010.
Kết hợp giữa nhận thức nói trên và đợt thực tập tốt nghiệp vừa qua, em đã
chọn đề tài “Tình hình nhập khẩu thép phế liệu và các biện pháp nâng cao hiệu
quả nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền” làm đề
tài cho bài thu hoạch thực tập tốt nghiệp.
Kết cấu của bài viết gồm có 2 chương:
Chương I. Thực trạng nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ
Ngô Quyền
Chương II. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép
phế liệu của Công ty.
Mặc dù bài viết chỉ đề cập tới tình hình riêng của Công ty công nghiệp tàu
thuỷ Ngô Quyền về hoạt động nhập khẩu thép phế liệu, nhưng em cũng hy vọng
độc giả qua bài viết này có thể hiểu thêm phần nào về hoạt động nhập khẩu thép
phế liệu nói chung của thị trường Việt Nam và từ đó có được sự quan tâm hơn nữa
đối với vấn đề này.
Hoàn thành được bài báo thu hoạch này, em đã nhận được sự hướng dẫn và
giúp đỡ tận tình, đầy trách nhiệm của Thạc sỹ Phạm Thị Mai Khanh và các anh,
chị phòng kinh doanh tổng hợp cùng những cán bộ Công ty công nghiệp tàu thuỷ
Ngô Quyền. Nhưng vì thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp, tài liệu tham khảo còn
hạn chế nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của các thầy, cô giáo và các độc giả
để giúp em hoàn thiện bài viết này.
Trang 2
CHƢƠNG I:
THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU CỦA CÔNG TY CÔNG
NGHIỆP TÀU THỦY NGÔ QUYỀN
I.GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ NGÔ
QUYỀN
1/Sự hình thành và phát triển của Công ty
Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền là đơn vị kinh doanh hạch toán độc
lập trực thuộc Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (một trong 17 Tổng
Công ty lớn nhất của Nhà nước) được thành lập theo quyết định số 69/TTg do Thủ
tướng chính phủ ký và ban hành ngày 31/01/1996, trên cơ sở tổ chức lại ngành
công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam). Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam
(Viet Nam Shipbuilding Industry Corporation - Vinashin) được thành lập theo
quyết định số 69/TTg do Thủ tướng chính phủ ký và ban hành ngày 31/01/1996,
trên cơ sở tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam. Vinashin hiện có 40
Trang 3
đơn vị thành viên, gồm: 29 đơn vị hạch toán độc lập, 7 đơn vị hạch toán phụ thuộc
và 4 đơn vị liên doanh; tổng số công nhân viên lên tới trên có khoảng 13000 cán
bộ công nhân viên. Các đơn vị thành viên của Vinashin nằm trên khắp đất nước
trải dài từ Bắc tới Nam.
Tiền thân của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền là Xưởng phá dỡ tàu
cũ và sản xuất khí công nghiệp, hiện nay trụ sở chính của Công ty: số 234 - Lê
Thánh Tông - Ngô Quyền- Hải Phòng, với tổng số công nhân viên là gần 200
người có trình độ chuyên môn từ bậc trung học, đại học và một số đã tốt nghiệp
cao học, Công ty làm ăn rất có hiệu quả (doanh thu hàng năm đạt 30%/năm). Hơn
nữa, Công ty cũng được sự quan tâm và đầu tư đúng đắn từ các cấp có thẩm quyền
và ban lãnh đạo nên hiện giờ Công ty cũng đã có những dây truyền công nghệ đáp
ứng được nhu cầu sản xuất .
2)Cơ cấu tổ chức
Trong Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền, người có thẩm quyền cao
nhất là Giám đốc điều hành. Vì đây là một đơn vị hạch toán độc lập nên tùy thuộc
vào tình hình thực tế của Công ty mà Giám đốc đưa ra các quyết định cho phù hợp.
Giám đốc có toàn quyền chủ động quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
của Công ty, với sự giúp việc của Phó giám đốc và bộ phận tham mưu giúp việc
trong 4 phòng hành chính nghiệp vụ. Giám đốc ra chỉ thị và truyền đạt thông tin
trực tiếp xuống các phòng ban tham mưu, và các phòng ban tham mưu này lại
xuống các xưởng trực thuộc mình quản lý (xem sơ đồ 1).
3/Chức năng, nhiệm vụ của Công ty
Như đã trình bày ở trên, trong giai đoạn trước khi chuyển thành Công ty, với
chức năng là một Xưởng sản xuất thuộc Tổng công ty Vinashin, Xưởng chủ yếu
tập trung vào 2 nhiệm vụ chính do Tổng công ty giao cho, đó là: phá dỡ tàu cũ để
lấy thép phế liệu và sản xuất khí công nghiệp. Sau quyết định 94/1996- TCT của
Vinashin về “Thành lập Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô quyền” được Tổng
giám đốc ký và ban hành ngày 20/2/1996, Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô
Quyền đã và đang thực hiện tốt các chức năng sản xuất kinh doanh theo ngành
nghề được phép như sau:1. Đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ; 2.Sản xuất khí công
Trang 4
nghiệp để phục vụ công nghiệp trong tổng Công ty, trong ngành và tiêu thụ sản
phẩm cho nhu cầu thị trường; 3. Kinh doanh vật tư trang thiết bị cho các phương
tiện thuỷ; 4.Tổ chức thực hiện các dịch vụ hàng hải; 5.Nhập khẩu thép phế liệu
phục vụ cho ngành đóng tàu truyền thống của Tổng Công ty và đáp ứng nhu cầu
trong nước đối với mặt hàng này....
Trong đó, Công ty đặc biệt chú trọng tới 2 hoạt động chính phù hợp với chức
năng và chuyên môn của mình, đó là: Nhập khẩu thép phế liệu và sản xuất khí
công nghiệp. Doanh thu từ các hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh
thu của Công ty.
Trang 5
SƠ ĐỒ 1: MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY CNTT NGÔ QUYỀN
GIÁM ĐỐC
Phó giám đốc sản xuất
Kế toán trƣởng, phòng
TK-TC, phòng KD
Phòng tổ chức hành
chính
Phòng kế hoạch
sản xuất
Bộ phận KDDịch vụ – Vật
tƣ
Xƣởng ôxy
Xƣởng phá dỡ
tàu cũ
Điều hành mệnh lệnh
Thông tin
Trang 6
II. TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU CỦA CÔNG TY CÔNG
NGHIỆP TÀU THỦY NGÔ QUYỀN
1) Quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động nhập khẩu thép phế liệu
Phù hợp với tình hình thực tế nước ta đang trong giai đoạn cất cánh, trước
năm 1998 công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi số lượng thép lớn. Trong giai
đoạn này, thép là mặt hàng nhập khẩu quan trọng trong cơ cấu nhập khẩu của nước
ta vì đây là mặt hàng cần thiết cho nhiều ngành công nghiệp (đặc biệt là ngành
công nghiệp nặng), ngành xây dựng… Theo thống kê của Bộ công nghiệp: để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng thép trong nước thì cần phải nhập khẩu 70%.
Tuy nhiên, nhập khẩu không phải là biện pháp hiệu quả và lâu dài cho các
nền kinh tế nói chung. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước đã đẩy
mạnh hoạt động sản xuất theo hướng ngày càng nâng cao chất lượng và sản lượng
thép để đáp ứng nhu cầu trong nước thay cho nhập khẩu, và nguyên liệu chính
dùng cho luyện thép là thép phế liệu nhập khẩu chứ không phải là quặng khai thác
được ở trong nước. Theo thống kê của Bộ công nghiệp hơn nửa lượng thép tiêu thụ
trong nứoc là từ sản xuất trong nước, một nửa còn lại là nhập khẩu, trong đó 80%
thép sản xuất trong nứơc là từ nguồn phôi nhập khẩu, trong số phôi thép sản xuất
trong nước lại phụ thuộc tới 70% nguyên liệu nhập khẩu từ ngoài vào. Như vậy,
Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào thị trường bên ngoài từ thép thành phẩm, bán
thành phẩm cho tới nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Sang năm 1998, nhà nước ta
đã cho phép nhập khẩu thép phế liệu: Điều 3.5 của Thông tư 01/1998- TM- XNK
(ngày 4/2/1998 Thông tư về cơ chế điều hành xuất nhập khẩu ) có quy định “ Thép
phế liệu và thép phá dỡ tàu cũ khi nhập khẩu phải có ý kiến của Bộ công nghiệp”.
Việc cho phép nhập khẩu đã làm cho sản lượng thép phế liệu nhập khẩu vào nước
ta tăng mạnh ở giai đoạn sau: Theo thống kê của Cục hải quan 1998 là: trên 50000
tấn, 2000 là: 170000 tấn, đến năm 2002 là: 261389 tấn, và theo dự báo: nếu các lò
luyện kim cùng đưa vào hoạt động và ngành thép đạt công suất 2 triệu tấn phôi
thép/năm thì nhu cầu đối với thép phế liệu để phục vụ ngành luyện kim là rất lớn.
Thưc trạng này đã biến Việt Nam từ một nước nhập khẩu phôi thép và thép thành
phẩm trở thành một thị trường nhập khẩu thép phế liệu để phục vụ cho sản xuất
phôi thép. Chính vì vậy, chỉ một trở ngại nhỏ cản trở thép phế liệu nhập khẩu vào
Trang 7
Việt Nam sẽ làm cho các lò luyện thép bị đình trệ vì đói nguyên liệu. Để việc nhập
khẩu thép phế được tiến hành thuận lợi hơn , theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Sưa – Viện
trưởng Viện luyện kim đen:
“ Nhà nước cần ban hành tiêu chuẩn về thép phế
liệu cũng như các văn bản pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
sản xuất thép nhập khẩu thép phế liệu” 1, theo ông Phạm Chí Cường- Phó Chủ tịch
Hiệp hội Thép Việt Nam: “ Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng các tiêu chuẩn
chất lượng cho thép phế liệu nhập khẩu dựa trên tiêu chuẩn quốc tế thông dụng”2.
Nhưng về phía Bộ tài nguyên và môi trường, ông Nguyễn Khắc Kinh – Vụ trưởng
Vụ thẩm định và đánh giá tác động tài nguyên môi trường lại cho rằng: “Không thể
cứ nhập khẩu bừa thép phế liệu hoặc mua tàu cũ về phá dỡ tràn nan ở Việt Nam để
lấy thép phế. Việc thực hiện mục tiêu 1,5 triệu tấn phôi/ năm là cần thiết nhưng
không phải làm ra thép bằng mọi giá”3. Cũng theo ông Kinh: “ năng lực xủ lý chất
thải của Việt Nam hiện còn quá kém, nay lại để chất thải ngoại tràn vào thì Việt
Nam sớm trở thành bãi giác”4. Như vậy, nguy cơ đói nguyên liệu cho ngành sản
xuất thép đang dần lộ diện bởi sự khập khễnh giữa tiêu chuẩn thép phế liệu của
Việt Nam với tiêu chuẩn Thế giới. Trong khi đó, giá thép trên thị trường thế giới
có những biến động mạnh (giá các nguyên liệu cho luyện thép như: quặng, gang,
thép phế, than cốc...) giá phôi thép; giá thành phẩm thép xây dựng, thép tấm, lá
...liên tục tăng.
Trước tình hình đó, các chuyên gia ngành thép cảnh báo sản lượng thép
toàn cầu sẽ sụt giảm hàng loạt sau những đợt nguyên liệu đầu vào tăng chóng mặt.
Cung- cầu thép đang rơi vào tình trạng hỗn loạn, không có đủ cung để đáp ứng cầu
đang tăng quá nhanh. Theo dự kiến, đến năm 2004, nhu cầu sẽ là 936triệu tấn, tăng
5% so với 2003 và sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Các chuyên gia ngành thép còn
cho biết nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do Trung Quốc đang bước
vào xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản làm cho nhu cầu về thép tăng (2003 là 35 triệu
tấn phôi, trong đó nhu cầu trong nước là trên 25 triệu tấn). Ngoài ra, Mỹ đã xoá bỏ
thuế nhập khẩu (thuế nhập khẩu= 0% ) đối với mặt hàng thép làm cho nhu cầu thép
của nước này cũng tăng mạnh. Đây là những nguyên nhân chính gây lên sự biến
1, 2, 3, 4: "Ngµnh thÐp tr-íc nguy c¬ ®ãi nguyªn liÖu" - VIETNAM NET ngµy 22 /10/2003
Trang 8
động lớn cho thị trường thép trên thế giới, vì Mỹ và Trung Quốc là 2 quốc gia lớn
và có tầm ảnh hưởng lớn đối với thị trường Thế giới.
Tình hình trong nước và thế giới như vậy đã gây nên sự biến động lớn về
giá thép ở Việt Nam: Đầu quý I/2004 là 6,4-6,5 triệu/tấn thép, vậy mà đến cuối
quý I- đầu quý II/2004 đã là 8,5- 9,3 triệu/tấn. Chỉ trong một thời gian ngắn giá
thép đã tăng chóng mặt. Để bình ổn lại thị trường, Hiệp hội thépViệt Nam, Tổng
Công ty thép, tổ điều hành thị trường trong nước đã họp và kiến nghị với chính
phủ 4 biện pháp: 1.Thúc đẩy sản xuất phôi thép trong nước; 2.Tháo gỡ vấn đề nhập
khẩu thép phế liệu để sản xuất phôi; 3.Kiểm tra mạng luới phân phối để tránh đầu
cơ; 4.Nhập khẩu thép thành phẩm khi nguồn cung trong nứơc chưa đủ đáp ứng. Bộ
công nghiệp cũng có kiến nghị chính phủ sớm điều chỉnh các quy định về việc
nhập khẩu thép phế liệu theo hướng coi thép phế liệu là nguyên liệu cơ bản của
ngành thép.
Vì thép phế liệu là mặt hàng phế liệu, có ảnh hưởng tới môi trường Việt
Nam, nên hoạt động nhập khẩu thép phế liệu vào nước ta sẽ do Bộ Tài nguyên –
Môi trường toàn quyền quản lý, trên cơ sở đó Bộ ra quyết định số 03/2004/QĐBTN-MT ban hành ngày 02/04/2004 –“Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài nguyên
môi trường về việc ban hành quy định về bảo vệ môi trường đối với phế liệu nhập
khẩu làm nguyên liệu sản xuất”, theo Quyết định này: “Các cơ sở sản xuất thuộc
các ngành thép, giấy, thuỷ tinh và nhựa đều được nhập khẩu phế liệu về làm
nguyên liệu sản xuất”. Quy định này nhằm giúp các doanh nghiệp chủ động có
nguồn ngyên liệu giá rẻ hơn để phục vụ sản xuất thép làm giảm giá thành sản
phẩm. Tuy nhiên, không thể tiến hành nhập khẩu phế liệu bừa bãi, phế liệu nhập về
phải đảm bảo tiêu chuẩn sau: “không lẫn tạp chất nguy hại; không lẫn chất thải, trừ
tạp chất không nguy hại còn bám dính hoặc bị rời ra trong quá trình vạn chuyển,
bốc xếp”. Quyết định này cũng quy định một số điều kiện đối với các doanh
nghiệp được phép nhập khẩu - chỉ những tổ chức, cá nhân có kho, bãi dành riêng
cho việc tập kết phế liệu nhập khẩu đảm bảo các điều kiện về môi trường trong quá
trình lưu giữ phế liệu nhập khẩu; có đủ năng lực xử lý các tạp chất đi kèm với phế
liệu nhập khẩu mới được phép nhập khẩu phế liệu.
Trang 9
Như vậy, hoạt động nhập khẩu thép phế đã được các Bộ, Ngành có liên
quan quan tâm và tạo hành lang pháp lý thông thoáng nhằm giúp các doanh nghiệp
được thuận lợi hơn khi tiến hành hoạt động kinh doanh này. Sẽ không có một trở
ngại quá lớn nào về mặt pháp lý gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiến hành
nhập khẩu thép phế vào Việt Nam:
. Văn bản pháp lý điều chỉnh trực tiếp và hiện hành đối với nhập khẩu thép
phế liệu của Nhà nước ta là Quyết định số 03/ 2004/QĐ- BTN- MT của Bộ tài
nguyên môi trường ban hành ngày 02/04/2004
. Thép phế liệu nằm trong danh mục những mặt hàng được phép nhập khẩu
theo quy định của Nhà nước.
. Hiện nay Nhà nước không có quy định hạn ngạch nhập khẩu đối với thép
phế.
. Thuế nhập khẩu thép phế liệu là 0%.
2) Kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu
thủy Ngô Quyền
2.1) Động cơ của hoạt động nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công
nghiệp tàu thủy Ngô Quyền
* Xuất phát từ nhu cầu thị trường:
Sắt thép được coi là một trong những mặt hàng có tầm quan trọng chiến
lược trong công cuộc xây dựng đất nước. Đặc biệt ở nước ta hiện nay, trong sự
nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nhu cầu ngày càng cao đối với mặt hàng
thép. Khi kinh tế – xã hội phát triển thì nhu cầu của con người đòi hỏi ngày càng
cao, có thể nói nhu cầu của con người là không giới hạn. Hiện nay, nước ta còn lạc
hậu, kém xa các nước trên thế giới (một phần là do bị chiến tranh tàn phá trong
một thời gian dài). Vì vậy, đất nước cần phải chuyển mình, đổi mới nền kinh tế xã hội để bắt kịp với xu thế phát triển của toàn thế giới. Nhưng để đạt được mục
tiêu đó, vấn đề cơ bản và cũng là nền tảng là phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững
chắc để từ đó đặt nền móng cho đất nước đi lên (như một ngôi nhà muốn vươn
cao, vươn xa thì trước hết phải tạo được móng nhà vững chắc). Trong đó sắt thép
đóng vai trò quan trọng, chiến lược trong sự nghiệp cách mạng cải cách cơ cấu
kinh tế - xã hội của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhu cầu về thép ngày
Trang 10
càng tăng, trong khi nền công nghiệp khai thác quặng ở nước ta còn thấp kém chưa
đủ để đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu của ngành luyện kim. Hơn nữa, thị trường
thép trên thế giới đang có sự biến động mạnh (giá cả tăng chóng mặt) khiến cho
giá nhập khẩu thép vào nước ta cao. Trước tình hình đó, giải pháp trước mắt và
cũng là lâu dài cho ngành thép ở nước ta là : nhập khẩu thép phế liệu về để sản
xuất phôi thép phục vụ cho ngành luyện thép đáp ứng nhu cầu thép đang ngày
càng gia tăng ở Việt Nam.
*Đối với Công ty:
Hoạt động nhập khẩu thép phế liệu là phù hợp với đặc điểm kinh doanh của
Công ty- Ngành nghề truyền thống và cũng là xuất phát điểm của Công ty là nhập
khẩu tàu cũ về để đóng mới và sửa chữa phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu
sang nước ngoài. Cùng với việc nhập khẩu tàu cũ từ nước ngoài về, thay vì vận
chuyển tàu không, Công ty vận chuyển thêm sắt thép phế nhập khẩu trên những
con tàu nhập khẩu đó, tránh sự lãng phí và tiết kiệm được chi phí nhập khẩu . Hơn
nữa, hoạt động đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ của Công ty cũng cần sử dụng
lượng sắt thép phế liệu lớn, do đó thay vì mua lại ở thị trường trong nước, Công ty
nhập khẩu trực tiếp thì giá sẽ thấp hơn.
Như vậy, hoạt động nhập khẩu thép phế liệu không chỉ giúp cho Công ty
tăng doanh thu và lợi nhuận trong kinh doanh mà còn đáp ứng kịp thời nhu cầu thị
trường góp phần bình ổn lại thị trường thép trong nước và cũng không trái với quy
định pháp luật Việt Nam.
2.2 Kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thủy
Ngô Quyền
a) Giai đoạn 1996 –1999:
Như đã trình bày ở trên, tiền thân của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô
Quyền là Xưởng phá dỡ tàu cũ và sản xuất khí công nghiệp thuộc Tổng công ty
Vinashin, với chức năng đó thì mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của Xưởng đều
phải dựa trên chỉ tiêu, mệnh lệnh của Tông công ty, chưa thực sự tự ý thức và phát
huy tối đa mọi tiềm năng có được để đạt hiệu quả cao. Sau khi có quyết định thành
lập Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền và trở thành một trong 29 đơn vị
hạch toán độc lập, Công ty đã chủ động trong kinh doanh và tự chịu trách nhiệm
Trang 11
đối với kết quả kinh doanh của mình. Công ty đã có nhiều đổi mới, phát huy tối đa
mọi nguồn lực có thể có để từng bước nâng cao chất lượng kinh doanh nói chung
và kinh doanh thép phế liệu nhập khẩu nói riêng.
Bảng 1. Sản lƣợng và kim ngạch nhập khẩu (KNNK) thép phế liệu của
Công ty giai đoạn 1996 – 19995
STT
Năm
Sản lượng(tấn)
KNNK (USD)
1
1996
1130
63000
2
1997
1350
77000
3
1998
2300
138000
4
1999
3050
189100
Bảng 1 cho thấy sản lượng và kim ngạch nhập khẩu của Công ty nhìn
chung tăng từ năm 1996 đến năm 1999. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này là không
đều giữa các năm: giai đoạn 1996 – 1997 tăng thấp - sản lượng tăng 20%, KNNK
tăng 22%, 1997 – 1998 tăng mạnh - sản lượng tăng 70%, KNNK tăng 79%, 1998 –
1999 sản lượng tăng 33%, KNNK tăng 37%. Năm 1998 có sự tăng trưởng mạnh
như vậy là do Nhà nước đã cho phép nhập khẩu mặt hàng này và từ năm nay sản
lượng nhập khẩu vào Việt Nam nhìn chung tăng cao do nhu cầu nguyên liệu cho
ngành thép lớn. Qua phân tích cũng cho thấy mức độ tăng sản lượng và KNNK
không bằng nhau- KNNK thường tăng cao hơn sản lượng trong cùng một thời kì,
nguyên nhân chủ yếu là do giá thép phế liệu trên thị trường trong nước và Thế giới
đang biến động theo xu hướng ngày càng tăng.
Trong giai đoạn đầu thành lập, ngành kinh doanh “nhập khẩu thép phế liệu
của Công ty còn non trẻ, chủ yếu thực hiện theo phương thức “nhập khẩu tàu cũ về
phá dỡ để sản xuất sắt thép. Thực tế cho thấy, hoạt động kinh doanh “ thép phế liệu
nhập khẩu” trong giai đoạn này chưa thực sự làm ăn có hiệu quả, doanh thu thấp,
hình9thức kinh doanh còn manh mún, nhỏ bé, phân tán. Doanh thu từ hoạt động
kinh doanh này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu của Công ty, do đó
chỉ có thể được tính gộp vào là doanh thu chung của ngành “ phá dỡ tàu”.
* Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do:
5
B¸o c¸o tæng kÕt ho¹t ®éng kinh doanh nhËp khÈu thÐp phÕ liÖu cña C«ng ty giai ®o¹n 1996 - 1999
Trang 12
1. Do mới thành lập nên vốn của Công ty còn hạn hẹp, nên không thể thực
hiện các hợp đồng lớn về nhập khẩu tàu cũ được, mà sản lượng thép phế liệu hoàn
toàn dựa vào số lương tàu cũ nhập về để phá dỡ. Điều này dẫn đến sản lượng thép
phế liệu của Công ty thấp. Ngoài ra, mới thành lập cũng là nguyên nhân tạo ra sự
bất lợi về thời gian và điều kiện gia nhập thị trường chưa đủ để tạo lập cho mình
một vị trí và chỗ đứng trên thị trường trong và ngoài nước. Vì vậy Công ty chưa
khẳng định được uy tín của mình, Điều này khiến cho công việc kinh doanh của
Công ty gặp rất nhiều khó khăn: khó khăn trong việc ký kết các hợp đồng nhập
khẩu tàu cũ (khó khăn trong khâu đầu vào), các doanh nghiệp trong nước còn ít
biết đến sự tồn tại của Công ty hoặc nếu có biết thì vẫn chưa có cơ sở để họ đặt
niềm tin để kí các hợp đồng mua sắt thép phế liệu của Công ty (khó về đầu ra).
3. Nhiệm vụ đóng tàu gặp nhiều khó khăn, dẫn đến sản lượng thép phế liệu
thấp: Do từ sau khi Nhà nước cho phép các doanh nghiệp được phép phá dỡ tàu cũ
để lấy sắt thép phế liệu, khiến cho ngày càng có nhiều doanh nghiệp phá dỡ tàu cũ
nên việc mua tàu cũ bị căng giá.
4. Việc làm thủ tục mua bán còn nhiều phiền toái, phụ phí cao, nhất là đối
với tàu cũ của nước ngoài. Nhiều khi bế tắc sản xuất do khâu thủ tục phải “qua”
nhiều “ cửa”, nhiều “dấu”, đối tác mất niềm tin, Công ty mất nguồn cung.
5.Mặt khác, lúc bấy giờ quy trình công nghệ phá dỡ tàu để sản xuất sắt thép
phế liệu còn rất xa lạ đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp vừa tự sản xuất vừa tự
rút ra quy trình công nghệ sản xuất cho mình. Do vậy năng suất thấp, việc quản lý
lao động rất khó khăn, khó giao chỉ tiêu, khó đạt mức khoán, khó quản lý sản
phẩm và tài sản dễ dẫn đến lãng phí, hao hụt, mất mát...
6. Giá phế liệu không ổn, do việc cung cấp sản phẩm khi thì dồn dập, khi thì
khan hiếm
7.Chất lượng công nhân viên làm việc chưa có chuyên môn kĩ năng cao dẫn
đến năng suất lao động thấp, sản lượng thép phế liệu thấp.
Từ những nguyên nhân trên dẫn đến việc kinh doanh “ thép phế liệu nhập
khẩu” nói riêng và hiệu quả kinh doanh của cả Công ty nói chung chưa cao. Tính
cho tới cuối năm 1999, doanh thu của cả ngành “phá dỡ tàu cũ” ước tính đạt trên
20 tỷ VNĐ.
Trang 13
Thực trạng trên đòi hỏi Công ty phải có sự đổi mới từ công tác tổ chức,
quản lý, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ cho tới việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Công ty.
* Giai đoạn 2000- 2004
Trước thực trạng làm ăn kém hiệu quả như vậy, Công ty đã phải sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau để góp phần cải thiện lại tình hình. Trước hết phải kể
đến sự đổi mới trong phương thức kinh doanh: thay vì nhập khẩu thép phế liệu
hoàn toàn dưới hình thức “ nhập khẩu tàu cũ về phá dỡ để sản xuất thép phế liệu”,
nay Công ty đã tiến hành nhập khẩu trực tiếp thông qua thu mua thép phế liệu.
Điều này giúp cho sản lượng thép phế liệu mà Công ty nhập khẩu tăng cao.
Bảng2.
Sản lƣợng và kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu
thuỷ Ngô Quyền6
TT
NĂM
SẢN
LƢỢNG(TẤN)
KNNK(
THỊ TRƢỜNG
USD)
1
2000
7.500
562.500
100%châu âu
2
2001
11.000
847.000
100%châu âu
3
2002
13.700
2.856.000
70%châu âu, 30%châu á
4
2003
16.000
4.080.000
90%châu á, 10%châu âu
5
2004
21.000
6.447.000
70%châu á,30%châu âu và mỹ
Từ bảng trên cho thấy, số lượng thép phế liệu Công ty nhập khẩu tăng
nhanh trong giai đoạn 2000- 2004, tuy nhiên sự tăng trưởng này không đồng đều
giữa các năm: 2000- 2001 tăng 3500 tấn (tăng trên 40%), 2001- 2002 tăng 2000
tấn( tăng 18%), 2002- 2003 tăng 3000 tấn (tăng 24%), 2003- 2004 tăng 5000 tấn
(tăng 30%). Mặc dù, sự tăng sản lượng thép phế nhập khẩu của Công ty trong
những năm qua là không đồng đều cả về số lượng và tỷ lệ tăng trưởng giữa các
năm, nhưng nhìn chung sản lượng thép phế nhập khẩu của Công ty đã tăng khá cao
6
B¸o c¸o tæng kÕt t×nh h×nh ho¹t ®éng kinh doanh nhËp khÈu thÐp phÕ liÖu cña C«ng ty giai ®o¹n 2000 2004
Trang 14
từ năm đầu giai đoạn (năm2000) cho tới năm kết thúc giai đoạn (năm 2004) từ
7.500tấn lên tới 21.000tấn ( tăng 180%). Cùng với sự tăng lên về số lượng thì
KNNK đối với mặt hàng này cũng tăng với mức tăng cao hơn. Đặc biệt là trong
giai đoạn 2001 – 2004, KNNK tăng tới mức chóng mặt (tăng 5.600.000 – tương
ứng trên 660%). Nguyên nhân chủ yếu là do giá thép trong giai đoạn này tăng cao(
tăng từ 77USD/tấn năm 2001 lên tới 307USD/tấn năm 2004),và một phần cũng là
do sản lượng tăng cao. Trong 6 tháng đầu năm 2005, sản lựong thép phế liệu nhập
khẩu của Công ty đạt 16.450tấn, đạt 57% kế hoạch năm, KNNK đạt trên 5triệu
USD. Mặc dù con số này còn rất nhỏ so với tổng KNNK của Việt Nam nhưng nó
cũng góp phần bình ổn lại thị trường đang trong tình trạng hỗn loạn cung – cầu về
thép. Nếu tiếp tục duy trì ở mức tăng trưởng như vậy việc hoàn thành và vượt mức
chỉ tiêu năm nay của Công ty sẽ là tất yếu.
Từ bảng 2 cũng cho ta thấy sự thay đổi đáng kể về thị trường nhập khẩu của
Công ty, chuyển dịch từ nhập khẩu thép phế liệu hoàn toàn từ Châu Âu (năm 2000,
2001 nhập khẩu 100%) dần sang nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Châu á ( hiện
nay lượng thép phế nhập khẩu từ châu á chiếm trên 70%).
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi trên? Trước đây, bạn hàng truyền
thống của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền là các nước nằm trong khu
vực Châu Âu, Công ty chủ yếu tiến hành các hoạt động kinh doanh ở khu vực thị
trường này, do đó việc thép phế liệu được nhập khẩu 100% từ đây là hoàn toàn phù
hợp . Tuy nhiên đó chỉ mang tính tạm thời và tình thế. Xuất phát từ mục tiêu tăng
doanh thu và lợi nhuận, đòi hỏi Công ty phải chủ động tìm kiếm những khu vực thị
trường mới có giá rẻ hơn, có nhiều lợi thế đối với công việc kinh doanh của mình.
Thị trường Châu á bao gồm các nước nằm trong cùng khu vực địa lý, có cùng
chung đường bờ biển, hoặc là những nước có đường biên giới giáp với Việt Nam,
vì vậy thuận lợi rất nhiều cho các hoạt động giao lưu kinh tế văn hoá giữa ta với
các nước bạn nói chung và cho hoạt động nhập khẩu của Công ty nói riêng. Điều
này giúp cho Công ty tiết kiệm được chi phí và thời gian từ khâu nghiên cứu thị
trường, kí kết hợp đồng và cuối cùng là vận chuyển thép phế liệu về nước. Khoảng
cách giữa Việt Nam và các nước Châu á là tương đối gần so với Châu âu, vì vậy ta
có bắt thể nắm bắt tình hình thị trường và có thông tin nhanh về sự thay đổi của thị
Trang 15
trường này giúp ta có sự điều chỉnh nhanh, chính xác và kịp thời. Ngoài ra, lợi thế
có chung đường bờ biển sẽ tạo lợi thế cho việc tiến hành mua bán ngoại thương
giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, do việc vận chuyển dễ dàng, mà thép
phế liệu do Công ty tàu thuỷ Ngô Quyền nhập khẩu được coi là mặt hàng cồng
kềnh, có trọng tải lớn nên phương tiện vận chuyển chủ yếu là bằng tàu thuỷ. Trên
cơ sở đó cho thấy quyết định chuyển hướng thị trường này của Công ty là đúng
đắn, phù hợp với thực tế kinh doanh của Công ty.
3. Cơ cấu, giá, chất lƣợng và thị trƣờng nhập khẩu thép phế liệu của
Công ty
* Về cơ cấu nhập khẩu: Do chính sách bảo hộ ngành thép của Nhà nước nên
hoạt động nhập khẩu thép phế liệu có những bước phát triển đáng kể nhằm đáp
ứng thị trường về cơ cấu, chủng loại, chất lượng. Trong số các mặt hàng được
phép nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật, cơ cấu nhập khẩu của
Công ty chủ yếu tập trung vào 2 mặt hàng sau: Thép phế liệu dùng cho cán kéo
chiếm 48% tổng KNNK, thép phế liệu dùng cho nấu chảy chiếm 45% tổng KNNK
của Công ty.
* Về giá nhập khẩu: Cũng như hầu hết các đơn vị kinh doanh với mục tiêu
cuối cùng là lợi nhuận thì việc xem xét và lựa chọn giá trước khi kí hợp đồng mua
bán là rất cần thiết. Đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu, giá cả ở một số thị
trường lớn đóng vai trò quyết định và là cơ sở để người mua chấp nhận giá từ phía
chào hàng đưa ra. Đối với Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền cũn vậy: Sau
khi nhận được đơn chào hàng của nước ngoài chào bán, cơ sở để tính giá nhập
khẩu của Công ty là giá ở một số thị trường thép phế liệu lớn trên thế giới, hoặc có
thể tham khảo giá của bạn hàng truyền thống Châu Âu hay giá trên các tạp chí ,
bản tin có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, Công ty không thể không tính đến giá
đầu ra cho mặt hàng này nhằm đảm bảo thu lợi nhuận và làm ăn có hiệu quả. Để đi
đến quyết định có chấp nhận giá của phía chào hàng đưa ra hay không, Công ty
phải tính toán phần chênh lệch giữa giá thép phế liệu nhập khẩu và giá bán lại ở thị
trường trong nước, sau khi trừ đi các khoản chi phí có liên quan có thu được lợi
nhuận không và khoản lợi nhuận thu được này có được coi là hiệu quả kinh doanh
hay không? Hiện nay, giá nhập khẩu và giá bán lại thép phế trên thị trường Việt
Trang 16
Nam của Công ty: Tuỳ từng chủng loại mà Công ty sẽ nhập khẩu và bán lại với các
mức giá khác nhau:
- Loại thép phế liệu dùng cho Cán kéo: Công ty nhập khẩu với giá là 270280 USD/ tấn giá CNF Cảng Hải Phòng (chưa có thuế VAT, bảo hiểm, phí mở
L/C, phí giao nhận bốc xếp Cảng, phí giám định...), giá bán loại này trên thị trường
hiện nay: từ 4.800.000đ/tấn đến 5.400.000đ/tấn tuỳ thuộc vào kích thước và chủng
loại cụ thể.
- Loại thép phế liệu dùng cho nấu chảy: giá nhập khẩu là 225 USD/tấn giá
CNF Hải Phòng (chưa có thuế VAT, bảo hiểm, phí mở L/C...), giá bán
3.900.000đ/tấn- 4.100.000đ/tấn( chỉ bán cho các lò luyện phôi thép, như: Công ty
gang thép Thái nguyên, Thép Hoà Phát...).
Ngoài việc thụ động chờ phía chào hàng đưa ra đơn giá, sau đó so sánh và
đưa ra quyết định có chấp nhận giá đó hay không, Công ty cũng đẩy mạnh công
tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường để chuyển mình sang thế chủ động tìm đến
những thị trường mới có giá thấp và đảm bảo cung cấp ổn định, lâu dài cho Công
ty.
* Về chất lượng thép phế liệu nhập khẩu: Chất lượng là một trong những
điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Vì vậy, phải đề cập chi tiết, cụ thể về chất
lượng và quy cách phẩm chất của hàng hoá để tránh xảy ra sự tranh chấp giữa
người bán và người mua. Mỗi một mặt hàng có những quy định riêng về tiêu
chuẩn phẩm chất và ở mỗi nước lại có những quy định khác nhau về mặt hàng đó,
đối với thép phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam cũng vậy. Nhưng khi tham gia vào
buôn bán ngoại thương thì phải sử dụng những tiêu chuẩn mang tính quốc tế.
Đối với việc nhập khẩu thép phế liệu, Nhà nước ta vẫn chưa có văn bản
pháp lý cụ thể quy định về tiêu chuẩn đối với mặt hàng này. Vì vậy khi nhập khẩu
thép phế các doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì họ chưa có một tiêu chuẩn
nào để dựa vào đó mà xem xét, xác định thép phế liệu do doanh nghiệp mình nhập
khẩu về có đạt tiêu chuẩn chất lượng hay không. Do đó, đã có nhiều ý kiến kiến
nghị về vấn đề này, trong đó đáng kể nhất là ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Văn Sưa kiến nghị Nhà nước cần đưa ra các tiêu chuẩn về thép phế và của ông Phạm Chí
Cường- kiến nghị Nhà nước cần xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cho sắt thép
Trang 17
phế dựa trên tiêu chuẩn quốc tế. Những ý kiến này được đưa ra đều nhằm giúp các
doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc xác định tiêu chuẩn chất lượng đối với thép
phế nhập khẩu, khiến cho hoạt động nhập khẩu được dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, việc nhập khẩu thép phế nói riêng và nhập khẩu các phế phẩm
vào Việt Nam nói chung luôn phải đảm bảo quy định của Bộ Tài nguyên - môi
trường, đó là: “không biến Việt Nam thành bãi giác của thế giới”.
Hiện nay, chất lượng thép phế do Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền
nhập khẩu không chỉ đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn của Việt
Nam theo quy định pháp luật (Quyết định số 03/QD- BTNMT của Bộ tài nguyên
môi trường) đối với mặt hàng này mà còn phù hợp và có thể phục vụ cho công
nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ của Tổng Công ty, các loại thép có khả
năng tái chế được để phục vụ cho sản xuất.
* Về thị trường nhập khẩu: Xây dựng thị trường nhập khẩu ổn định vững
chắc và lâu dài có ý nghĩa to lớn trong quá trình nhập khẩu trước mắt cũng như lâu
dài. Làm tốt phương châm này là góp phần tích cực vào sự phát triển của Công ty
nói riêng và của Tổng Công ty Vinashin nói chung. Do vậy mà Công ty luôn duy
trì những thị trường nhập khẩu ổn định để tạo điều kiện thuận lợi cho công việc
kinh doanh của mình.
Trong giai đoạn đầu của công cuộc xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế của ta vận
hành theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp thì bạn hàng chủ yếu là Liên Xô cũ
và các nước thuộc khối SEV. Trong đó tổng sản lượng thép nhập khẩu từ các nước
này chiếm 90 - 95%. Sau một thời gian dài bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nền
kinh tế của ta còn nghèo nàn, lạc hậu - cơ sở hạ tầng còn thấp kém, công nghệ kĩ
thuật chưa phát triển khiến cho nền sản xuất của ta còn yếu kém, chưa thể tự mình
đáp ứng được những nhu cầu trong nước, do đó việc nhập khẩu thép thành phẩm
phục vụ tiêu dùng trong nước là phù hợp và không thể tránh khỏi.
Từ năm 1986 trở lại đây, Việt Nam thực hiện cơ chế đổi mới, từng bước
tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá, ngành sản xuất thép trong nước đã có sự
chuyển mình. Thay cho nhập khẩu thép thành phẩm , Việt Nam nhập khẩu phôi
thép và thép phế liệu về để phục vụ cho ngành luyện kim, từ đó tự mình sản xuất
Trang 18
thép và từng bước đáp ứng nhu cầu trong nước. Đây là kết quả đáng mừng cho sự
phát triển của nền kinh tế nói chung và cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá ở nước ta nói riêng- Việt Nam từ chỗ là một nước nhập khẩu thành phẩm là
chính nay đã trở thành một thị trường nhập khẩu nguyên liệu về để tự mình sản
xuất
Cơ chế mở cửa đã giúp Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ kinh tế với
các nước trên thế giới, thực hiện phương châm của Đảng “ Việt Nam muốn trở
thành bạn của tất cả các nước trên thế giới”. Trên cơ sở đó, bạn hàng của Việt Nam
không còn chỉ hạn chế là Liên Xô cũ và các nước thuộc khối SEV mà đã mở rộng
ra ở tất cả các nước trong khu vực và thế giới. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi
cho Công ty có nhiều cơ hội để lựa chọn và xác định bạn hàng cho phù hợp với
nhu cầu và ngành nghề kinh doanh của mình, hơn nữa còn giúp cho Công ty có
điều kiện tiến hành phân tích kỹ lưỡng và phân loại thị trường nào sẽ mang lại hiệu
quả kinh tế cao cho mình.
Phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, Công ty nhập khẩu thép phế liệu chủ
yếu từ thị trường Châu á và các nước thuộc khu vực Châu Âu và một số lượng nhỏ
từ các nước khác (Nhập khẩu từ Châu á chiếm 70%, Châu Âu và các nước khác
chiếm trên 30% tổng sản lượng thép phế liệu nhập khẩu của Công ty). Các yếu tố
dẫn tới việc quyết định lựa chọn thị trường của Công ty: giá cả, chất lượng, số
lượng và một vài yếu tố khác.
4. Tình hình tiêu thụ thép phế liệu nhập khẩu của Công ty
Thị trường trong nước hiện nay, cầu luôn luôn lớn hơn cung, vì vậy mà số
lượng thép phế Công ty nhập về luôn được tiêu thụ hết, Công ty bán lại sản phẩm
này với mức giá vừa phải, phù hợp với giá bán trên thị trường và đảm bảo Công ty
làm ăn có lãi. Tuỳ thuộc vào từng loại mà giá bán chúng có sự khác nhau, ví dụ:
thép dùng cho cán kéo giá bán là 4.800.000đ/tấn- 5.400.000đ/tấn, thép phế liệu
dùng cho nấu chảy từ 3.900.000đ đến 4.100.000đ/tấn
4.1. Thị trường tiêu thụ thép phế của Công ty:
- Các Công ty có chức năng kinh doanh sắt thép phế liệu ở Hải Phòng.
- Làng cán kéo thép Đa hội- Bắc Ninh.
- Làng nghề Nam Định.
Trang 19
- Một số cơ sở cán kéo thép ở Hải Phòng, Hà Nội.
- Công ty gang thép Thái Nguyên.
- Công ty cổ phần thép Hoà Phát....
4.2. Hình thức tiêu thụ
- Bán cả lô cho một đơn vị hoặc nhà máy.
- Bán chọn lọc từng phần nhỏ trong lô hàng nhập khẩu về cho các đơn vị cá
nhân, làng nghề theo nhu cầu người mua hàng.
- Bán hàng trên Bill khi hàng đang trên đường về.
4.3 Phương thức tiêu thụ:
- Bán thanh toán 100% tiền mặt hoặc chuyển khoản.
- Bán giao hàng và thu tiền dần, người mua phải chịu lãi suất của số tiền
chậm trả theo mức lãi suất của ngân hàng.
- Bán theo bảo lãnh ngân hàng của người mua ( nếu người mua là lần đầu
hoặc chưa có uy tín trên thị trường).
Như vậy, Công ty đã tận dụng mọi hình thức và phương thức bán hàng để
tiêu thụ hàng với số lượng lớn nhất có thể, và chúng phải đảm bảo khả năng an
toàn cho công tác bán hàng của Công ty tránh những rủi ro có thể xảy ra gây thất
thoát và thiệt hại cho Công ty.
5. Kết quả kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công
nghiệp tàu thủy Ngô Quyền
Trong 5 năm gần đây, nhìn chung tình hình sản xuất của Công ty ổn định và
phát triển, doanh thu năm sau tăng 30% so với năm trước. Hoạt động nhập khẩu
thép phế liệu của Công ty đã hỗ trợ rất nhiều cho các đơn vị luyện thép trong nước,
cung cấp đầu vào cho sản xuất, góp phần tạo môi trường cạnh tranh làng mạnh
trong nước. Hàng năm đóng góp cho ngân sách nhà nước hàng tỷ đồng thông qua
việc đóng thuế (thuế doanh thu, thuế VAT…). Trong đó chủ yếu là 2 ngành kinh
doanh chính là : sản xuất khí công nghiệp; phá dỡ tàu cũ và nhập khẩu thép phế
liệu. Trong đó, đóng góp của hoạt động “ phá dỡ tàu cũ và nhập khẩu thép phế liệu
là rất lớn trong tổng doanh thu của cả Công ty. Để minh chứnh cho điều này, ta có
thể làm một phép so sánh đơn giản giữa doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhập
khẩu thép phế liệu với doanh thu từ sản xuất khí công nghiệp trong cùng kì: Năm
Trang 20
- Xem thêm -