Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tình hình nghiên cứu thực trạng và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khám c...

Tài liệu Tình hình nghiên cứu thực trạng và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền trên thế giới và việt nam

.DOC
58
650
119

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI PHẠM VIỆT HOÀNG Chuyên đề: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KHÁM CHỮA BỆNH BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN TRấN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM Thuộc đề tài NCS: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CAN THIỆP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KHÁM CHỮA BỆNH BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN TẠI TỈNH HƯNG YấN HÀ NỘI - 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI PHẠM VIỆT HOÀNG Chuyên đề: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KHÁM CHỮA BỆNH BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN TRấN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM Thuộc đề tài NCS: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CAN THIỆP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KHÁM CHỮA BỆNH BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN TẠI TỈNH HƯNG YấN Chuyên ngành: Y học cổ truyền Mã số: 62.72.60.01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Thị Phương HÀ NỘI - 2012 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BVYHCT CCTW CBYT CSSKBĐ CSQG HNYTTN KCB KCB YHCT KTXH TP TTBYT TW YDCT YDCT YDHHĐ YHCT YHCTTN YHCTTW YHHĐ YTTN NC KHCN WHO HNYHCTTN Bệnh viện Y học Cổ truyền Châm cứu Trung ương Cán bộ Y tế Chăm sóc sức khỏe ban đầu Chính sách Quốc gia Hành nghề y tế tư nhân Khám chữa bệnh Khám chữa bệnh Y học Cổ truyền Kinh tế xã hội Thành phố Trang thiết bị Y tế Trung ương Y dược Cổ truyền Y Dược học Cổ truyền Y Dược học hiện đại Y học Cổ truyền Y học Cổ truyền tư nhân Y học Cổ truyền Trung ương Y học hiện đại Y tế tư nhân Nghiên cứu Khoa học công nghệ Tổ chức y tế thế giới Hành nghề y học cổ truyền tư nhân MỤC LỤC I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2 III. NỘI DUNG 2 3.1. Một số khái niệm cơ bản 2 3.2. Những định hướng và chính sách đối với YDCT của Tổ chức Y tế thế giới 3.3 Tình hình khám chữa bệnh bằng YHCT ở một số nước trên thế giới 3.3.1. Campuchia 4 3.3.2. Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào 3.3.3. Indonesia 8 3.3.4. Malaysia 9 3.3.5. Myanmar 9 3.3.6. Phi-lip-pin 10 3.3.7. Singapore 11 3.3.8. Thái Lan 12 3.3.9. Nepal 6 13 3.3.10. Ấn Độ 13 3.3.11. Trung Quốc 15 3.3.12. Nhật bản 19 3.3.13. Hàn Quốc 20 3.3.14. Australia 20 3.3.15. YHCT ở một số nước châu Âu 21 3.3.16. YHCT ở châu Phi 22 3.4 Tình hình khám chữa bệnh bằng YHCT ở Việt Nam 27 3 3 3.4.1 Các quan điểm chỉ đạo chung về phát triển Y học cổ truyền và chính sách của Đảng và chính phủ đối với hoạt động khám chữa bệnh YHCT tại Việt Nam 27 3.4.2 Tình hình khám chữa bệnh YHCT tại Việt Nam: 31 3.4.3 Một số nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nang cao chất lượng khám chữa bệnh YHCT tại Việt nam đến 2010 40 IV. KẾT LUẬN 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Chăm sóc sức khỏe (CSSK) là một trong những nhu cầu thiết yếu của con người. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, sự phát triển của loài người từ thời xa xưa y dược cổ truyền (YDCT) đã ra đời. Con người đó dựng cỏc loại cây, cỏ, bộ phận động vật, khoáng chất … để tăng cường và bảo vệ sức khỏe. Trong xã hội YDCT phát triển do nhu cầu của người dân trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự nâng cao về nhận thức cũng như nhu cầu thiết yếu về CSSK, sự kết hợp giữa y học hiện đại (YHHĐ) và y học cổ truyền (YHCT) ngày càng chặt chẽ. Tỷ lệ và số lượng người sử dụng các dịch vụ YHCT ngày càng được nâng lên. Ở Nhật, theo thống kê thấy có tới 70 - 80% các thầy thuốc của phép chữa đối chứng đã kê đơn cho người bệnh sử dụng các dịch vụ này. Tại Trung Quốc có tới 40% các dịch vụ CSSK đã sử dụng YDCT Trung Quốc, điều trị cho hơn 200 triệu người bệnh hàng năm. Tại Châu Mỹ La-tinh cũng thống kê thấy 71% dân số Chi-lờ và 40% dân số tại Colombia đã sử dụng YDCT. Tại nhiều nước công nghiệp phát triển thì tỷ lệ dân sử dụng YDCT cũng rất lớn, tại Mỹ là 42%, Úc là 48%, Pháp là 49% và Canada là 70% [37]. Sự phát triển YDCT ở mỗi nước trên thế giới có sự khác biệt là do đặc thù riêng về văn hóa, tập quán và tri thức truyền thống, Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) đã khuyến cáo "mỗi quốc gia nên khuyến khích nghiên cứu và phát triển YHCT phù hợp với ưu tiên quốc gia và pháp luật, có xem xét các văn kiện quốc tế liên quan, bao gồm, khi thích hợp, những tri thức truyền thống liên quan và quyền của người dân bản địa” (Báo cáo của TCYTTG trong Hội nghị YHCT các nước ASEAN lần thứ 2 -2010) [5]. Do vậy, nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã đặt mối quan tâm triển khai các nghiên cứu về tình hình sử dụng YDCT tại quốc gia mỡnh, trờn cơ sở đú đỳc rỳt những bài học kinh nghiệm và đưa ra các giải 2 pháp nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng YHCT trong công tác khám chữa bệnh (KCB) và chăm sóc sức khỏe người dân. Tiểu luận tổng quan "Tình hình nghiên cứu thực trạng và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền trên thế giới và Việt Nam" thuộc đề tài "Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp can thiệp nhằm nâng cao chát lượng khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền tại tỉnh Hưng Yên" được xây dựng với 2 mục tiêu: 1. Mô tả tình hình khám chữa bệnh bằng YHCT của một số nước trên thế giới 2. Mô tả thực trạng khám chữa bệnh bằng YHCT đến năm 2010 tại Việt Nam II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Là một chuyên đề mang tính lý thuyết nên phương pháp tổng quan các tài liệu có liên quan được dùng tại đây. Để minh họa cho một số phần mô tả thực trạng về YHCT, phương pháp thu thập các số liệu thứ cấp qua các tài liệu thống kê liên quan cũng được sử dụng và cuối cùng phương pháp phân tích/ tổng hợp cũng được sử dụng để bàn luận các thông tin số liệu, phục vụ cho các kiến nghị và nghiên cứu tiếp. III. NỘI DUNG 3.1. Một số khái niệm cơ bản - YDCT: Theo Tổ chức Y tế thế giới, YDCT là các dạng khác nhau của các phương pháp thực hành, sự tiếp cận, thái độ, kiến thức và niềm tin trong việc kết hợp chặt chẽ việc sử dụng các cây cỏ, bộ phận động vật hay khoáng chất, dựa trên các kĩ thuật hay bài tập luyện y học, liệu pháp tinh thần hay bằng tay, có thể ứng dụng độc lập hay phối hợp để tạo ra tình trạng sức khỏe tốt thông qua việc chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh. - YDCT -phương pháp trị liệu thay thế/bổ sung (CAM): là một phức hợp, thường đề cập đến một hệ thống như hệ thống YDCT Trung Quốc, Ấn- 3 độ hay Ả - rập, gồm các dạng rất khác nhau của y học bản địa. Các liệu pháp YDCT bao gồm các liệu pháp điều trị bằng thuốc - nếu như có sử dụng các cỏ, cây, bộ phận của động vật hay khoáng chất làm thuốc chữa bệnh; các liệu pháp điều trị không dùng thuốc – nếu như thực hiện các thủ thuật như châm cứu, liệu pháp tinh thần/tõm lý hay liờu phỏp qua tác động của tay. Tại các quốc gia mà có sự ưu thế của phép chữa đối chứng (tây y) hoặc YDCT chưa được lồng ghép vào hệ thống CSSK quốc gia thì YDCT được gọi là phương pháp trị liệu thay thế hay trị liệu bổ sung (complementory or alternative medicine) [37], [25]. 3.2. Những định hướng và chính sách đối với YDCT của Tổ chức Y tế thế giới Giá trị của YHCT đã được TCYTTG khẳng định rõ "Không cần chứng minh lợi Ých của YHCT, mà cần phải đề cao và khai thác rộng rãi hơn nữa những khả năng của nó có lợi cho toàn thể nhân loại, phải đánh giá và công nhận theo đúng giá trị của nó và làm nó hữu hiệu hơn. Đó là hệ thống mà dân chúng từ trớc đến nay đã coi nh của mình và chấp nhận không hạn chế. Hơn thế dù ở đâu nó cũng có lợi nhiều hơn những hệ thống từ ngoài, vì nó là một bộ phận không thể tách rời của nền văn hoá nhân dân" [37]. Do vậy, trong chiến lược YHCT (2002-2005) của TCYTTG [37] đã nêu rõ: Kết hợp chặt chẽ nền YDCT trong hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia. Tức là YDCT cần phải được lồng ghép vào mọi dịch vụ chăm sóc sức khỏe như mọi bệnh viện, mọi phòng khám, mọi biện pháp điều trị, chăm sóc hay phục hồi chức năng... Phải tích cực làm cho các dịch vụ YDCT được phổ biến ở mọi chỗ, mọi nơi, để cho mọi người dân dễ tiếp cận với dịch vụ này kể cả trong lĩnh vực nhà nước hay tư nhân. Cũng cần thiết lồng ghép chặt chẽ trong công tác đào tạo về YDCT. 3.3 Tỡnh hình khám chữa bệnh bằng YHCT ở một số nước trên thế giới: Sử dụng và đưa YHCT trong hệ thống CSSK quốc gia đó và đang là vấn đề được nhiều nước quan tâm. Chính sách cho YDCT có sự khác nhau 4 giữa các nước hay cỏc vựng miền. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lịch sử dân tộc, văn hóa, tốn giáo, thái độ, triết lý...Nhưng nhìn chung, dựa vào yếu tố văn hóa, có thể chia ra cỏc vựng miền chính sách cho YDCT như sau: Châu Á, Châu Phi, Ả-rập, Mỹ bản địa, Trung và Nam Mỹ, Đại tây dương. Hiện nay, chỉ có rất ít nước phát triển chính sách cụ thể cho YDCT, 25 nước trong số 191 nước thuộc Tổ chức Y tê thế giới xác định có chính sách cho YDCT. Bên cạnh đó chung cho toàn thế giới, Tổ chức Y tế thế giới phát triển những định hướng, chính sách và hướng dẫn chung cho sự phát triển của nền YDCT. Dựa trên hướng dẫn của TCYTTG, một số nước đã lồng ghép khá tốt các dịch vụ YDCT trong chăm sóc sức khỏe ban đầu. Tuy nhiên, do tiềm năng, điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi nước khác nhau, nên các hình thái tổ chức và phương thức hoạt động của YHCT rất đa dạng và không giống nhau cho các nước. Sau đây, xin giới thiệu sơ lược về tình hình khám chữa bệnh bằng YHCT của một số quốc gia trên thế giới. 3.3.1. Campuchia: YHCT tại Cămpuchia (còn gọi là YHCT Khmer) có từ lâu đời và được người dân sử dụng chủ yếu theo kinh nghiệm tại các cộng đồng. Trong chế độ Khmer Đỏ vào những năm 70, các kiến thức, kỹ năng y học hiện đại ít được sử dụng, dẫn tới việc sử dụng các thuốc YHCT là biện pháp chăm sóc sức khỏe duy nhất cho người dân đất nước này. Sau khi Nhà nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Campuchia được thành lập năm 1979, YHCT chính thức được chính phủ Campuchia khuyến khích sử dụng. Năm 1998, Nghị định về Chính sách Thuốc quốc gia được Chính phủ thông qua. Tháng 7/2004, Thủ tướng chính phủ Campuchia tuyên bố “Chính phủ Hoàng gia sẽ tiếp tục khuyến khích việc sử dụng các sản phẩm YHCT với thông tin thích hợp và sẽ kiểm soát việc kết hợp sử dụng với thuốc tõy” [5]. 5 Chính phủ Hoàng gia Cămpuchia công nhận việc hành nghề YHCT và sử dụng thuốc YHCT trong hệ thống cùng YHHĐ. Tuy nhiên hiện nay tại Cămpuchia, YHCT vẫn không được liên kết hoặc lồng ghép chính thức với hệ thống y tế quốc gia do các bác sỹ, dược sỹ và các nhân viên y tế chưa có đầy đủ kiến thức về YHCT và chưa rõ về các lợi thế cũng như hạn chế của YHCT, chưa có niềm tin vào tính an toàn và hiệu quả của YHCT cũng như tôn trọng vai trò của các thầy thuốc YHCT. YHCT chủ yếu vẫn chỉ được dùng ở các hộ gia đình và cộng đồng, và được thực hiện bởi các thày lang hoặc chính người dân theo kinh nghiệm của bản thân họ. Bên cạnh đó, cũng tồn tại hình thức dịch vụ YHCT tư nhân của một số cộng đồng người Hoa và của Việt Nam được nhà nước cho phép. Như vậy, về chính sách thì Chính phủ Hoàng gia Campuchia có cho phát triển YHCT, nhưng việc lồng ghép và ứng dụng YHCT trong chăm sóc sức khỏe gần như không có, mà chỉ có ở tuyến cơ sở, tồn tại như một hình thức chữa bệnh phục vụ cộng đồng [5]. Bộ y tế Sở y tế các tỉnh thành Y tế các ngành Y tế huyện quận Dịch vụ y học cổ truyền trong cộng đồng Sơ đồ 1. Y học cổ truyền trong hệ thống y tế của Campuchia 6 Nhận xét: Như vậy, mặc dù YHCT được pháp luật công nhận nhưng do nhiều nguyên nhân mà dịch vụ khám chữa bệnh YHCT chỉ tồn tại trong cộng đồng dân cư. Các nghiên cứu về thực trạng sử dụng YHCT ở quốc gia này rất ít. Một số nghiên cứu nhỏ về tác dụng của một số dược liệu thông thường được cộng đồng sử dụng như gừng, nghệ được thực hiện chủ yếu bởi các nghiên cứu viên thuộc ngành dược [5]. 3.3.2. Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào: YHCT là một phần của nền văn hóa Lào. Từ xa xưa, người dân Lào đó có một hệ thống chữa bệnh cổ truyền của riêng mình truyền bá từ thế hệ này qua thế hệ khác Từ khi thành lập nước CHDCND Lào, nhận rõ vai trò quan trọng của YHCT, Chính phủ luôn khuyến khích sử dụng YHCT rộng rãi trong cả khu vực y tế nhà nước và tư nhân [5].. Năm 1993, Chính phủ Lào đã phê duyệt chương trình chính sách thuốc Quốc gia. Năm 1996, Bộ Y tế Lào đã ban hành chính sách phát triển YHCT. Năm 2000, Luật về thuốc và thiết bị y tế được ban hành. Năm 2003, nghị định số 155/PM Thủ tướng Chính phủ CHDCND Lào xác định biện pháp liên quan đến thúc đẩy, quản lý, khai thác, sản xuất, nuôi trồng, sử dụng và ổn định nguồn thuốc. Dựa trên các chính sách trên, mạng lưới YHCT của Lào được tổ chức khá hệ thống: Bộ phận YHCT được thành lập năm 2004 trong Cục Thuốc và Thực phẩm. Viện YHCT được thành lập năm 1976 có chức năng kế thừa và nghiên cứu YHCT, cung cấp dịch vụ khám điều trị và phục hồi chức năng cho bệnh nhân, đồng thời trợ giúp kỹ thuật YHCT cho tuyến dưới. 7 Đã thành lập được bộ phận YHCT tại một số bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh và tuyến huyện để cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh bằng YHCT cho người dân; và thiết lập được 12 trạm và tổ YHCT ở 12 tỉnh trên toàn quốc. Đây là nơi người dân địa phương được điều trị các bệnh thông thường và được tư vấn về cách điều trị, phòng bệnh [5].. Bên cạnh đó, còn đội ngũ các thầy thuốc từ các dân tộc thiểu số cũng tham gia vào sự phát triển của YHCT dưới các hình thức như sản xuất thuốc cổ truyền tại nhà, các thuốc bổ trợ, sauna và xoa bóp cổ truyền [5].. Bộ y tế Cục thuốc và thực phẩm Bộ phận YHCT Viện Y học cổ truyền Các cục chức năng Sở y tế tỉnh thành Tổ trạm y học cổ truyền Chỉ đạo trực tiếp Chỉ đạo về chuyên môn kỹ thuật Sơ đồ 2. Y học cổ truyền trong hệ thống y tế của Lào Nhận xét: Mô hình YHCT của CHDCND Lào được pháp luật công nhận và được phát triển từ trên xuống. Hiện tại các tuyến cơ sở đang được duy trì và củng cố. 8 Những nghiên cứu đánh giá tổng thể về thực trạng khám chữa bệnh bằng YHCT trên toàn quốc gia chưa được tiến hành. Một khảo sát sơ bộ của Bộ Y tế Lào về cây thuốc trên toàn quốc cho thấy có khoảng 5000 loài trong đó có khoảng 1500 loài được tìm thấy và chứng minh. Tuy nhiên các nhà thực hành YHCT mới chỉ sử dụng khoảng 500 loài cho chữa bệnh. Phần lớn các cây thuốc chủ yếu được người dân sử dụng dưới dạng tự nhiên hoặc dạng thuốc thực phẩm chứ chưa được nghiên cứu đầy đủ [14].. Bên cạnh việc đưa ra những chính sách hỗ trợ cho YHCT như chính thức đưa YHCT vào hệ thống y tế quốc gia, khuyến khích các doanh nghiệp dược sản xuất chế phẩm YHCT, chính phủ cũng quan tâm đến đào tạo cán bộ YHCT. Thông qua các hợp tác quốc tế với Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ…việc đào tạo hiện tập trung phát triển số lượng cán bộ YHCT nhưng phần lớn chỉ có trình độ trung cấp là chủ yếu [5]. . 3.3.3. Indonesia [5], [23] YHCT được sử dụng tại Indonesia từ thế kỷ 15 và hiện nay vẫn được người dân thực hành như một phần trong đời sống hàng ngày để duy trì sức khỏe và chữa bệnh. Là 1 quốc đảo trong miền khí hậu nhiệt đới, Indonesia có nguồn dược liệu phong phú trong 30.000 loài cõy cú 940 loài loài được thừa nhận là cây thuốc và có 250 loài được sử dụng trong sản xuất thuốc YHCT. Theo 1 khaỏ sát năm 2000, Indonesia có 281.492 nhà thực hành YHCT bổ sung/thay thế ở trong và ngoài hệ thống y tế, 25.077 người làm xoa bóp, 14.000 chuyên gia vè dược thảo, 26.917 nhà kê dơn thuốc cổ truyền gồm cả bác sỹ, y tá và dược sỹ, 10180 người chữa bệnh theo thiên nhiên (ăn uống, vận động không cần thuốc), 8781 người bó xương theo phương pháp YHCT. Có 2,7% dân số dùng YHCT thay thế làm dịch vụ ngoại trú [14].. 9 3.3.4. Malaysia Luật lệ về thuốc và mỹ phẩm năm 1984 khởi đầu, việc kiểm tra có hệ thống các dược phẩm bao gồm thuốc cổ truyền. Việc đăng ký hành nghề thuốc cổ truyền bắt đầu từ tháng 1/1992. Đến tháng 10/1995 cú trờn 15000 người hành nghề tư nhân YHCT được cấp phép. Trong đó có 67% người hành nghề đăng ký sử dụng thuốc Trung y, 13% đăng ký sử dụng thuốc cổ truyền Malaysia [5], [14]. 3.3.5. Myanmar YHCT tại Myanmar có từ 300 năm trước. Hiện tại đang thực hành tại Myanmar có 4 môn thực hành là hệ thống Desana, hệ thống Bhesiji, hệ thống Netkhatta và hệ thống Vijadhara. Y học Ayurveda bao gồm hệ thống Bhesiji được thực hành rộng rãi ở các thành phố trong đất nước [5].. Myanmar đó có chính sách quốc gia về YHCT. Trong đó ghi rõ “để củng cố các hoạt động dịch vụ và nghiên cứu y học bản địa ngang cấp quốc tế và tham gia vào các hoạt động chăm sóc sức khỏe cộng đồng” [5].. Viện YHCT được thành lập vào năm 1989, trực thuộc Bộ Y tế. Dưới vụ YHCT có phòng YHCT của khu vực, của bang và một số phòng khám y học cổ truyền của quận, huyện, xã. Việc cung cấp chăm sóc sức khỏe bằng thuốc YHCT được thực hiện thông qua các bệnh viện và phòng khám YHCT ở một số bang và khu vực. Có 2 bệnh viện 50 giường và 12 bệnh viện 16 giường, 237 phòng khám YHCT tuyến huyện và thị trấn trong toàn quốc. Ngoài ra nhà nước cũng cho phép các bác sỹ hành nghề YHCT tư nhân cũng tham gia trong việc cung cấp chăm sóc sức khỏe. Hiện tại có khoảng 6000 bác sỹ YHCT đăng ký theo Luật của Hội đồng y học Myanmar [14].. 10 Bộ y tế Viện YHCT YHHĐ Bệnh viện YHCT tỉnh Phòng khám YHCT huyện, thị Sơ đồ 3. Y học cổ truyền trong hệ thống y tế của Myanmar Hiện tại, vụ YHCT đang thực hiện hai nghiên cứu quốc gia là 1)nghiên cứu điều tra thực vật, húa học, dược lý và lâm sàng của loại thuốc thảo dược truyền thống trong đó bao gồm phân tích thường xuyên mẫ thuốc YHCT đăng ký cho điều trị bệnh; 2) nghiên cứu về hệ thống quản lý chất lượng của các nhà máy sản xuất thuốc thuộc vụ YHCT và điều tra các loại thuốc YHCT trên toàn quốc. Ước tính cho đến 2010, có hơn 10.000 thuốc YHCT được đăng ký và cấp phép sản xuất [14]. 3.3.6. Phi-lip-pin YHCT ở quốc gia này cũng chịu ảnh hưởng to lớn của YHCT Trung Quốc. Tuy nhiên, YHHĐ vẫn là ngành y tế đóng vai trò chính trong hệ thống y tế quốc gia. Cho đến 1992, nhận thấy thực tế nhiều người dân không có khả năng chi trả thuốc chữa bệnh YHHĐ, ngành y tế bắt đầu khởi động chính thức chương trình YHCT. Năm 1997, Luật thuốc YHCT và thuốc thay thế được phê duyệt. Trên cơ sở đó, Viện CSSK bằng thuốc YHCT và thuốc thay thế (PIAHC) được 11 thành lập. Viện cung cấp và phân phối các sản phẩm CSSK truyền thống và thay thế. Viện cũng phối hợp với bảo hiểm y tế địa phương, cho phép các thành viên tận dụng lợi ích khi điều trị bằng châm cứu và các hình thức điều trị thay thế khác. Bên cạnh đó, một số trung tâm khu vực về CSSK bằng thuốc YHCT và thuốc thay thế tại một số trường cao đẳng và đại học của nhà nước, phục vụ các thành phần trong mạng lưới của PITAHX và trong việc phổ biến những lợi ích của CSSK bằng thuốc YHCT cũng như thuốc thay thế [5].. Nhà nước cũng khuyến khích lồng ghép YHCT vào hệ thống CSSK quốc gia bao gồm: - Một số bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế lồng ghép YHCT vào điều trị gồm: Bệnh viện cựu chiến binh khu vực, Trung tâm y tế và bệnh viện Marino Marcos; bệnh viện chỉnh hình của Phi-lip-pin; Trung tâm y tế Amanigue. Bệnh viện tư nhân lồng ghép thuốc YHCT vào điều trị gồm y tế thành phố, Trung tâm y tế Delos Santos. Nghiên cứu YHCT tại quốc gia này tập trung nhiều vào nghiên cứu thảo dược theo hướng dẫn của TCYTTG cho các nghiên cứu lõm sàng của thuốc thảo dược như NC thuốc lagundi (Vitex negundo), Sambong (Blummea balsamifera), Yerba buena (cây bạc ha cordifolia), Tsaang Gubat (Camonaretusa) [5], [14]... 3.3.7. Singapore YHHĐ được coi là phương pháp chữa bệnh trong hệ thống CSSK chung và YHCT với các phương pháp chữa bệnh kinh nghiệm lâu đời của các dân tộc khác nhau cũng được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng. Nhà nước cho phép phương pháp khám và chữa bệnh YHCT được sử dụng tại các phòng khám YHCT tư nhân và phòng khám YHCT từ thiện của các tổ chức phi lợi nhuận. Trước 2007, YHCT được phép sử dụng tại các 12 bệnh viện, nhà điều dưỡng và chỉ dành cho người bệnh ngoại trú, đây được coi như dịch vụ riêng biệt, không nằm trong các dịch vụ y tế cung cấp cho bệnh nhân [5].. Năm 2007, Bộ y tế đã cho phép các bác sỹ đăng ký hành nghề y tế và nha sỹ đồng thời có đăng ký hành nghề YHCT đó là được làm châm cứu và coi đó như một dịch vụ nằm trong nội dung hành nghề y của họ. Ngoài ra các bệnh viện và phòng khám cũng cho phép tuyển dụng những người thầy thuốc thực hành YHCT có đăng ký làm châm cứu để phục vụ cho bệnh nhân [5].. Năm 2004, Bộ y tế đã tiến hành một khảo sát cho thấy có 53% số dân đã được khám và điều trị bệnh bằng YHCT và trong vòng 1 năm qua số lượng bệnh nhân đã tăng lên đáng kể so với năm 1994 con số này là 45% [14].. Các NC về YHCT được các trường đại học và bệnh viện địa phương tiến hành tập trung chủ yếu để sử dụng YHCT và châm cứu trong giảm đau, phục hồi chức năng sau tai biến và cai nghiện thuốc lá [14].. 3.3.8. Thái Lan Là nước có truyền thống rất lâu đời về YHCT. Từ năm 1950 đến năm 1980, sự lấn át mạnh mẽ của YHHĐ và việc coi trọng phát triển YHHĐ đã đưa đến hậu quả YHCT gần như bị triệt tiêu. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và quy mô CSSKBĐ ở Thái Lan. Từ năm 1980, Chính phủ và ngành Y tế Thái Lan đã khẩn trương thiết lập chính sách phát triển thuốc thảo mộc trên phạm vi toàn quốc. Những điều tra cơ bản về cây thuốc, những nghiên cứu dược học, y xã hội học được triển khai nhằm hỗ trợ cho chiến lược này đã được triển khai[30].. Song song với các hoạt động kể trên, Thái Lan đã bắt đầu tổ chức và triển khai kế hoạch thành lập các trung tâm YHCT tại các tỉnh và đưa dần từng bước YHCT vào mạng lưới cung cấp dịch vụ YHCT trong hệ thống y tế nhà nước. 13 Tính đến 2003, đó cú 83,3% các bệnh viện địa phương và trung ương và 67,8% bệnh viện cộng đồng ở Thái Lan có cung ứng dịch vụ YHCT của người Thái. Hệ thống đào tạo YHCT gồm các trường đại học, viện YHCT Thái Lan đã đào tạo được 14.912 nhà thực hành YHCT Thái, 379 nhà ứng dụng thực hành YHCT, 18.999 nhà thực hành dược cổ truyền, 2869 nữ hộ sinh cổ truyền [5].. Thái Lan cũng đã thành lập mạng lưới nghiên cứu về YHCT giữa Vụ phát triển YHCT và biện pháp thay thế (DTAM) sở KHCN, các trường đại học, bệnh viện và viện nghiên cứu YHCT Thái Lan. Từ năm 2000-2003 có 395 tài liệu dược thảo YHCT được công bố, trong đú cú 31 đề tài được thử nghiệm lâm sàng tại các bệnh viện của các trường đại học và Bệnh viện công [14].. 3.3.9. Nepal Theo báo cáo của Bộ Y tế Nepal cho đến năm 1992 có 145 trung tâm YHCT sử dụng Ayurveda và các phương pháp YHCT khác trong hoạt động phòng và chữa bệnh. Hơn 50% các trung tâm y tế đa khoa có sử dụng Ayurveda cùng với y học hiện đại để điều trị [14]. . 3.3.10. Ấn Độ Cộng hòa Ấn độ có di sản giàu có về hệ thống YHCT chăm sóc sức khỏe từ nhiều thế kỷ. Hệ thống YHCT là Ayurveda, Yoga tồn tại gần 7000 năm. Chính phủ Ấn độ thừa nhận các hệ thống cổ truyền đã được hệ thống hóa (nhờ Ayurveda), cũng như các cách chữa bệnh không cần thuốc như Yoga, Siddha, Unani và các hệ thống y tế Tây Tạng đều được nhà nước công nhận và tạo điều kiện cho phát triển [14]. . Chính sách của Ấn Độ về YDCT có nhiều điểm tương đồng với các nước khác, nhất là cũng dựa vào chiến lược của WHO và gần giống chính sách của Trung Quốc. 14 - Coi trọng công tác đào tạo YDCT, coi đó là một sự lồng ghép vào chương trình quốc gia. - Lồng ghép chặt chẽ YDCT vào hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia, nhưng vẫn chưa lồng ghép YDCT vào YHHĐ. Hai nên y học tồn tại song song [24]. - Thúc đẩy nghiên cứu khoa học và đầu tư kinh phí cho nghiên cứu khoa học trong YDCT. - Thành lập một tổ chức quốc gia (tương đương với cơ quan Bộ) phụ trách, quản lý YDCT bao gồm các nền y học dân tộc như Ayurveda, Yoga, Unani, Siddha và Homoeopathy (phép chữa vi lượng đồng cân) để thúc đẩy sự phát triển của y học bản địa từng vùng. - Xây dựng chuẩn quốc gia về thuốc YHCT, tăng cường sự tiếp cận của người dân đối với thuốc YHCT, làm cho thuốc sẵn có mọi lúc, mọi nơi. - Phát triển hệ thống thông tin, liên lạc về YDCT giúp tăng cường trao đổi thông tin. - Huy động sự tham gia của toàn bộ hệ thống quốc gia vào cung cấp dịch vụ y tế trong đó có YDCT. - Tăng cường đào tạo và quảng bá YDCT Ấn Độ ở nước ngoài. - Đưa các sản phẩm của YDCT vào các chương trình y tế quốc gia, ví dụ như chương trình Phúc lợi gia đình do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Dùng thuốc YHCT điều trị một số bệnh thông thường. - Xõy dựng các phòng thí nghiệm để kiểm định chất lượng thuốc YHCT . Hiện tại, Ấn độ có đến 500.000 nhà thực hành YHCT có đăng ký (5 nhà thực hành/1000 dân), trong chương trình y tế quốc gia về nhi khoa có 7 đơn thuốc Ayurveda và 5 đơn thuốc Unani y được đưa vào. Có khoảng 70% người Ấn độ sử dụng YHCT cho nhu cầu CSSKBĐ. 15 Ấn độ có 3 hội đồng nghiên cứu trung tâm đang hướng dẫn thăm dò lâm sàng và điều trị cho 18 loại bệnh. Các NC lâm sàng đi vào thuốc mới như chữa trĩ, đa kinh, thấp khớp, đái tháo đường [14].. 3.3.11. Trung Quốc Trung Quốc là một đất nước mà nền YHCT có lịch sử rất lâu đời và phát triển thành một hệ thống rất hoàn chỉnh. Ngày nay, vấn đề kết hợp YHCT với YHHĐ trong hệ thống y tế quốc gia là một trong những chủ trương chính của Trung Quốc. Tính đến năm 1995 Trung Quốc đó cú 2 522 bệnh viện YHCT với 353 373 nhân viên y tế và 236 060 giường bệnh. Những bệnh viện này đã điều trị 200 triệu bệnh nhân ngoại trú và 3 triệu bệnh nhân nội trú một năm. Đồng thời 95% các bệnh viện ở Trung Quốc có khoa YHCT . Hiện nay, năm 2011 theo số liệu của Cục Quản lý Trung y dược quốc gia Trung Quốc có 3009 Bệnh viện YHCT, với 28 Học viện Trung y, 57 cơ sở nghiên cứu [1].. Mô hình KCB YHCT Trung Quốc theo tuyến Cục quản lý Trung y dược quốc gia Cục quản lý Trung y dược tỉnh thành Khoa Trung y huyện thị Sơ đồ 4. Mô hình YHCT từ Trung ương đến cơ sở Nhận xét: Sơ đồ trên cho thấy nước CHDCND Trung Hoa đó cú chính sách để phát triển YHCT một cách toàn diện, đều khắp từ tuyến Trung ương tới tuyến cơ sở.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan