Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tình hình giáo dục song ngữ ở gia đình hàn việt tại hàn quốc...

Tài liệu Tình hình giáo dục song ngữ ở gia đình hàn việt tại hàn quốc

.PDF
66
59
99

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LEE DONG KOAN TÌNH HÌNH GIÁO DỤC SONG NGỮ Ở GIA ĐÌNH HÀN-VIỆT TẠI HÀN QUỐC LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI, 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LEE DONG KOAN TÌNH HÌNH GIÁO DỤC SONG NGỮ Ở GIA ĐÌNH HÀN-VIỆT TẠI HÀN QUỐC Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 8 22 90 20 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : GS. TS. NGUYỄN VĂN KHANG HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Ngoài phần trích dẫn đã nêu cụ thể trong từng chương, mục, các kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn xác thực và chưa từng được công bố bởi bất cứ tác giả nào. Tác giả luận văn Lee Dong Koan MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................ 14 1.1. Một số vấn đề về đào tạo song ngữ .............................................. 20 1.2. Giới thiệu gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc hiện nay ................... 24 Chương 2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO SONG NGỮ CHO CÁC GIA ĐÌNH ĐA VĂN HÓA HÀN-VIỆT TẠI HÀN QUỐC(QUA PHỎNG VẤN) ................................................................................................. 31 2.1. Cách thức thu thập tư liệu về thực trạng đào tạo song ngữ đối với các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt ....................................................... 31 2.2. Những thách thức, khó khăn của đào tạo song ngữ ở gia đình đa văn hóa Hàn-Việt ............................................................................... 32 2.3. Nhũng dấu hiệu tích cực đối với đào tạo song ngữ trong tương lại ở các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt ....................................................... 42 Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆC ĐÀO TẠO SONG NGỮ Ở CÁC GIA ĐÌNH ĐA VĂN HÓA TẠI HÀN QUỐC .......................................................................................................... 49 3.1.Về thời gian đào tạo tiếng Việt ..................................................... 49 3.2. Về chương trình và nội dung đào tạo ........................................... 50 3.3. Về chất lượng giáo viên ............................................................... 51 3.4. Về chính sách .............................................................................. 52 KẾT LUẬN ........................................................................................ 55 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. 58 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Suốt chiều dài lịch sử phát triển hàng nghìn năm, Hàn quốc là một quốc gia khá thuần nhất, hôn nhân thường khép kín, đặc biệt là chưa có nhiều kinh nghiệm sống chung với các dân tộc khác. Ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội, sự hội nhập, giao lưu kinh tế cũng như toàn cầu hóa làm cho số lượng người lao động nước ngoài, người nhập cư theo diện kết hôn đã làm thay đổi cục diện bức tranh về sắc tộc của Hàn Quốc. Bắt đầu từ sau những năm 1990, cùng với sự phát triển nhanh về kinh tế và sự giao lưu hội nhập quốc tế, Hàn quốc đã bắt đầu đón nhận người nước ngoài đến với cộng đồng của mình làm việc. Cùng với thời gian số lượng người nước ngoài ở Hàn quốc ngày càng tăng, đặc biệt là phụ nữ nhập cư theo diện kết hôn và con cái của các gia đình đa văn hóa tăng rất mạnh đồng thời tiếp tục gia tăng hơn trong thời gian gần đây. Có thể nói, Hàn Quốc đã trở thành một quốc gia đa văn hóa đích thực, với các thành viên xuất thân từ nhiều nền văn hóa khác nhau. Điều này tạo nên sự phong phú và đa dạng về văn hóa và sắc tộc. Tuy nhiên, điều này cũng đưa Hàn Quốc phải đương đầu với rất nhiều khó khăn. Bởi một xã hội đa văn hóa thì sẽ không thể tránh khỏi những xung đột, mâu thuẫn về văn hóa ứng xử, về ngôn ngữ, về thói quen sinh hoạt của những cư dân cấu thành nên nó. Sẽ có nhiều vấn đề phức tạp xuất hiện như chưa từng xảy ra trước đó trong xã hội truyền thống. Trong bối cảnh các gia đình đa văn hóa ngày càng tăng nhanh, đường biên giới giữa các thành viên trong gia đình đa văn hóa ngày càng bị xóa nhòa. Hàn Quốc đang tận dụng tốt tính đa dạng này trên cả 1 nội dung và tinh thần để xây dựng một cường quốc đa văn hóa, góp phần khẳng định thương hiệu quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế mà chính phủ Hàn quốc đã thay đổi hàng loạt các chính sách, pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội hướng đến một xã hội đa văn hóa cùng sinh sống hòa bình. Và một trong những chính sách mà chính phủ Hàn Quốc ưu tiên phát triển trước tiên đó là chính sách phát triển ngôn ngữ cho các thành viên trong gia đình đa văn hóa, tập trung nhất vào đối tượng là trẻ em. Bao gồm cả tiếng Hàn quốc và tiếng mẹ đẻ, nhằm giúp họ nhanh chóng hòa nhập được với cuộc sống ở nơi đây. Tuy nhiên, những chính sách phát triển ngôn ngữ này của Chính phủ cũng gặp không ít khó khăn bởi rất nhiều nguyên nhân. Và Hàn quốc cũng đang từng bước để phá vỡ những rào cản đó. Chính sách đào tạo ngôn ngữ của Hàn Quốc cũng liên tục được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình có thực tế. Trong thời gian gần đây chính phủ đã ban hành thêm một số chính sách đào tạo song ngữ dành cho các thanh thiếu niên của các gia đình đa văn hóa có khả năng nói cả tiếng Hàn và tiếng mẹ đẻ, chẳng hạn như tổ chức các kỳ cuộc thi song ngữ. Điều đó nhằm khuyến khích cho thế hệ trẻ của các gia đình này tích cực học ngôn ngữ để giúp họ được phát triển hoàn thiện hơn, khi được tương tác với cả bố và mẹ. Theo số liệu thống kê của Bộ Hành chính nội vụ Hàn Quốc, người nhập cư theo diện kết hôn ở Hàn Quốc người Trung Quốc chiếm tỉ lệ lớn nhất. Với hơn 20% của tổng số các gia đình đa văn hóa. Sau đó là người nhập cư từ Việt Nam với khoảng 16%. Ngoài ra còn có bộ phận thiểu số đến từ Philippines, Đông Âu, Tây Âu…. Đây chính là lý do tôi chọn đề tài “Nghiên cứu về giáo dục song ngữ của các gia đình đa văn hóa Hàn - Việt tại Hàn Quốc”. Với mong muốn thông qua nỗ 2 lực tìm hiểu và nghiên cứu của mình để có thể lý giải được những khó khăn cũng như rào cản của người phụ nữ Việt Nam trong quá trình học tiếng Hàn quốc cũng như dạy con em mình tiếng mẹ đẻ. Đặc biệt là sự tham gia của người di cư Việt Nam trong quá trình đào tạo song ngữ như thế nào. Để từ đó chúng tôi muốn đề xuất những kiến nghị, giải pháp mới cho phù hợp với chính sách đào tạo song ngữ của Hàn Quốc hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2.1. Nghiên cứu tại Hàn Quốc Nghiên cứu về đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc khá ít. Các nghiên cứu về thực tế đào tạo song ngữ cho trẻ em của các gia đình đa văn hóa chủ yếu tập trung vào việc xác định các rào cản đối với đào tạo song ngữ của trẻ em trong gia đình di dân kết hôn1, điều này đã được thực hiện để xác minh tính hiệu quả của sự hỗ trợ của các tổ chức quốc gia và nâng cao nhận thức về sự cần thiết và tầm quan trọng của hỗ trợ đào tạo song ngữ và nhấn mạnh rằng cần hỗ trợ chính sách. Lee Chang-Deok(2010) trình bày cơ sở lý luận về hỗ trợ đào tạo song ngữ ở Hàn Quốc, xem xét khái niệm và lịch sử của đào tạo song ngữ, gợi ý đào tạo song ngữ bao gồm học sinh phổ thông, giáo viên song ngữ và giáo viên đào tạo đa văn hóa. Đặc biệt, nó chỉ ra môi trường đào tạo song ngữ yếu kém trong trường học. 2 Hong Jong-Myeong(2012), “Nghiên cứu phân tích chiến lược học tiếng Hàn danh cho du học sinh đến từ Việt Nam”, Ngữ văn luận tập, Tập 71, 407-432 2 Lee Chang-Deok(2010), “Đào tạo song ngữ dành cho xã hội đa văn hóa Hàn Quốc”, Hiệp hội nghiên cứu về đào tạo đa văn hóa Hàn Quốc 1 3 Won In-Sook(2012) 3 và Jang Myeong-Lim(2012) 4 đã lưu ý tầm quan trọng của đào tạo song ngữ ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ở chỗ đó là thời gian ngôn ngữ được hình thành như một công cụ giao tiếp đầu tiên sau khi sinh trong các gia đình đa văn hóa. Các chương trình đào tạo song ngữ bằng tiếng Hàn và tiếng Việt đã được tìm thấy có tác động tích cực đến sự tự tin của người mẹ, lòng tự trọng của trẻ sơ sinh và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Điều này dẫn đến việc xác định tầm quan trọng của đào tạo song ngữ cho trẻ em của các gia đình đa văn hóa. Ngoài ra, nghiên cứu về trải nghiệm song ngữ của các gia đình đa văn hóa trong các chương trình hỗ trợ sử dụng truyện cổ tích truyền thống đã làm tăng sự quan tâm của con cái đối với ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ mẹ đẻ nói tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày. 5 Nghiên cứu cho thấy rằng giao tiếp cảm xúc với trẻ em được cung cấp và trẻ em có cơ hội học văn hóa và ngôn ngữ của đất nước mẹ cho thấy cần có sự hỗ trợ tích cực cho việc đào tạo song ngữ của trẻ em từ các gia đình đa văn hóa. 6 Khi nói chuyện với trẻ em thông qua ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng, những người nhập cư kết hôn có thể làm sâu sắc cuộc trò chuyện của họ và mở rộng sự đồng cảm của họ, và thanh niên đa văn hóa học ngôn Won In-Sook(2012), “Ảnh hưởng của các chương trình song ngữ của trẻ em trong các gia đình đa văn hóa đối với lòng tự trọng và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái”Giáo dục Mầm non, Nghiên cứu về Quản trị chăm sóc trẻ em, Tập 16, Số 1: 87-105 4 Jang Myeong-Lim, Jang Hye-Jin, Lee Se-Won(2012), “Ứng dụng thử nghiệm và giám sát các chương trình song ngữ dành cho những cha mẹ của các gia đình và trẻ sơ sinh đa văn hóa(Bản báo cáo nghiên cứu, 02/01/2011), Seoul:, Sở nghiên cứu chính sách chăm sóc trẻ em, Viện phát triển đào tạo Hàn Quốc 5 Lee Seung-Sook, Kwak Seung-Ju(2013), “Khám phá kinh nghiệm song ngữ của trẻ sơ sinh trong các gia đình đa văn hóa: Tập trung vào sự hỗ trợ phát triển ngôn ngữ bản địa”, tuyển tập luận văn Giáo dục Mầm non, Tập 17(4), 249-378 6 Cho Seung-Seok, Kim Hee-Soon(2013), “Nghiên cứu về đào tạo song ngữ của trẻ em được các bà mẹ đa văn hóa trải nghiệm”, Tạp chí của Hiệp hội công nghệ giữa Công nghiệp và Học tập Hàn Quốc, Tập 14(11), 5549~5558 3 4 ngữ mẹ đẻ của họ để tăng sự hiểu biết và niềm tự hào về đất nước mẹ của họ. Nó cũng có thể thay đổi các mối quan hệ gia đình chưa được liên lạc. 7 Nghiên cứu của Hwang Jin-Young(2012) đã so sánh các trường hợp Hàn Quốc và nước ngoài trong đào tạo song ngữ và chính sách đào tạo, và kiểm tra nhận thức chung về đào tạo đa văn hóa của những người nhập cư hôn nhân Hàn Quốc. Theo khảo sát, những người nhập cư kết hôn đã chọn đào tạo văn hóa song ngữ cho người Hàn Quốc cũng như đào tạo nhận thức đa văn hóa cho người Hàn Quốc cũng như đào tạo ngôn ngữ Hàn Quốc là chính sách đào tạo cấp bách nhất. 8 Cho Young-Dal Cho (2007) nhấn mạnh sự cần thiết của giáo viên và trường học để nâng cao nhận thức chung về đào tạo song ngữ.9 Bộ Gia đình và Phụ nữ Hàn Quốc phân tích hiện trạng đào tạo tại các trường học và các trung tâm hỗ trợ gia đình đa văn hóa và đưa ra các đề xuất để cải thiện đào tạo song ngữ.10 Các nghiên cứu và báo cáo ở trên có ý nghĩa trong đó họ kiểm tra đào tạo song ngữ của trẻ em từ các gia đình đa văn hóa và đưa ra các câu hỏi cụ thể dựa trên chúng. Nó cho thấy rằng sự quan tâm nghiêm túc trong đào tạo song ngữ cho các gia đình đa văn hóa đang gia tăng. Tuy nhiên, đối với các đề xuất chính sách, trước tiên phải hiểu rõ về lĩnh vực thực tế hiện tại. Nhưng đó không phải là phỏng vấn bằng Shin Yun-Jin(2010), “Thích ứng khó khăn và mối quan hệ ngang hàng của trẻ em từ các gia đình đa văn hóa”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Daegu 7 Hwang Jin-Young(2012), “Nghiên cứu về đào tạo song ngữ trong xã hội đa văn hóa Hàn Quốc”, Luận văn tiến sĩ, Đại học Jeon-Nam 9 Cho Young-Dal, Yun Hui-Cheol, Park Sang-Cheol(2007), “Nghiên cứu về tình trạng đào tạo trẻ em trong các gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc”, Nghiên cứu và thực tiễn đào tạo, Tập 71 10 Bộ Gia đình và Phụ nữ Hàn Quốc, “Nghiên cứu về kế hoạch cải thiện và thực thể của đào tạo song ngữ,” 2013 8 5 tiếng Hàn hay dạy song ngữ, mà là hướng hỗ trợ những gì cần thiết để học ngôn ngữ của một bà mẹ nước ngoài để tăng cường hiệu quả của chính sách đồng hóa ở Hàn Quốc. 2.2. Nghiên cứu tại Việt Nam Ở Việt Nam, trước và trong thập niên 70 của thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ học chủ yếu nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ, về các trạng thái song ngữ các dân tộc với tiếng Việt theo hướng xã hội học ngôn ngữ. Năm 1983, Phan Ngọc và Phạm Đức Dương cho công bố cuốn “tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á” gồm 2 phần: 1) Lý luận đại cương về tiếp xúc ngôn ngữ và việc tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á. 2) Ba thời kỳ tiếp xúc của tiếng Việt: với các ngôn ngữ Đông Nam Á để hình thành tiếng Việt; với các ngôn ngữ Hán và Ấn để hình thành ngôn ngữ quốc gia Đại Việt; với các ngôn ngữ Pháp và châu Âu để hiện đại hóa tiếng Việt.11 Đây là công trình quan trọng mở đầu cho việc nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam. Từ năm 1995 trở lại đây, xuất hiện một số công trình nghiên cứu những vấn đề song ngữ và đa ngữ ở Việt Nam với các nhà nghiên cứu có tên tuổi trong giới ngôn ngữ học Việt Nam như Nguyễn Văn Khang 1213; về lịch sử tộc người thông qua các hiện tượng song ngữ của Nguyễn Văn Lợi14; Phạm Đức Dương, Phan Ngọc(1983), “Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á: Những vấn đề lịch sử văn hóa Đông Nam Á”, Viện Đông Nam Á 12 Nguyễn Văn Khang(2003), “Kế hoạch hóa ngôn ngữ - Ngôn ngữ học xã hội vĩ mô”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 13 Nguyễn Văn Khang(2007), “Từ ngoại lai trong tiếng Việt”, Nxb Khoa học Xã họi, Ha Nội 14 Nguyễn Văn Lợi(1999), “Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, Dân tộc học”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3/1999 11 6 nên vấn đề song ngữ và đa ngữ ở tầm vĩ mô của Nguyễn Văn Lợi15 và Lý Toàn Thắng.16 Bên cạnh những công trình chủ yếu đề cập tới vấn đề lý thuyết có liên quan nhiều tới chính sách ngôn ngữ kể trên, đã xuất hiện một số bài viết về thực trạng song ngữ Anh-Việt, Pháp-Việt, song ngữ HmôngViệt của một số nhà nghiên cứu. Cho đến nay, những nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ và trạng thái song ngữ Anh, Pháp, Trung, Nga – Việt còn tản mạn và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống. 2.3. Đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt tại Hàn Quốc. Để cung cấp đào tạo song ngữ cho các gia đình đa văn hóa của học sinh trường tiểu học và trường trung học, Bộ đào tạo Hàn Quốc đã phát triển một chương trình bồi dưỡng giáo viên song ngữ ở Seoul và Gyeonggi-do và đưa họ vào các trường tiểu học và trường trung học cho phụ nữ nhập cư có bằng cử nhân từ năm 2009. 17 Phụ nữ nhập cư đã kết hôn được chỉ định đến trường làm người dạy song ngữ bằng cách hoàn thành các chương trình giảng dạy, chuyên ngành và bài tập, kinh nghiệm văn hóa, song ngữ và tư vấn.18 Hệ thống giáo viên song ngữ đã được mở rộng trên toàn quốc kể từ năm 2013. Giáo viên song ngữ dạy học sinh gia đình đa văn hóa trong các gia đình đa văn hóa, đào tạo quốc tế và ngoại ngữ, cũng như học sinh song ngữ trong các trường Nguyễn Văn Lợi(2000), “Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ ở các quốc gia đa dân tọc”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/2000 16 Lý Toàn Thắng, Nguyễn Văn Lợi(2001), “Về sự phát triển của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong thế kì 20”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2/2001 17 Jeon Ui-Hee(2009), “Một nghiên cứu về mối quan hệ giữa đào tạo dinh dưỡng ở trường mẫu giáo và tiểu học”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Kon-Kuk 18 Lee Hyeon-Yi(2013), “Nghiên cứu và phân tích về vai trò của người dạy song ngữ”, Luận văn thạc sĩ, Viện cao học giáo dục, Đại học Giáo dục Quốc gia Seoul 15 7 học.19 Chương trình đào tạo người dạy song ngữ, được Bộ Đào tạo hỗ trợ, nhằm mục đích đào tạo ngôn ngữ và văn hóa của phụ huynh bằng cách đào tạo các gia đình đa văn hóa như những người hướng dẫn song ngữ thông qua một số sở đào tạo. Từ năm 2010, nó đã được mở rộng đến các trường mẫu giáo. Khi xem xét tỷ lệ các quốc gia từ các gia đình đa văn hóa trong khu vực tài phán, bảy ngôn ngữ đã được chọn, chủ yếu là chương trình đào tạo tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Việt và tiếng Nga. Kể từ đó, sở đào tạo thành phố Kwang-Ju(2014) 20 và sở đào tạo thành phố Seoul(2015) 21 đã thúc đẩy cải thiện hiệu quả đào tạo đa văn hóa của trường, và chuyển sang đào tạo liên văn hóa và hoạt động thí điểm của các lớp học song ngữ. Sở đào tạo thành phố Kwang-Ju đã xem xét các vấn đề trong chương trình giảng dạy đa văn hóa của các trường học địa phương và chỉ ra rằng đào tạo song ngữ hầu như không có đào tạo hệ thống do thiếu cơ sở hạ tầng đào tạo. Trong nỗ lực cải thiện điểm này, năm 2018, bộ gia đình và phụ nữ Hàn Quốc cung cấp thông tin về cuộc sống ở Hàn Quốc và đào tạo trẻ em, được phát triển bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, trên trang web Da-nu-ri. Nó cung cấp một cơ sở dữ liệu để khuyến khích sự tham gia và tham gia vào các lĩnh vực khác nhau của xã hội đòi hỏi song ngữ. Thật đáng khích lệ khi thấy nhận thức ngày càng tăng về tầm quan trọng của đào tạo song ngữ đối với con cái đa văn hóa và tăng hỗ trợ chính sách. Tuy nhiên, nó vẫn được tìm thấy trong lĩnh vực thực tế rằng các vấn đề khác nhau vẫn không thể được xác định bằng cách điều tra đơn giản. Kim Hyun-Ju(2011), “Nghiên cứu trường hợp cụ thể trong đào tạo của người dạy song ngữ tại trường tiểu học”, Luận văn thạc sĩ, Viện cao học giáo dục, Đại học Giáo dục Quốc gia Seoul 20 Sở giáo dục thành phố Kwang-Ju tại Hàn Quốc, 2014 21 Sở giáo dục thành phố Seoul tại Hàn Quốc, 2015 19 8 Đầu tiên, điều quan trọng là phải nhận ra rằng có một thái độ hỗ trợ phân biệt đối xử tùy thuộc vào quốc gia mà song ngữ là của quốc gia nào. Thái độ của gia đình bên người Hàn đối với tiếng mẹ đẻ của những người nhập cư hôn nhân nữ đã rất kỳ thị. Vợ chồng và các thành viên gia đình Hàn Quốc ủng hộ việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của những người nhập cư từ hôn nhân từ các quốc gia nói ngôn ngữ lớn như tiếng Anh và tiếng Nhật, nhưng không được hỗ trợ bởi tiếng mẹ đẻ của các quốc gia nói tiếng thiểu số. Ngoài ra, không đủ để nói rằng chương trình đang được thực hiện trong lĩnh vực trường học có một nền đào tạo kép thích hợp. Không chỉ có rất ít giờ hoạt động ngoại khóa, mà số lượng trường còn ít và gặp khó khăn trong việc tiếp nhận và cung cấp giáo viên. Ví dụ, đào tạo song ngữ tại các trường học, trung tâm hỗ trợ gia đình đa văn hóa và NGO có thể mất 1-2 tiếng một tuần. Ở mức độ này, hiệu quả của việc học song ngữ là không đủ cho mục đích tham gia vào đào tạo song ngữ. Đó cũng là một tình huống mâu thuẫn trong lĩnh vực giảng dạy song ngữ. Ví dụ, người Hàn Quốc là nhân viên hỗ trợ cho người hướng dẫn. Có những vấn đề như giới thiệu các chuyên gia hành chính, những người thiếu hiểu biết văn hóa đáng kể về các quốc gia khác, điều này phải được đặt ra trước các chuyên gia đào tạo về đào tạo song ngữ. Tiếp thu một ngôn ngữ cũng bao gồm sự hiểu biết về văn hóa, vì vậy đầu vào của các chuyên gia cho sự hiểu biết văn hóa nên được xem xét. Tuy nhiên, rất khó để thu hút người dạy chuyên nghiệp trên toàn quốc do ngân sách không đủ. Do đó, những gì bạn có thể học như một người hướng dẫn chỉ là một phần thông tin về đào tạo ngôn ngữ chung, chẳng hạn như làm thế nào để tập trung và quan tâm đến trẻ em trong lớp hoặc 9 phân phối thời gian khoa học. Mặt khác, các tổ chức phi chính phủ, không phải trường học, mời sinh viên nước ngoài từ nhiều quốc gia khác nhau dưới danh nghĩa đào tạo hiểu văn hóa, và thực hiện các bài học rời rạc và đôi khi thay thế nội dung của đào tạo song ngữ. Trẻ em trải nghiệm những cảnh mâu thuẫn trong đó chúng phải đối mặt với các tình huống trong đó học sinh nước ngoài không thể hiểu nội dung của lớp học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn này là tìm ra những khó khăn và những rào cản mà phụ nữ nhập cư Việt Nam phải đối mặt trong việc đào tạo song ngữ trong gia đình; tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn mà mẹ Việt Nam gặp phải từ góc độ ngôn ngữ hay có nguyên nhân từ ngôn ngữ. Luận văn cũng tìm hiểu về chương trình đào tạo song ngữ cho đối tượng là gia đình đa văn hóa. Từ đó, luận văn góp phần vào vấn đề đào tạo song ngữ ở Hàn Quốc cho các đối tượng nhập cư nói chung, người Việt Nam nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu lý thuyết đào tạo song ngữ. - Khảo sát đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa để tìm ra những khó khăn và thuận lợi của mẹ Việt Nam trong quá trình tham gia đào tạo ngôn ngữ cho con em mình. Tìm hiểu những yếu tố chi phối 10 đến việc học tiếng Hàn Quốc của người của bố hoặc mẹ và dạy tiếng Việt đối với con cái. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong phạm vi của luận văn này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các thành viên trong các gia đình đa văn hóa Vi ệt-Hàn tại Hàn Quốc. Chính là phụ nữ Việt nam đã kết hôn với người Hàn Quốc tại các lớp học văn hóa hoặc lớp tiếng Hàn ở các trung tâm đa văn hóa của Hàn Quốc, tại một số thành phố lớn như Seoul, Kwang-Ju, DaeJeon, An-San và Po-Hang. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi chủ yếu tiến hành phỏng vấn và khảo sát những người phụ nữ Việt Nam nhập cư theo diện kết hôn, hiện đang sống và làm việc tại Hàn Quốc từ 5 năm trở lên. Họ đều đã có con đang trong độ tuổi tập nói hoặc đã đi học tiểu học. 4.3. Tư liệu nghiên cứu Nguồn tư liệu nghiên cứu chủ yếu của luận văn được lấy trong các cuốn sách của một số tác giả người Hàn Quốc và Việt nam. Bên cạnh đó còn có một số bài viết, luận văn, luận án của các nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề đào tạo song ngữ nói chung và của Hàn-Việt nói riêng. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo các bài viết trên trang báo điện tử của Hàn quốc và Việt Nam được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép. 11 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Trong phạm vi luận văn này chúng tôi sẽ chủ yếu áp dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phỏng vấn trực tiếp, thông qua các cuộc gặp trực tiếp với những người phụ nữ Việt Nam đã kết hôn với người Hàn. Bên cạnh đó còn có phỏng vấn bổ sung đã được thực hiện thông qua các tin nhắn SNS trên mạng internet chẳng hạn như face-book, Kakao-talk và Zalo. - Phương pháp thống kê, phân tích: Phương pháp này giúp chúng tôi có thể tìm hiểu được những khó khăn và thách thức cũng như những thuận lợi trong việc đào tạo song ngữ đối với gia đình đa văn hóa Việt-Hàn. Tìm ra những yếu tố chi phối và ảnh hưởng nhiều nhất, quyết định tới việc thành công trong việc đào tạo song ngữ trong các gia đình này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1.Về lí luận Luận văn này tập trung nghiên cứu cách đào tạo song ngữ đang diễn ra trong các gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc. Và ý nghĩa của việc họ đào tạo con cái thông qua song ngữ. Từ đó cho thấy đào tạo ngôn ngữ đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các gia đình đa văn hóa nói chung. Nó là chìa khóa mở ra thế giới mới, thế giới của hạnh phúc và thành công của mỗi con người. 6.2.Về thực tiễn Thông qua việc nghiên cứu cách đào tạo song ngữ đang diễn ra trong các gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc và những khó khăn đối với những người nhập cư theo diện kết hôn phải đối mặt cũng như hiệu quả của chương trình đào tạo. Để từ đó đề ra những giải pháp góp phần thúc 12 đẩy cho chương trình đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa được hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phu lục, được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1. Cơ sở lí thuyết của luận văn Chương 2. Thực trạng đào tạo song ngữ cho các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt tại Hàn Quốc (Qua Phỏng Vấn) Chương 3. Kiến nghị về định hướng và các giải pháp để nâng cao hiệu quả đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt. 13 Chương 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Khái niệm và một số vấn đề về song ngữ 1.1.1. Khái niệm song ngữ Song ngữ(Bilingual) được hiểu là việc sử dụng song song hai ngôn ngữ. Người sử dụng song ngữ tức là người có thể sử dụng hai ngôn ngữ song song trong cuộc sống hàng ngày bao gồm: nghe, nói, đọc, viết và hơn thế nữa là có thể cảm nhận bằng cả hai ngôn ngữ đó. Phần lớn, những người sử dụng song ngữ thường có kiến thức ngôn ngữ và năng lực ngôn ngữ thứ nhất – hay còn được gọi là tiếng mẹ đẻ hơn ngôn ngữ thứ hai. Tuy nhiên, cũng có phần không nhỏ, có thể sử dụng cả hai thứ tiếng song song bằng nhau; điều này xảy ra với những người không có tiếng mẹ đẻ(SWONAL – Speaker Without A Native Language). Những người không có tiếng mẹ đẻ là những cá nhân bị thay đổi ngôn ngữ liên tục khi còn bé do quá trình đi chuyển hoặc do sự kết hôn giữa các dân tộc khác nhau tạo nên. 1.1.2. Hiện tượng song ngữ Hiện tượng song ngữ(Bilingualism) là hiện tượng một người, một khu vực hay một dân tộc sử dụng song song hai ngôn ngữ cùng một lúc. Như vậy, có thể thấy rằng hiện tượng song ngữ có thể chia thành hiện tượng song ngữ cá thể và hiện tượng song ngữ xã hội. Hiện tượng song ngữ và chế độ song ngữ là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Hiện tượng song ngữ là hiện tượng cộng đồng ngôn ngữ hoặc một bộ phận thành viên cùng sử dụng hai ngôn ngữ, còn chế độ song ngữ là quy định về việc sử dụng ngôn ngữ; nói cách khác, chế 14 độ song ngữ chính là chính sách về đào tạo song ngữ tại một khu vực, lãnh thổ hay quốc gia. Hiện tượng song ngữ xuất hiện do các lý do khác nhau như: vấn đề đào tạo song ngữ, sự cộng cư giữa các dân tộc, mối quan hệ giữa các ngôn ngữ về loại hình, cội nguồn,... Như vậy, hiện tượng song ngữ là hệ quả tất yếu dưới tác động của hàng loạt các nhân tố kể trên. Trong đó nổi lên một số nguyên nhân chính như: Nguyên nhân đầu tiên kể đến là sự cộng cư của những người nói các ngôn ngữ khác nhau. Những người dùng ngôn ngữ khác nhau nhưng lại cùng chung sống với nhau trên cùng một lãnh thổ. Hiện tượng cộng cư do nhiều lý do nhưng lý do quan trọng nhất là xuất phát từ tình trạng di dân từ vùng lãnh thổ này sang vùng lãnh thổ khác. Lịch sử cho thấy, hiện tượng di dân do nguyên nhân về kinh tế, chiến tranh hay chính trị. Chẳng hạn, trong suốt thế kỷ XX đều có sự di dân của người Việt ra nước ngoài, tại nước ngoài dù muốn hay không người Việt cũng sống trong môi trường song ngữ tiếng Việt- tiếng của nước sở tại. Việt Nam có đến 54 dân tộc thiểu số cùng chung sống với nhau, không biệt lập mà xen kẽ trải dài từ Bắc đến Nam. Theo số liệu điều tra năm 2009, ở các tỉnh miền núi phía Bắc có tới 20 trong số 107 các huyện có từ 10 dân tộc trở lên cùng sinh sống. Đa số các xã có từ 3 - 4 dân tộc cùng cư trú. Số xã có duy nhất một dân tộc cư trú chỉ chiếm khoảng 2,7%. Chính đặc điểm này đã khiến cho trạng thái song ngữ ở Việt Nam trở nên rất đa dạng. Nguyên nhân thứ hai chính là sự thay đổi về chính trị trong các quốc gia đa dân tộc cũng tạo nên trạng thái song ngữ. Ví dụ: Liên Xô (cũ) trước đây là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, tiếng Nga được 15 coi là ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc. Tại các nước Cộng hòa, bên cạnh tiếng Nga là ngôn ngữ quốc gia, các ngôn ngữ dân tộc vẫn được sử dụng trong giao tiếp. Chính sách này đã tạo nên một trạng thái song ngữ bằng sự phân bố chức năng giữa tiếng Nga và tiếng dân tộc khá đa dạng. Tuy nhiên từ tháng 8/1991, sau khi Liên Xô bị tan rã, tình hình song ngữ đã phát triển theo chiều hướng rất phức tạp do các nước Cộng hòa vùng Ban Tích tách ra thành quốc gia độc lập và theo đó, vị thế của các ngôn ngữ vốn là ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã thay đổi, lại “trở thành ngôn ngữ quốc gia độc lập”, còn tiếng Nga trở thành ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở các nước Cộng hòa này. Nguyên nhân thứ ba chính là do chính sách song ngữ trong các cộng đồng dân tộc. Như đã biết, đào tạo song ngữ là để tạo nên trạng thái song ngữ cá nhân. Tuy nhiên, một số cá nhân không thể nào làm nên xã hội song ngữ. Chính vì thế, đào tạo song ngữ cộng đồng đang đẩy nhanh để tạo ra sự phát triển song ngữ xã hội. Hiện tượng này có thể nhận thấy ở chính sách đào tạo ngoại ngữ của một số quốc gia.22 Ví dụ, việc dạy tiếng Anh, Nga, Pháp, Hán,... trong các trường phổ thông và đại học ở Việt Nam đã tạo nên một trạng thái song ngữ tiếng Việt tiếng nước ngoài. Hiện tượng song ngữ xã hội nhờ đào tạo có thể thấy rõ ở các vùng dân tộc thiểu số. Do nhu cầu giao tiếp và nhu cầu của cuộc sống, người dân tộc thiểu số đều có quyền lợi và nghĩa vụ học ngôn ngữ giao tiếp chung - tiếng Việt. Vì thế, hiện tượng song ngữ tiếng Việt - tiếng dân tộc thiểu số xuất hiện Hoàng Quốc (2015), “Đào tạo ngôn ngữ trong trường phổ thông vùng dân tộc Khmer (An Giang)”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 5. tr. 29 22 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan