Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Lịch sử Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương...

Tài liệu Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương

.PDF
73
57
119

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ MINH THẮNG TÌNH HÌNH CÁC TỘI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 8.38.01.05 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN NGỌC ANH HÀ NỘI, 2019 1 LỜI CAM ĐOAN Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Học viên Vũ Minh Thắng 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH CÁC TỘI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG ............................ 6 1.1 Khái niệm tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương . 6 1.2 Đặc điểm tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương ... 7 1.3 Các thông số của tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương ........................................................................................................................ 10 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CÁC TỘI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG TỪ NĂM 2012 ĐẾN NĂM 2017 18 2.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình các tội CĐTS trên địa bàn thành phố Hải Dương ....................................................................................................................................... 18 2.2. Diễn biến (động thái) của tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương ..................................................................................................................... 25 2.3. Cơ cấu của tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương ............................................................................................................................ 27 2.4. Tính chất của tình hình các tội CĐTS trên địa bàn thành phố Hải Dương ............ 38 2.5. Đánh giá phần ẩn của tình hình các tội CĐTS trên địa bàn thành phố Hải Dương 39 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG ... 44 3.1 Dự báo tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương trong thời gian tới .................................................................................................................... 44 3.2 Các nhóm giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương ........................................................................................ 47 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 62 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong những chế định pháp luật quan trọng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nhà nước ta qua mỗi thời kì lịch sử đều quy định các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của con người, mỗi hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu của con người đều phải chịu những chế tài pháp lí nhất định. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo hộ, chống lại mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản. Điều 32 Hiến pháp 2013 quy định: 1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ; 3. Trường hợp cần thiết, vì lí do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường; Luật Hình sự Việt Nam 2015 với vai trò bảo vệ đã quy định hệ thống các tội phạm xâm phạm sở hữu trong đó có nhóm tội chiếm đoạt tài sản bao gồm tám tội danh: Tội cướp tài sản (Điều 168), Tội bắt có nhằm chiếm đoạt tài sản ( Điều 169), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), Tội cướp giật tài sản (Điều 171), Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản ( Điều 172), Tội trộm cắp tài sản (Điều 173), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ( Điều 174), Tội làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ( Điều 175). Trên cơ sở quy định các cấu thành tội phạm đồng thời quy định các loại, mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội, Toà án và các cơ quan tiến hành Tố tụng áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội tội trong quá trình Tố tụng để giải quyết vụ án một cách khách quan, công bằng và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, tình hình các tội phạm chiếm đoạt tài sản đang có xu hướng gia tăng, ngày càng phức tạp và gây thiệt hại lớn cho nhà nước và các tài sản của công dân, ảnh hưởng lớn đến kinh tế - xã hội của đất nước. Tính phức tạp thể hiện ở hai điểm chính là số lượng các vụ án chiếm đoạt tài sản liên tục tăng và mức độ nguy hiểm cũng ngày càn nghiêm trọng. Chính vì thế cần phải cần có những biện pháp cần 1 thiết để tăng cường phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản diễn ra theo chiều hướng tiêu cực hơn. Trên địa bàn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, thực tiễn điều tra, xét xử các tội phạm chiến đoạt tài sản trong những năm qua luôn chiếm một số lượng đáng kể trong số các vụ phạm tội hàng năm. Việc nghiên cứu đặc điểm và tình hình các tội phạm này trên một địa bàn cụ thể ( thông qua việc nghiên cứu các đặc điểm kinh tế - xã hội, đặc điểm dân cứ,…) sẽ là một trong những phương pháp để chúng ta có thể lí giải nguyên nhân cho tình trạng nghiêm trọng của loại tội phạm này trên một phạm vi nhất định, qua đó đề xuất được những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Hình sự cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về các tội chiếm đoạt tài sản. Việc nghiên cứu làm làm rõ tình hình các tội phạm chiếm đoạt tài sản hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chính vì vậy, tác giả lựa bọn đề tài: “ Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, tình hình tội phạm chiếm hữu tài sản nói riêng và tình tình tội phạm ở nước ta nói chung diễn biến hết sức phức tạp vì vậy, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ của tất cả các ngành, các cấp và của toàn xã hội. Các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu pháp luật cũng hướng tới tìm hiểu về tình hình tội phạm, nguyên nhân, giải pháp phòng ngừa tội phạm qua đó có những đóng góp to lớn cho công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cũng được nghiên cứu trong các công trình như: Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Kim Chi “ Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong Luật Hình sự Việt Nam” Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Ngọc “ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong luật Hình sự Việt Nam” “ Tội làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có đăng kí quyền sở hữu, sử dụng theo Luật Hình sự Việt Nam” về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, luận văn thạc sĩ Hồ Ngọc Hải. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có một số công trình nghiên cứu đáng chú ý như: Luận án Tiến sĩ của Đặng Quang Phúc về “ Hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân 2 trong phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, hay một số luận văn thạc sĩ như luận văn của tác giả Dương Thị Ngọc Thuỳ về “ Đấu tranh phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”; luận văn của tác giả Trần Thị Phương Hiền về “ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản – Những vấn đề lí luận và thực tiễn”, luận văn thạc sĩ của tác giả Ngô Thị Hạnh “ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật Hình sự Việt Nam trên cơ sở xét xử tại Đà Nẵng”,… Bên cạnh đó còn có rất nhiều các luận văn, luận á, sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận và giáo trình đề cập đến các tội phạm xâm phạm sở hữu trong đó có các tội chiếm đoạt tài sản như: TS. Nguyễn Ngọc Chí, “ Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu” ( Luận án tiến sĩ); Ths. Nguyễn Mai Bộ, “ Các tội phạm xâm phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự 1999” ( Sách chuyên khảo); Ths. Đinh Văn Quế “ Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam, Tập II. Các tội xâm phạm sở hữu”; Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên, hoặc là nghiên cứu những vấn đề chung nhất về các tội phạm sở hữu hoặc là nghiên cứu sâu về một tội phạm chiếm hữu tài sản chưa chưa có công trình nghiên cứu nào tìm hiểu về tình hình của các tội phạm chiếm hữu tài sản. Chính vì vậy tác giả cho rằng, việc nghiên cứu về tình hình các tội phạm chiếm đoạt tài sản là một nhiệm vụ quan trọng từ đó đề ra được các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình chiếm đoạt tài sản. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn hướng tới việc nghiên cứu sâu sắc thêm về mặt lý luận của các quy định của pháp luật về các tội chiếm đoạt tài sản thông qua việc nghiên cứu, đánh giá tình hình các tội phạm này trên địa bàn thành phố Hải Dương, từ đó đề ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này cho phù hợp với sự phát triển của giai đoạn hiện nay đồng thời nâng cao tính khả thi trong quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đi vào thực hiện ba nhiệm vụ chính để làm sáng tỏ được mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu về các vấn đề lý luận chung của các tội chiếm đoạt tài theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. - Nghiên cứu về thực trạng tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương từ năm 2012 đến năm 2017. 3 - Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản và nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm trên địa bàn thành phố Hải Dương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn đi sâu tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về các tội chiếm đoạt tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Hải Dương. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Những vấn đề lí luận về các tình hình các tội chiếm đoạt tài sản và thực tiễn về tình hình tội phạm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương trong thời gian 05 năm từ năm 2013 đến năm 2017. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận mà tác giả vận dụng để nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – LeNin, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh và các chính sách của Đảng và nhà nước về tội phạm, về án tích và vấn đề xoá án tích. Bên cạnh đó, các thành tựu về triết học, lịch sử, các học thuyết chính trị - pháp lý của cá nhà nghiên cứu đi trước cũng là những cơ sở lý luận quan trọng giúp tác giả có cơ sở đi sâu vào nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng rất nhiều các phương pháp cả những phương pháp cụ thể và phương pháp đặc thù của khoa học Luật Hình sự như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, đối chiếu, phương pháp điều tra, thống kê xã hội học,…. Để tổng hợp được tất cả các kiến thức khoa học Luật Hình sự phục vụ nghiên cứu luận văn. Việc vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu kết hợp với việc tham khảo, lấy ý kiến của các vị chuyên gia, các nhà nghiên cứu khác về lĩnh vực liên quan cũng đóng góp không nhỏ vào thành công của bài luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn với những vấn đề lí luận và thực tiễn có ý nghĩa quan trọng: Ý nghĩa lí luận của đề tài: Luận văn là một công trình khoa học có hệ thống, là một tài liệu tham khảo thiết thực và bổ ích cho các bạn sinh viên, học viên, các bạn nghiên cứu sinh tại các cơ sở đào tạo luật không chỉ trong lĩnh vực Tư pháp hình sự mà còn hướng tới trở thành một tài liệu thiết thực và toàn diện cho các nhà nghiên cứu, các nhà lập pháp,… về các tội chiếm đoạt đoạt tài sản. 4 Kết quả của đề tài sẽ là một nguồn kiến thức bổ ích phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu về các tội chiếm đoạt tài sản cho các cán bộ trong quá trình công tác tại cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án nhân dân hay các cơ quan thi hành án, các quan nhà nước có thẩm quyền,… về các vấn đề liên quan đến chiếm đoạt tài sản trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự đảm bảo khách quan và chính xác. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: - Luận văn với những nội dung cơ bản về tình hình chiếm đoạt tài sản đã vạch ra được một bức tranh tổng thể về các tội chiếm đoạt tài sản, từ đó mà ta có cái nhìn toàn diện hơn về loại tội phạm này nhằm đề ra các giải pháp thiệt thực hạn chế dẫn đến đầy lùi tội phạm chiếm đoạt tài sản trên thực tế. - Luận văn sẽ đưa ra những đề xuất, định hướng và giải pháp tổng thể để hoàn thiện các quy định của pháp luật về các tội chiếm hữu tài Bộ luật Hình sự nói chung đồng thời tạo ra sự thống nhất và hiệu quả trong việc áp dụng các quy định pháp luật này phù hợp với yêu cầu của cuộc cải cách tư pháp và xã dựng nhà nước pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. - Kết quả từ những phân tích của luận văn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận vân gồm 3 chương với các nội dung như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương . Chương 2: Thực trạng tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương từ 2012 đến năm 2017. Chương 3: Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH CÁC TỘI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1 Khái niệ m tình hình các tộ i chiếm đoạt tài sản Tình hình tội phạm là một trong những nội dung quan trọng bởi việc hoạch định các chính sách phòng ngừa tội phạm nhằm kiểm soát tội phạm trước hết phải dựa trên cơ sở nghiên cứu toàn diện về tình hình tội phạm, trên cơ sở những đặc trưng của tình hình tội phạm, qua các thông số về thực trạng của tình hình tội phạm, diễn biễn của tình hình tội phạm, cơ cấu của tình hình tội phạm, tính chất của tình hình tội phạm,… để từ đó có giải pháp phòng ngừa tương ứng, ngăn chặn kịp thời sự gia tăng tỉ lệ tội phạm và kiểm soát tội phạm có hiệu quả. Đại từ Điển Tiếng Việt định nghĩa: “tình hình” là “ trạng thái, xu thế phát triển của sử vật, hiện tượng với tất cả những sự kiện diễn ra, biến đổi trong đó”. Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể hiểu Tình hình tội phạm là xu thế vận động của tội phạm. Tuy nhiên tình hình tội phạm bao giơg cũng phải gắn với một không gian và thời gian nhất định, do đó, có thể định nghĩa một cách đầy đủ về tình hình tội phạm như sau: “ Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động của các tội phạm ( nhóm tội phạm hoặc loại tội phạm) đã xảy ra trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian xác định”. Hiện nay, có rất nhiều các công trình nghiên cứu tội phạm học ở Việt Nam đưa ra định nghĩa về tình hình tội phạm, vì vậy, trong luận văn của mình, tác giả xin đưa ra một số định nghĩa tiêu biểu như sau: GS. TS Nguyễn Xuân Yêm đưa ra quan điểm: “ Tình hình tội phạm là toàn bộ tình hình, cơ cấu, động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai đoạn nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới trong một khoản thời gian nhất định” trong cuốn “ Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm”. Giáo trình Tội phạm học của Đại học quốc gia Hà Nội định nghĩa: “Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực, thường xuyên thay đổi, giai cấp, pháp luật hình sự và được phản ánh bằng toàn bộ tình hình, cơ cấu, diễn biến của tổng thể các loại hoặc 6 của một loại tội phạm đã xảy ra trong một thời gian nhất định và trong một phạm vi nhất định”. Có rất nhiều quan điểm khác nhau tuy nhiên, theo tác giả, nếu xem tội phạm là một hiện tượng xã hội phát sinh bởi nguyên nhân nhất định thì tình hình tội phạm là “ bức tranh tổng thể” của những hiện tượng- tội phạm đã xảy ra. Nghiên cứu về tình hình tội phạm chính là nghiên cứu trạng thái của tội phạm và xu hướng vận động của tội phạm. Từ việc hiểu về khái niệm tình hình tội phạm, chúng ta sẽ đưa ra được khái niệm tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương. “ Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương chính là trạng thái, xu thế vận động của các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu trên địa bàn thành phố Hải Dương” 1.2 Đặc điểm tình hình các tội chiếm đoạt tài sản Thứ nhất, tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương là một hiện tûợng xã hội. Đây là một thuộc tính quan trọng và căn bản của tình hình tội phạm thể hiện trên các phương diện: - Tình hình tội phạm được hình thành từ những hành vi xã hội được luật hình sự xem là tội phạm và do những cá nhân sống trong xã hội thực hiện dưới tác động qua lại của nhiều mối quan hệ xã hội đa dạng phức tạp mà chủ yếu là những quan hệ xã hội tiêu cực - Tình hình tội phạm tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội và phá vỡ đi những giá trị xã hội làm đảo lộn trật tự xã hội - Tình hình tội phạm sẽ thay đổi cùng với sự thay đổi của các hiện tượng xã hội, kinh tế chính trị hay tâm lý tư tưởng,… Nghiên cứu tình hình tội phạm trên phương diện là một hiện tượng xã hội mang lại những giá trị về nhận thức xã thực tiễn. Khi giải thích về qui luật phát sinh và phát triển của tình hình tội phạm luôn xuất phát từ những hiện tượng xã hội tồn tại trong sự tác động lẫn nhau với tình hình tội phạm. Phòng ngừa tội phạm phải sử dụng các giải pháp xã hội tác động đến các quan hệ xã hội; 7 - Tội phạm là khái niệm được định nghĩa bởi đạo luật hình sự, những hành vi tạo nên tình hình tội phạm trong xã hội là những hành vi bị luật hình sự cấm đóan bằng việc đe dọa áp dụng hình phạt - Tính pháp lý của tình hình tội phạm mặc dù là dấu hiệu mang tính hình thức nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng khi nghiên cứu và đánh giá về tình hình tội phạm trong xã hội, cho phép chúng ta có thể phân biệt được tội phạm với các vi phạm pháp luật, các hành vi tiêu cực trong xã hội. Và xác định được đối tượng nghiên cứu của tội phạm học. Sự thay đổi của pháp luật hình sự theo hứơng thu hẹp hay mở rộng phạm vi trừng trị thì đều ảnh hưởng trực tiếp đến các thông số cơ bản của tình hình tội phạm trong thực tế Đánh giá tình hình tội phạm trong xã hội cần phải lưu ý đặc điểm pháp luật hình sự, cần phải dựa vào những qui định của luật hình sự về tội phạm và người phạm tội cũng như các dấu hiệu tội phạm khác. Hòan thiện pháp luật hình sự cũng được xem là biện pháp tăng cường hiệu quả phòng chống tội phạm trong xã hội Thứ hai, tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương là một hiện tûợng xã hội mang tính lịch sử. - Tình hình tội phạm không phải là hiện tượng bất biến trong xã hội. Tình hình tội phạm có thể hình thành, thay đổi và mất đi trong những điều kiện lịch sử nhất định. Ví dụ Tình trạng mua bán tem phiếu thời kinh tế tập trung. - Tình hình tội phạm có thể thay đổi tùy thuộc vào sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội khác nhau trong lịch sử, và ngay trong cùng một hình thái kinh tế xã hội nếu có sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp thì tình hình tội phạm cũng có sự thay đổi. - Số lượng các hành vi bị coi là tội phạm trong những giai đọan lịch sử khác nhau là có sự khác nhau. - Tình hình tội phạm luôn có sự vận động và thay đổi từ đơn giản đến phức tạp từ thô sơ đến tinh vi hiện đại, sự thay đổi này được thể hiện trong phương thức thủ đọan công cụ, phuơng tiện phạm tội ở những giai đọan lịch sử khác nhau là có sự khác nhau. Nghiên cứu tình hình tội phạm thì phải đặt nó trong từng điều kiện lịch sự để có thể hiểu được bản chất của nó, qui luật hình thành và phát triển của nó để từ đó có thể 8 dự đóan được khuynh hướng vận động phát triển của tình hình tội phạm trong tương lai và phòng ngừa tội phạm cũng phải được tiến hành cho phù hợp với từng điều kiện lịch sử cụ thể và có thể thay đổi, hòan thiện các biện pháp phòng ngừa cho phù hợp với sự thay đổi của lịch sử Thứ ba, tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương là một hiện tûợng xã hội mang tính giai cấp. Tình hình tội phạm là hiện tượng mang tính giai cấp, được thể hiện ở ba vấn đề chính: - Nguồn gốc giai cấp : tình hình tội phạm không phải là hiện tượng có trong mọi xã hội lòai người mà nó chỉ ra đời cùng với sự xuất hiện sở hữu tư nhân, của sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng, sự ra đời của nhà nước và khi có những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. - Nội dung của tình hình tội phạm : chính giai cấp thống trị trong xã hội sẽ qui định hành vi nào bị xem là tội phạm và hệ thống các biện pháp trừng trị căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi đó đối với lợi ích của giai cấp mình đồng thời chhính giai cấp thống trị có tòan quyền đề ra những trình tự thủ tục áp dụng cho các họat động điều tra truy tố xét xử các hành vi phạm tội và người phạm tội. - Khi tương quan về lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội thay đổi thì tình hình tội phạm cũng có sự thay đổi. Và khi những mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội được giải quyết thì tình hình tội phạm cũng được lọai trừ. Khi nghiên cứu về tình hình tội phạm thì phải xem xét nó trong sự tương quan về lợi ích của các giai cấp trong xã hội, phòng ngừa tội phạm phải đi liền với đấu tranh giai cấp và giảm thiểu những xung đột và mâu thuẫn trong xã hội. Trên thực tế, không phải bao giờ mọi tội phạm trong xã hội đều phát sinh từ xung đột quyền lợi giữa các giai cấp đối kháng – giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, vẫn có những tội phạm có thể phát sinh do những mục đích, động cơ hay hoàn cảnh khác nhau mà không thể quy chúng về cùng một nguyên nhân là mâu thuẫn, xung đột về quyền và lợi ích giai cấp. Thứ tư, tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương là một hiện tûợng có giới hạn về không gian và thời gian. Tình hình tội phạm xuất hiện gắn bó chặt chẽ với các đặc điểm của địa bàn của lĩnh vực hoạt động cụ thể và trong một khoảng thời gian xác định. Tính không gian thời 9 gian sẽ xác định tính cụ thể của khái niệm tình hình tội phạm.Nhận thức về tình hình tội phạm cần phải xuất phát từ đặc điểm địa bàn và thời gian phát sinh tình hình tội phạm. Phòng ngừa tội phạm cũng cần phải phát huy khả năng và lợi thế vốn có của từng địa bàn có tình hình tội phạm đang tồn tại Tình hình tội phạm là hiện tượng được hình thành từ một thể thống nhất của các tội phạm cụ thể. Thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa lượng và chất, giữa tình hình tội phạm và các tội phạm cụ thể cũng như tác động qua lại của chúng. Tình hình tội phạm được nhận thức ở mức độ chung khái quát và biện chứng từ những hành vi phạm tội cụ thể. Sự biến đổi của một tội phạm cụ thể sẽ kéo theo sự thay đổi của nhóm tội lọai tội và tình hình tội phạm nói chung trong xã hội. Để phòng ngừa tội phạm trong xã hội thì các biện pháp phòng ngừa chung phải đi đôi với các biện pháp phòng ngừa riêng và phòng ngừa cá biệt các tội phạm cụ thể và người phạm tội cụ thể để đạt hiệu quả cao nhất 1.3 Các thông số của tình hình các tội chiếm đoạt tài sản Dù con số về tình hình tội phạm được hình thành một cách tự phát, cấu thành từ số lượng của tất cả các tội phạm riêng lẻ đã được thực hiện trong một giai đoạn và ở một xã hội nhất định, nhưng chính tình hình tội phạm không phải là tổng số về số học của các tội phạm mà là tổng hợp hữu cơ, biện chứng các tội phạm đó, các yếu tố cấu thành có mối quan hệ lẫn nhau và quyết định lẫn nhau. Giữa tất cả các dấu hiệu của tình hình tội phạm với tính cách là một hiện tượng xã hội có sự thống nhất và tính biện chứng. Ngoài những dấu hiệu, đặc điểm chung nêu trên, sự thống nhất biện chứng của tất cả các yếu tố cấu thành tình hình tội phạm còn biểu hiện ở các thông số ( đặc điểm) về lượng và các thông số ( đặc điểm) về chất của nó. Các thông số về lượng và về chất của tình hình tội phạm cũng ở trong sự thống nhất biện chứng chính vì vậy sự thay đổi của một trong những thông số đó đều dẫn đến sự thay đổi của tình hình tội phạm nói chung. Nhận thức về các thông số về lượng và về chất của tình hình tội phạm, làm sáng tỏ bản chất, các quy luật phát triển của chúng,.. là những yếu tố quan trọng của việc nghiên cứu tình hình tội phạm với tư cách là một hiện tượng xã hội. 10 Những thông số ( đặc điểm) về lượng của tình hình tội phạm là thực trạng ( mức độ) và động thái ( diễn biến) của nó, những thông số về chất của tình hình tội phạm là cơ cấu và tính chất của nó. 1.3.1. Thực trạng của tình hình tội phạm Để xác định được số lượng các tội phạm đã được thực hiện cần phải tính tổng các số lượng sau: - Số lượng những tội phạm đã được thực hiện và bị Toà án xét xử, tuyên bản án buộc tội; - Số lượng các vụ án bị đình chỉ điều tra, truy tố vì không chứng minh được sự tham gia của bị can trong các tội phạm; - Các số liệu về số lượng các tội phạm không được phát hiện ( các tội phạm tiềm ẩn); - Hệ số và mức độ của tình hình tội phạm; Do các tội phạm không được đăng ký ở thống kê hình sự nên việc xác định và đưa số liệu về số lượng các tội phạm không được phát hiện vào số lượng chung về tình hình tội phạm là công việc hết sức khó khăn. Hiện nay, vẫn có tội phạm không bị phát hiện ( tội phạm tiềm ẩn) được giải thích bằng các tình tiết sau: - Do những người bị hại không thông báo cho các cơ quan bảo vệ pháp luật biết về các tội phạm đã được thực hiện đối với họ; - Do tính thờ ơ của một số công dân thể hiện ở việc biết tội phạm đã được thực hiện, nhưng không thông báo cho cơ quan nào biết; - Do thiếu sót trong hoạt động của các cơ quan kiểm tra, thanh tra, của các cơ quan điều tra trong việc làm sáng tỏ các tội phạm đã được che đậy; - Do một số cán bộ có chức vụ, quyền hạn và vi phạm thẩm quyền của mình khi giải quyết các tài liệu có liên quan đến thẩm quyền của các cơ quan bảo vệ pháp luật; Thực trạng ( mức độ) không bị phát hiện (tiềm ẩn) của các tội phạm khác nhau cũng có những sự khác nhau cơ bản. Chẳng hạn những tội như không tố giác tội phạm, che giấu tội phạm, tội hối lộ,… là những tội có mức độ tiềm ẩn rất lớn. Các tội như giết người, cố ý gây thương tích,… là những tội có mức độ tiềm ẩn thấp. Trong thời gian gần đây, lý luận tội phạm học đã nghiên cứu, soạn thảo một số phương pháp làm sáng tỏ tình hình tội phạm tiềm ẩn. Những phương pháp này dựa trên 11 việc phân tích thông tin kinh tế - xã hội; phân tích so sánh một loạt số liệu thống kế; thăm dò dư luận đối với những người bị hại và những người làm chứng,… Cơ cấu của tình hình tội phạm không bị phát hiện, các nguyên nhân của việc không phát hiện và khả năng phòng ngửa của chúng cũng được nghiên cứu. Khi phân tích thực trạng của tình hình tội phạm người ta sử dụng hệ số của tình hình tội phạm tức là mối tương quan của số lượng các tội phạm đã được thực hiện với số dân cư tính trên 10 nghìn người hay 100 nghìn người. Nếu như so sánh chỉ số đó ở thành phố lớn, lớn mà diện tích lãnh thổ không lớn nhưng tập trung đông dân cư với một tỉnh nơi mà diện tích rất lớn nhưng số lượng dân cư cũng như vậy thì kết quả so sánh hoàn toàn không đúng. Do vậy, cần phải chú ý không chỉ đến thực trạng của tình hình tội phạm trong một tỉnh, thành phố nói chung mà còn đến những địa điểm, lãnh thổ ở mức độ lớn xảy ra nhiều tội phạm. Bên cạnh đó cũng cần cân nhắc đến các yếu tố như sự di dân, những thay đổi trong cơ cấu hành chính – lãnh thổ, những thay đổi của nhóm tuổi trong dân cư. a) Phần hiện của tình hình các tội chiếm đoạt tài Để làm rõ được thực trạng của tình hình tội phạm chiếm đoạt tài sản, ta phải làm rõ các chỉ số như số lượng vụ án, số người bị kết án, bình quân số vụ án và số người bị kết án trong năm, mức độ của các tội chiếm đoạt tài sản so với nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu; chỉ số tội phạm. Thực trạng của tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương giai đoạn từ nâm 2013 đến nâm 2018 là số lûợng các vụ chiếm đoạt tài sản đã xảy ra và số ngûời đã phạm tội chiếm đoạt tài sản trong khoảng thời gian từ nâm 2012 đến nâm 2018, nó đûợc biểu hiện thông qua các sô lượng sau: - Số lûợng vụ chiếm đoạt tài sản và số ngûời bị Tòa án xét xử, tuyên bản án về tội chiếm đoạt tài sản; - Các số liệu về số lûợng các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương không đûợc phát hiện; - Hệ số của tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương (là mối tûông quan của số lûợng tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải 12 Dương đã thực hiện với số lûợng dân cû sinh sống trên địa bàn TP Hải Dương tính trên 100.000 ngûời). Thực trạng của tình hình tội phạm thể hiện ba yếu tố: diễn biến của tình hình tội phạm; cơ cấu của tình hình tội phạm; và tính chất của tình hình tội phạm. Thứ nhất, về diễn biến ( động thái) của tình hình tội phạm: là sự vận động và sự thay đổi của thực trạng và cô cấu của tình hình tội phạm trong một khoảng thời gian nhất định (một nâm, ba nâm, nâm nâm, mûời nâm...). Diễn biến của tình hình tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương giai đoạn từ nâm 2013 đến nâm 2018 là sự vận động và sự thay đổi của mức độ và cô cấu của tình hình tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương trong khoảng thời gian từ nâm 2013 đến nâm 2018. Thứ hai, về cơ cấu của tình hình tội phạm. Nghiên cứu về cô cấu của tình hình tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương, có thể nghiên cứu theo các loại cô cấu sau: Cô cấu theo đậc điểm địa lý; đậc điểm nhân thân của ngûời phạm tội; thủ đoạn phạm tội; công cụ, phûông tiện sử dụng để thực hiện tội phạm; thời gian, địa điểm gây án; loại tài sản bị cûớp giật; cô cấu theo đậc điểm của nạn nhân... Thứ ba, về tính chất của tình hình tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương thể hiện ở số lûợng của các hành vi nguy hiểm nhất cho xã hội trong cô cấu của tình hình tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương cũng nhû ở đậc điểm nhân thân của những ngûời thực hiện tội chiếm đoạt tài sản. Tính chất của tình hình tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương đûợc làm sáng tỏ thông qua cô cấu của nó.Tính chất của tình hình tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương chính là đậc điểm định tính của tình hình tội chiếm đoạt tài sản. Tính chất của tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Dương là kết quả phân tích, đánh giá mật chất của tình hình tội chiếm đoạt tài sản dựa trên mức độ, diễn biến và cô cấu của tình hình tội cấu thành tội phạm. b) Phần ẩn của tình hình các chiếm đoạt tài sản 13 Về khái niệm và phân loại tình hình tội phạm ẩn hiện nay vẫn còn những quan điểm không thống nhất. Theo quan điểm phổ biến hiện nay, khái niệm phần ẩn của tình hình tội phạm được quy định như sau: “ Phần ẩn của tình hình tội phạm là tổng thể các hành vi phạm tội (cùng các chủ thể của các hành vi đó) đã xảy ra trong thực tế vào một khoảng thời gian nhất định và trong một vùng lãnh thổ hành chính nhất định, song không bị các cơ quan chức năng phát hiện, không bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoậc không có trong thống kê hình sự”. Tình hình tội phạm ẩn gồm 3 dạng như sau: Tội phạm ẩn khách quan ( Tội phạm ẩn tự nhiên): bao gồm những tội phạm đã xảy ra trong thực tế, song các cô quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự không có thông tin về chúng. Tội phạm ẩn chủ quan ( Tội phạm ẩn nhân tạo): bao gồm toàn bộ các tội phạm đã xảy ra mà thông tin về chúng đã đûợc các chủ thể trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm nắm đûợc. Tuy nhiên, do nhiều các lý do khác nhau mà các tội phạm đó trong một thời gian nhất định hoậc vĩnh viễn không bị xử lý hoậc xử lý không đúng theo quy định của pháp luật. Tội phạm ẩn thống kê: là những hành vi phạm tội (và chủ thể của nó) đã bị xử lý bằng chế tài hình sự, song số này bị lọt ra ngoài con số thống kê hình sự bởi những lý do khác nhau - những con số làm nền cho việc đánh giá tình hình tội phạm. 1.3.2 Cơ cấu của tình hình tội phạm a) Khái niệm “Cơ cấu của tình hình tội phạm là cơ cấu, là thành phần, là mối tương quan giữa các tội phạm, loại tội phạm trong một chỉnh thể chung thống nhất của tình hình tội phạm đã xảy ra trong xã hội” Cơ cấu của tình hình tội phạm thường được biểu thị bằng chỉ số tương đối phản ánh thành phần trăm của từng nhóm tội và loại tội so với tình hình tội phạm chung b) Các căn cứ để xác định cơ cấu của tình tội phạm Khi nghiên cứu về cơ cấu của tình hình tội phạm trong thực tế, ngừơi ta thường căn cứ vào bốn tiêu chí sau: 14 - Thứ nhất, là tiêu chí phản ánh tương quan của 4 nhóm tội được quy định tại Điều 8 BLHS2015 : ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; tiêu chí để đánh giá dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội ; - Thứ hai, là tiêu chí phản ánh tương quan của lỗi cố ý và lỗi vô ý; - Thứ ba, là tiêu chí phản ánh tương quan giữa hình thức đồng phạm và thực hiện đơn lẻ; - Thứ tư, là tiêu chí phản ánh mối tương quan được phân chia theo từng chương của phần riêng trong bộ luật hình sự; Ngoài ra còn có thể dựa trên yếu tố: Có động cơ hay không ( ghen tuông, ganh tỵ … ); Đặc điểm nhân thân ( công nhân, sinh viên, trí thức, đảng viên…),…. c) Vai trò của các căn cứ xác định cơ cấu của tình hình tội phạm Các căn cứ để xác định cơ cấu của tình hình tội phạm có vai trò quan trọng trong việc đánh giá mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, để đánh giá hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm. Biểu hiện quy luật tồn tại, phát triển của tội phạm, biểu hiện các tội phạm nguy hiểm nhất, phổ biến nhất trong tình hình tội phạm từ đó hoạch định kế hạch phòng chống tội phạm. 1.3.3 Thông số về động thái của tình hình tội phạm “ Thông số về động thái của tình hình tội phạm là sự thay đổi của tình hình tội phạm về thực trạng và cơ cấu tại một địa bàn và trong một khoảng thời gian xác định” Như vậy, động thái của tình hình tội phạm chính là chỉ số tương đối thể hiện tỷ lệ tăng hay giảm của thực trạng và cơ cấu so với điểm mốc được xác định trong việc nghiên cứu. Là một hiện tượng xã hội tình hình tội phạm luôn thay đổi, vận động, nên điều quan trọng nhất là cần theo dõi và nắm bắt được những thay đổi của tình hình tội phạm. Việc phân tích diễn biến của tình hình tội phạm trong một khoảng thời gian dù dài hay ngắn đều có những ý nghĩa rất quan trọng đối với việc định hướng cho các cơ quan chuyên trách đấu tranh với tính hình tội phạm. Để có nhận thức sâu sắc về động thái của tình hình tội phạm, làm sáng tỏ được nó thì cần tiến hành việc phân tích trong một khoảng thời gian dài diễn biến của tình hình tội phạm. Những số liệu so sánh được được hành trong một khoảng thời gian dài mới có 15 đủ cơ sở giúp làm sáng tỏ được tính vững chắc, ổn định hoặc không vững chắc, không ổn định của thực trạng tình hình tội phạm nói chung cũng như của các loại riêng của nó. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi về thực trạng, cơ cấu của tình hình tội phạm: Động thái của tình hình tội phạm với tính chất là một hiện tượng pháp lý- xã hội chịu sự tác động, ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố. Nhóm nhân tố đầu tiên là các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, cơ cấu nhân chủng học của dân cư và các quá trình, hiện tượng xã hội khác ảnh hưởng đến tình hình tội phạm. Nhóm nhân tố thứ hai là những thay đổi của pháp luật hình sự có luên quan đến việc mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi trừng trị bằng hình sự đối với các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội ( tội phạm hoá hoặc phi tội phạm hoá). Bức tranh thống kê về động thái của tình hình tội phạm cũng gắn liền với hiệu quả hoạt động và việc làm sáng tỏ, đăng ký kịp thời các tội phạm đã thực hiện, về điều tra chúng và kết án những người phạm tội, đảm bảo tính chất không thoát khỏi hình phạt. Việc phân hoá các nhân tố xã hội và pháp luật ảnh hưởng đến đến tình hình tội phạm về mặt thống kê là rất cần thiết cho việc đánh giá về mặt thực tế những thay đổi hiện thực trong động thái của nó. Điều quan trọng cần phân biệt là những thay đổi của hiện tượng xã hội hoặc những thay đổi của pháp luật hình sự về nhóm các hành vi bị trừng trị bằng các biện pháp hình sự có ảnh hưởng đến sự giảm đi hoặc tăng lên của tình hình tội phạm theo những chỉ số thống kê có đầy đủ hay không. 1.3.4 Thông số phản ánh sự thiệt hại mà tình hình tội phạm gây ra cho xã hội a) Khái niệm “Thông số phản ánh sự thiệt hại mà tình hình tội phạm gây ra cho xã hội là toàn bộ những thiệt hại mà tình hình tội phạm gây ra cho xã hội. Nội dung của thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về thể chất. Ngoài ra còn có những thiệt hại gián tiếp mà xã hội phải gánh chịu do tình hình tội phạm gây ra hay để khắc phục hậu quả mà tình hình tội phạm để lại”. b) Ý nghĩa Phản ánh tính chất tình hình tội phạm, mức độ nguy hiểm, tính nghiêm trọng của tình hình tội phạm; 16 Là căn cứ hoạch định kế hoạch phòng chống tội phạm Căn cứ đánh giá hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tội phạm. Tiểu kết Chương Trong chương 1, tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về tình hình các tội phạm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hải Dương, làm rõ những khái niệm, đặc điểm cơ bản về tình hình tội phạm; các thông số của tình hình tội phạm và thông số phản ánh sự thiệt hại mà tình hình tội phạm gây ra cho xã hội. Khái niệm về tình hình các tội phạm chiếm đoạt tài sản vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng đều hướng tới trạng thái, xu thế vận động của các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu. Tình hình tội phạm mang năm đặc điểm chính: là một hiện tượng xã hội, một hiện tượng pháp lý hình sự, mang tính lịch sử, mag tính giai cấp và là một hiện tượng mang tính không gian và thời gian. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan