Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tính đa dạng sinh học và sự cần thiết phải bảo vệ tính đa dạng sinh học...

Tài liệu Tính đa dạng sinh học và sự cần thiết phải bảo vệ tính đa dạng sinh học

.DOCX
31
110
95

Mô tả:

Sermina:Tính đa dạng sinh học và sự cần thiết phải bảo vệ tính đa dạng sinh học MỞ ĐẦU Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa.Do vị trí địa lý,Việt Nam rất đa dạng về địa hình,cảnh quan,có đặc trưng khí hậu khác nhau giữa các miền.Trải dài từ 803 tới 230 vĩ độ Bắc,với sự khác biệt về khí hậu và địa hình giữa các miền nên Việt Nam có sự đa dạng lớn về môi trường tự nhiên và sinh học.Hệ sinh thái từ rừng mưa thường xanh cận nhiệt đới ở phía Bắc tới rừng nhiệt đới ở phía Nam,rừng ngập mặn và đất ngập nước ven biển đã tạo ra hệ động thực vật phong phú và có giá trị.Đặc điểm đó là cơ sở rất thuận lợi để giới sinh vật phát triển đa dạng về thành phần loài,phong phú về số lượng. Lĩnh vực sinh học hiện nay vẫn còn nhiều điều mới lạ và bí ẩn bởi những gì chúng ta biết mới chỉ là một phần nhỏ của thiên nhiên rộng lớn này.Không chỉ các nhà sinh học trong nước mà nhiều nhà sinh học nước ngoài đến Việt Nam để nghiên cứu đa dạng sinh học bởi sự bùng nổ của công nghệ sinh học,vấn đề kiểm soát các thông tin di truyền và an toàn sinh học được đặt ra trên phạm vi quốc tế. Theo công ước về đa dạng sinh học, đa dạng sinh học là toàn bộ sự phong phú của các cơ thể sống và các tổ hợp sinh thái mà chúng ta là thành viên,bao gồm sự đa dạng bên trong giữa các loài vật và sự đa dạng của hệ sinh thái.Đa dạng sinh học là sự phong phú về nguồn gen, về giống, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên. Trong hệ sinh thái, số lượng các giống, các loài nhiều tức là phong phú về nguồn gen thì tính đa dạng sinh học cao • Đa dạng sinh học có một vai trò quan trọng đối với sự sống trên Trái Đất, không có gì thay thế được nhưng trong thời kỳ phát triển hiện nay,khi xu hướng toàn cầu hóa, công nghiệp hóa đang trên đà phát triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó,là một nước đang phát triển, từng bước chuyển mình sang nền kinh tế công nghiệp lớn, kèm theo đó là đời sống dân cư ngày càng phát triển, đô thị hóa cao... và điều này đe dọa đến môi trường Việt Nam nói chung và đa dạng sinh học nói riêng.Nó làm cho nhiều loại đang bị suy giảm một cách nhanh chóng, thậm chí có một số loài đang ở ngưỡng cửa của sự diệt vong mà nguyên nhân chủ yếu là so môi trường bị phá hủy, do săn bắt quá mức và do sự tấn công một cách dữ dội của các loài nhập cư cũng như sự cạnh tranh của các kẻ thù khác. Các chu trình hóa học và thủy văn tự nhiên đang bị phá vỡ do việc phá rừng và mỗi năm có hàng tỷ tấn đất mặt đã bị bào mòn và cuốn trôi theo các dòng nước xuống các ao hồ, đại dương. Loài người đang sử dụng một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá nhất mà không thể thay thế được trên thế giới,đó là sự đa dạng sinh học- cơ sở của sự sống còn,sự thịnh vượng và sự phát triển bền vững của chính họ.Tất cả tài sản quý giá đó rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của loài người hiện nay,trong tương lai, cũng như đáp ứng cho tổ tiên trước kia. Thế nhưng loài người đã không biết giữ gìn nguồn tài nguyên quý giá đó mà lại đang khai thác quá mức,tiêu hao và phá hủy nó với danh nghĩa là để phát triển, sự suy thoái đa dạng sinh học trên trái đất hàng ngày, hàng giờ âm thầm phá hủy khả năng phát triển của loài người, Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới đang đứng trước những thử thách lớn về vấn đề suy giảm đa dạng sinh học. NỘI DUNG 1.Thực trạng đa dạng sinh học: 1.1.Đa dạng nguồn gen: Đa dạng về gen di truyền được thể hiện bởi sự đa dạng về gen trong mỗi loài.Theo đánh giá của Jucovski (1970), Việt Nam là 1 trong 12 trung tâm nguồn gốc giống cây trồng của thế giới. Mức độ đa dạng sinh học của hệ thực vật cây trồng ở Việt Nam cao hơn nhiều so với dự đoán.Nguồn gen giống cây trồng ở Việt Nam, hiện nay đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp có 16 nhóm các loại cây trồng khác nhau như cây lương thực chính, cây lương thực bổ sung, cây ăn quả, cây rau, cây gia vị, cây làm nước uống,cây lấy sợi, cây thức ăn gia súc, cây bóng mát, cây công nghiệp, cây lấy gỗ,... với tổng số trên 800 loài cây trồng với hàng nghìn giống khác nhau. Bảng: Số lượng các loại cây trồng phổ biến ở Việt Nam Số thứ tự Nhóm cây Số loài 1 Cây lương thực chính 41 2 Cây lương thực bổ sung 95 3 Cây ăn quả 105 4 Cây rau 55 5 Cây gia vị 46 6 Cây làm nước uống 14 7 Cây lấy sợi 16 8 Cây thức ăn gia súc 14 9 Cây lấy dầu béo 45 10 Cây lấy tinh dầu 20 11 Cây cải tạo đất 28 12 Cây dược liệu 181 13 Cây cảnh 62 14 Cây bóng mát 7 15 Cây công nghiệp 24 16 Cây lấy gỗ 49 Tổng 802 Có 3 nhóm cây trồng được nông dân sử dụng: • Các giống cây trồng bản địa:Nhóm cây trồng này hiện nay đang chiếm vị trí chủ đạo đối với nhiều loại cây trồng. Trong số nhóm giống cây trồng này có những giống đã dược nông dân sử dụng vì lưu truyền hàng nghìn năm. • Các giống cây trồng mới : Là những giống cây có khả năng cho năng suất cao vì có một số đặc tính tốt khác như: phẩm chất nông sản tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh cao... được các nhóm khoa học chọn lọc, lai tạo thành. Những năm gần đây các giống cây trồng được các nhóm khoa học chọn lọc và lai tạo mới cũng như các loại giống cây trồng được nhập nội, trước khi đưa ra sản xuất rộng rãi, được hội đồng khoa học Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn xem xét công nhận như lúa: 156 giống ; ngô: 47 giống; đậu tương: 22 giống; cao su: 14 giống; cà phê: 14 giống... • Các giống cây trồng được nông dân các tỉnh biên giới trao đổi với nhau qua biên giới hoặc mua bán. Hiện nay, ngân hàng gen cây trồng quốc gia đang bảo tồn 12.300 giống của 115 loài cây trồng.Đây là tài sản quý của đất nước, phần lớn không còn trong sản xuất và trong tự nhiên nữa. Nguồn gen giống vật nuôi ở Việt Nam: Số thứ tự Giống Giống Tổng số Giống nội Giống nhập ngoại 1 Lợn 20 14 6 2 Bò 21 5 16 3 Dê 5 2 3 4 Trâu 3 2 1 5 Cừu 1 1 6 Thỏ 4 2 2 7 Ngựa 3 2 1 8 Gà 27 16 11 9 Vịt 10 5 5 10 Ngan 7 3 4 11 Ngỗng 5 2 3 Các loài cá nuôi có nguồn gốc từ nước ngoài được nhập và thuần dưỡng ở Việt Nam khoảng 50 loài.Trong đó có 35 loài cá cảnh còn lại là các loài cá nuôi để lấy thịt. Đặc trưng đa dạng nguồn gen: • Các biểu hiện của kiểu gen ở Việt Nam rất phong phú.Riêng kiểu gen cây lúa có đến hàng trăm kiều hình khác nhau,thể hiện ở gần 400 giống lúa khác nhau. • Các kiểu gen ở Việt Nam thường có nhiều biến dị, đột biến. Trong đó có những biến dị xảy ra dưới tác động của các yếu tố tự nhiên (sấm,chớp, bức xạ...), có những đột biến xảy ra do những tác nhân nhân tạo. Đây là một trong những nguồn tạo giống mới. • Đa dạng sinh học gen ở Việt Nam chứa đựng khả năng chống chịu vì tính mềm dẻo sinh thái cao của các kiểu gen. Đa dạng về loài: Đa dạng loài là số lượng và sự đa dạng của các loài được tìm thấy tại khu vực nhất định tại một vùng nào đó. Số thứ tự Nhóm sinh vật Số loài đã xác định được 1 Thực vật nổi 1.939 -Nước ngọt 1.402 -Biển 537 2 Rong, tảo 697 Nước ngọt Khoảng 20 Biển 682 Cỏ biển 15 3 Thực vật ở cạn 13.766 Thực vật bậc thấp 2.393 Thực vật bậc cao 11.373 4 Động vật không xương sống ở nước 8.203 Nước ngọt 782 Biển 7.421 5 Động vật không xương sống ở đất Khoảng 1.000 6 Côn trùng 7.750 7 Cá 2.738 Nước ngọt 700 Biển 2.038 8 Bò sát 296 Rắn biển 50 Rùa biển 4 9 Lưỡng cư 162 10 Chim 840 11 Thú 310 Thú biển 16 Theo một số tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ đa dạng sinh học cao trên giới với dự tính có thể có tới 20.000-30.000 loài thực vật.Việt Nam được xếp thứ 16 về mức độ đa dạng sinh học (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới). • Đa dạng loài trên hệ sinh thái cạn: Khu hệ thực vật: Tổng kết các công bố về hệ thực vật Việt Nam, đã ghi nhận có 15.986 loài thực vật ở Việt Nam. Trong đó, có 4.528 loài thực vật bậc thấp và 11.458 loài thực vật bậc cao. Trong số đó có 10% số loài thực vật là đặc hữu. Khu hệ động vật: cho đến nay đã thống kê được 307 loài giun tròn, 161 loài giun sán ký sinh ở gia súc, 200 loài giun đất, 113 loài bọ nhạy, 7.750 loài côn trùng, 260 loài bò sát, 120 loài ếch nhái, 840 loài chim, 310 loài và phân loài thú. Trong hệ thống cái khi bảo vệ vùng Đông Dương- Mã Lai của IUCN, Việt Nam được xem là nơi giàu về thành phần loài và có mức độ đặc hữu cao so với các nước trong vùng phụ Đông dương. Động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim, 78 loài và phân loài thú đặc hữu. Riêng trong số 25 loài thú linh trưởng đã được ghi nhận thẻ ở Việt Nam có tới 16 loài, trong đó có 4 loài và phân loài đặc hữu của Việt Nam, 3 phân loài chỉ phân bố ở Việt Nam và Lào, 2 phân loài chỉ có ở vùng rừng hai nước Việt Nam- Campuchia.
Sermina:Tính đa dạng sinh học và sự cần thiết phải bảo vệ tính đa dạng sinh học MỞ ĐẦU Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa. Do vị trí địa lý, Việt Nam rất đa dạng về địa hình, cảnh quan, có đặc trưng khí hậu khác nhau giữa các miền. Trải dài từ 803 tới 230 vĩ độ Bắc, với sự khác biệt về khí hậu và địa hình giữa các miền nên Việt Nam có sự đa dạng lớn về môi trường tự nhiên và sinh học. Hệ sinh thái từ rừng mưa thường xanh cận nhiệt đới ở phía Bắc tới rừng nhiệt đới ở phía Nam, rừng ngập mặn và đất ngập nước ven biển đã tạo ra hệ động thực vật phong phú và có giá trị. Đặc điểm đó là cơ sở rất thuận lợi để giới sinh vật phát triển đa dạng về thành phần loài, phong phú về số lượng. Lĩnh vực sinh học hiện nay vẫn còn nhiều điều mới lạ và bí ẩn bởi những gì chúng ta biết mới chỉ là một phần nhỏ của thiên nhiên rộng lớn này. Không chỉ các nhà sinh học trong nước mà nhiều nhà sinh học nước ngoài đến Việt Nam để nghiên cứu đa dạng sinh học bởi sự bùng nổ của công nghệ sinh học, vấn đề kiểm soát các thông tin di truyền và an toàn sinh học được đặt ra trên phạm vi quốc tế. Theo công ước về đa dạng sinh học, đa dạng sinh học là toàn bộ sự phong phú của các cơ thể sống và các tổ hợp sinh thái mà chúng ta là thành viên, bao gồm sự đa dạng bên trong giữa các loài vật và sự đa dạng của hệ sinh thái. Đa dạng sinh học là sự phong phú về nguồn gen, về giống, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên. Trong hệ sinh thái, số lượng các giống, các loài nhiều tức là phong phú về nguồn gen thì tính đa dạng sinh học cao  Đa dạng sinh học có một vai trò quan trọng đối với sự sống trên Trái Đất, không có gì thay thế được nhưng trong thời kỳ phát triển hiện nay, khi xu hướng toàn cầu hóa, công nghiệp hóa đang trên đà phát triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó,là một nước đang phát triển, từng bước chuyển mình sang nền kinh tế công nghiệp lớn, kèm theo đó là đời sống dân cư ngày càng phát triển, đô thị hóa cao... và điều này đe dọa đến môi trường Việt Nam nói chung và đa dạng sinh học nói riêng.Nó làm cho nhiều loại đang bị suy giảm một cách nhanh chóng, thậm chí có một số loài đang ở ngưỡng cửa của sự diệt vong mà nguyên nhân chủ yếu là so môi trường bị phá hủy, do săn bắt quá mức và do sự tấn công một cách dữ dội của các loài nhập cư cũng như sự cạnh tranh của các kẻ thù khác. Các chu trình hóa học và thủy văn tự nhiên đang bị phá vỡ do việc phá rừng và mỗi năm có hàng tỷ tấn đất mặt đã bị bào mòn và cuốn trôi theo các dòng nước xuống các ao hồ, đại dương. Loài người đang sử dụng một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá nhất mà không thể thay thế được trên thế giới,đó là sự đa dạng sinh học- cơ sở của sự sống còn,sự thịnh vượng và sự phát triển bền vững của chính họ.Tất cả tài sản quý giá đó rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của loài người hiện nay,trong tương lai, cũng như đáp ứng cho tổ tiên trước kia. Thế nhưng loài người đã không biết giữ gìn nguồn tài nguyên quý giá đó mà lại đang khai thác quá mức,tiêu hao và phá hủy nó với danh nghĩa là để phát triển, sự suy thoái đa dạng sinh học trên trái đất hàng ngày, hàng giờ âm thầm phá hủy khả năng phát triển của loài người, Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới đang đứng trước những thử thách lớn về vấn đề suy giảm đa dạng sinh học. NỘI DUNG 1.Thực trạng đa dạng sinh học: 1.1.Đa dạng nguồn gen: Đa dạng về gen di truyền được thể hiện bởi sự đa dạng về gen trong mỗi loài.Theo đánh giá của Jucovski (1970), Việt Nam là 1 trong 12 trung tâm nguồn gốc giống cây trồng của thế giới. Mức độ đa dạng sinh học của hệ thực vật cây trồng ở Việt Nam cao hơn nhiều so với dự đoán.Nguồn gen giống cây trồng ở Việt Nam, hiện nay đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp có 16 nhóm các loại cây trồng khác nhau như cây lương thực chính, cây lương thực bổ sung, cây ăn quả, cây rau, cây gia vị, cây làm nước uống,cây lấy sợi, cây thức ăn gia súc, cây bóng mát, cây công nghiệp, cây lấy gỗ,... với tổng số trên 800 loài cây trồng với hàng nghìn giống khác nhau. Bảng: Số lượng các loại cây trồng phổ biến ở Việt Nam Số thứ tự 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 Nhóm cây Cây lương thực chính Cây lương thực bổ sung Cây ăn quả Cây rau Cây gia vị Cây làm nước uống Cây lấy sợi Cây thức ăn gia súc Cây lấy dầu béo Cây lấy tinh dầu Cây cải tạo đất Cây dược liệu Cây cảnh Cây bóng mát Cây công nghiệp Cây lấy gỗ Tổng Có 3 nhóm cây trồng được nông dân sử dụng: Số loài 41 95 105 55 46 14 16 14 45 20 28 181 62 7 24 49 802  Các giống cây trồng bản địa:Nhóm cây trồng này hiện nay đang chiếm vị trí chủ đạo đối với nhiều loại cây trồng. Trong số nhóm giống cây trồng này có những giống đã dược nông dân sử dụng vì lưu truyền hàng nghìn năm.  Các giống cây trồng mới : Là những giống cây có khả năng cho năng suất cao vì có một số đặc tính tốt khác như: phẩm chất nông sản tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh cao... được các nhóm khoa học chọn lọc, lai tạo thành. Những năm gần đây các giống cây trồng được các nhóm khoa học chọn lọc và lai tạo mới cũng như các loại giống cây trồng được nhập nội, trước khi đưa ra sản xuất rộng rãi, được hội đồng khoa học Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn xem xét công nhận như lúa: 156 giống ; ngô: 47 giống; đậu tương: 22 giống; cao su: 14 giống; cà phê: 14 giống...  Các giống cây trồng được nông dân các tỉnh biên giới trao đổi với nhau qua biên giới hoặc mua bán. Hiện nay, ngân hàng gen cây trồng quốc gia đang bảo tồn 12.300 giống của 115 loài cây trồng.Đây là tài sản quý của đất nước, phần lớn không còn trong sản xuất và trong tự nhiên nữa. Nguồn gen giống vật nuôi ở Việt Nam: Số thứ tự Giống Tổng số Giống Giống nội Giống nhập ngoại 1 Lợn 20 14 6 2 Bò 21 5 16 3 Dê 5 2 3 4 Trâu 3 2 1 5 Cừu 1 1 6 Thỏ 4 2 2 7 Ngựa 3 2 1 8 Gà 27 16 11 9 Vịt 10 5 5 10 Ngan 7 3 4 11 Ngỗng 5 2 3 Các loài cá nuôi có nguồn gốc từ nước ngoài được nhập và thuần dưỡng ở Việt Nam khoảng 50 loài.Trong đó có 35 loài cá cảnh còn lại là các loài cá nuôi để lấy thịt. Đặc trưng đa dạng nguồn gen:  Các biểu hiện của kiểu gen ở Việt Nam rất phong phú.Riêng kiểu gen cây lúa có đến hàng trăm kiều hình khác nhau,thể hiện ở gần 400 giống lúa khác nhau.  Các kiểu gen ở Việt Nam thường có nhiều biến dị, đột biến. Trong đó có những biến dị xảy ra dưới tác động của các yếu tố tự nhiên (sấm,chớp, bức xạ...), có những đột biến xảy ra do những tác nhân nhân tạo. Đây là một trong những nguồn tạo giống mới.  Đa dạng sinh học gen ở Việt Nam chứa đựng khả năng chống chịu vì tính mềm dẻo sinh thái cao của các kiểu gen. Đa dạng về loài: Đa dạng loài là số lượng và sự đa dạng của các loài được tìm thấy tại khu vực nhất định tại một vùng nào đó. Số thứ tự 1 4 Nhóm sinh vật Thực vật nổi -Nước ngọt -Biển Rong, tảo Nước ngọt Biển Cỏ biển Thực vật ở cạn Thực vật bậc thấp Thực vật bậc cao Động vật không xương Số loài đã xác định được 1.939 1.402 537 697 Khoảng 20 682 15 13.766 2.393 11.373 8.203 5 sống ở nước Nước ngọt Biển Động vật không xương 782 7.421 Khoảng 1.000 sống ở đất Côn trùng Cá Nước ngọt Biển Bò sát Rắn biển 7.750 2.738 700 2.038 296 50 2 3 6 7 8 Rùa biển 4 9 Lưỡng cư 162 10 Chim 840 11 Thú 310 Thú biển 16 Theo một số tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ đa dạng sinh học cao trên giới với dự tính có thể có tới 20.000-30.000 loài thực vật.Việt Nam được xếp thứ 16 về mức độ đa dạng sinh học (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới).  Đa dạng loài trên hệ sinh thái cạn: Khu hệ thực vật: Tổng kết các công bố về hệ thực vật Việt Nam, đã ghi nhận có 15.986 loài thực vật ở Việt Nam. Trong đó, có 4.528 loài thực vật bậc thấp và 11.458 loài thực vật bậc cao. Trong số đó có 10% số loài thực vật là đặc hữu. Khu hệ động vật: cho đến nay đã thống kê được 307 loài giun tròn, 161 loài giun sán ký sinh ở gia súc, 200 loài giun đất, 113 loài bọ nhạy, 7.750 loài côn trùng, 260 loài bò sát, 120 loài ếch nhái, 840 loài chim, 310 loài và phân loài thú. Trong hệ thống cái khi bảo vệ vùng Đông Dương- Mã Lai của IUCN, Việt Nam được xem là nơi giàu về thành phần loài và có mức độ đặc hữu cao so với các nước trong vùng phụ Đông dương. Động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim, 78 loài và phân loài thú đặc hữu. Riêng trong số 25 loài thú linh trưởng đã được ghi nhận thẻ ở Việt Nam có tới 16 loài, trong đó có 4 loài và phân loài đặc hữu của Việt Nam, 3 phân loài chỉ phân bố ở Việt Nam và Lào, 2 phân loài chỉ có ở vùng rừng hai nước Việt Nam- Campuchia.  Đa dạng loài trong hệ sinh thái đất ngập nước nội địa: Các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam rất đa dạng về hệ thực vật cũng như hệ động vật, bao gồm các nhóm vi tảo, rong, các cây cỏ ngập nước và bán ngập nước, động vật không xương sống và cá. Cho đến nay đã thống kê và xác định được 794 loài động vật không xương sống. Trong đó, đáng lưu ý là trong thành phần loài giáp xác nhỏ, có 54 loài và 8 giống lần đầu tiên được mô tả ở Việt Nam. Riêng 2 nhóm tôm, cua có 59 loài thì có tới 7 giống và 33 loài lần đầu được mô tả. Trong tổng số 147 loài trai ốc, có 43 loài, 3 giống lần đầu tiên được mô tả, tất cả đều là những loài đặc hữu của Việt Nam hay vùng Đông Dương. Điều đó cho thấy sự đa dạng và mức độ đặc hữu của khu hệ tôm, cua, trai, ốc nước ngọt nội địa Việt Nam là rất lớn. Theo các số liệu thống kê, thành phần loài cá các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam bao gồm trên 700 loài và phân loài, thuộc 228 giống, 57 họ và 18 bộ. Riêng họ các chép có 276 loài và phân loài thuộc 100 giống và 4 họ, 1 phần họ được coi là đặc hữu ở Việt Nam. Phần lớn các loài đặc hữu đều có phân bố ở các thủy vực sông, suối, vùng núi.  Đa dạng loài trong các hệ sinh thái biển và ven bờ Đặc tính của khu hệ sinh vật biển Việt Nam thể hiện rõ ở đặc tính nhiệt đới, đặc tính hỗn hợp, đặc tính ít đặc hữu và đặc tính khác biệt Bắc-Nam. Trong vùng biển nước ta đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình và thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có 2 vùng biển: Móng Cái- Đồ Sơn, Hải Vân- Vũng Tàu có mức độ đa dạng sinh học cao hơn các vùng còn lại. Đặc biệt, tại vùng thềm lục địa có 9 vùng nước trồi có năng suất sinh học rất cao, kèm theo là các bãi cá lớn. Tổng số loài sinh vật biển đã biết ở Việt Nam có khoảng 11.000 loài, trong đó cá có 2.458 loài; rong biển có 653 loài; động vật phù du có 657 loài; thực vật phù du có 537 loài; thực vật ngập mặn có 94 loài; tôm biển có 225 loài...Các nghiên cứu về biến động nguồn lợi cho thấy danh sách khu vực cá biển của Việt Nam là 2.458 loài,đã phát hiện thêm 7 loài thú biển mới. Một số loài sinh vật mới được phát hiện trong thời gian gần đây ở Việt Nam: Trong khoảng 10 năm trở lại đây,từ các kêt quả điều tra cơ bản của vùng lãnh thổ khác nhau ở Việt Nam, một số loài mới được phát hiện và mô tả, trong đó nhiều chi, loài mới cho khoa học. Một số nhóm sinh vật trước đây chưa nghiên cứu, nay đã có những dẫn liệu ban đầu. Đặc trưng đa dạng loài ở Việt Nam:  Số lượng các loài sinh vật nhiều, sinh khối lớn. Tính ra bình quân trên 1 km2 lãnh thổ Việt Nam có 4, 5 loài thực vật, gần 7 loài động vật, với mật độ hàng chục nghìn cá thể. Đây là một trong những mật độ đậm đặc các loài sinh vật so với thế giới.  Cấu trúc loài rất đa dạng. Do đặc điểm địa hình, do phân hóa các kiểu khí hậu, cấu trúc các quần thể trong nội bộ loài thường rất phức tạp. Có nhiều loài có hàng chục dạng sống khác nhau.  Khả năng thích nghi của loài cao. Thích nghi của các loài được thực hiện thông qua các đặc điểm thích nghi của từng cá thể, thông qua chuyển đổi cấu trúc loài. Loài sinh vật ở Việt Nam nói chung có đặc tính chống chịu cao đối với các thay đổi của các yếu tố và điều kiện ngoại cảnh. Về thực vật, trong giai đoạn 1993 – 2015, đã có 18 chi,320 loài. c)Đa dạng hệ sinh thái: Đa dạng hệ sinh thái là sự phong phú về các kiểu hệ si nh thái khác nhau ở cạn cũng như ở nước tại một vùng nào đó. Hệ sinh thái là hệ thống bao gồm sinh vật và môi trường tác động lẫn nhau mà ở đó thực hiện vòng tuần hoàn vật chất, năng lượng trao đổi thông tin. Nguồn tài nguyên đa dạng sinh học trong tự nhiên của Việt Nam hiện nay tập trung ở 3 hệ sinh thái chính là: Hệ sinh thái trên cạn, Hệ sinh thái đất ngập nước và Hệ sinh thái biển. Hệ sinh thái đất ngập nước: Công ước Ramsar định nghĩa: “ đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển kể cả những vùng nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi triều thấp”. Đất ngập nước Việt Nam rất đa dạng về loài hình và hệ sinh thái, thuộc 2 nhóm đất ngập nước: đất ngập nước nội địa, đất ngập nước ven biển. Trong đó, có một số kiểu có tính đa dạng sinh học cao:  Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị như cung cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; xâm chiếm và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ bieernchoongs lại tác động của sóng biển và bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã bản địa và di cư.  Đầm lầy, than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông Nam Á, U Minh thượng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng có đầm lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.  Đầm phá: thường thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính pha trộn giữa khối nước gọt và nước mặn nên khu hệ thủy ssinh vật đầm phá rất phong phú bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu trúc quần xã sinh vật đầm phá thay đổi theo mùa rõ rệt.  Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển ven bờ, đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xã rạn san hô rất phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp xác), cả rạn. Thảm cỏ biển thường là nơi cư trú của nhiểu loại rùa biển và đặc biệt loài thú biển Dugon.  Vùng biển quanh các đảo ven bờ: ven bờ biển Việt Nam có hệ thống đảo rất phong phú. Vùng nứơc ven bờ của hầu hết các đảo lớn được đánh giá có mức độ đa dạng sinh học rất cao với các hệ sinh thái đặc thù như rạn san hô, cỏ biển... Việt Nam có 2 vùng đất ngập nước quan trọng là đất ngập nước vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng và đất ngập nước đồng bằng sông Cửu Long.  Đất ngập nước ở vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng có diện tích 229.762ha. Đây là nơi tập trung các hệ sinh thái với thành phần các loài thực vật, động vật vùng rừng ngập mặn phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài chim nước.  Đất ngập nước đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684ha. Đây là khu quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn sông Mê Công. Những khu rừng ngập nước và đồng bằng ngập lũ cũng là những vùng có tiềm năng sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính ở đồng bằng sông Cửu Long, đó là hệ sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái rừng tràm ở vùng ngập nước nội địa và hệ sinh thái của sông. Mỗi hệ sinh thái đất ngập nước đều có khu hệ sinh vật đặc trưng của mình. Tuy nhiên, đặc tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào từng vùng cảnh quan và vùng địa lý tự nhiên. Hệ sinh thái đất ngập nước rất đa dạng, theo đánh giá của Viện điều tra quy hoạch rừng (1999) có 39 kiểu đất ngập nước, bao gồm:     Đất ngập nước tự nhiên 30 kiểu Đất ngập nước ven biển 11 kiểu Đất ngập nước nội địa 19 kiểu Đất ngập nước nhân tạo 9 kiểu Hệ sinh thái biển: Việt Nam có vùng lãnh hải gắn với bờ biển rộng khoảng 226.000 km2. Do vậy hệ sinh thái biển cũng rất phong phú, có 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, có tính đa dạng sinh học và nawg suất sinh học cao. Trong vùng biển nước ta đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong các vùng đa dạng sinh học biển khác nhau. Thành phần quần xã trong hệ sinh thái giàu, cấu trúc phức tạp, thành phần loài phong phú. Đây là môi trường sản xuất thuận lợi và rộng lớn gắn chặt với đời sống của hàng triệu cư dân sống ven biển của Việt Nam. Hệ sinh thái rừng: Các hệ sinh thái của rừng Việt Nam rất đa dạng, mỗi hệ sinh thái rừng thực chất là một phức hệ rất phức tạp,được vận hành và chi phối bởi các quy luật nội vi và ngoại vi. Một số hệ sinh thái điển hình: rừng trên núi đá vôi, rừng rụng lá và nửa rụng lá, rừng thường xanh núi thấp, núi trung bình, núi cao...có giá trị đa dạng sinh học cao và có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam. Diện tích rừng của Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn biến động khác nhau. Theo thống kê của tác giả Paul Maurand (1943), năm 1943 Việt Nam có diện tích rừng là 14,3 triệu hecta, đạt tỉ lệ che phủ lãnh thổ là 43%. Từ năm 1943-1975, diện tích rừng đã bị suy giảm còn 11,2 triệu hecta với tỷ lệ che phủ (Viện Điều tra quy hoạch rừng, năm 1976). Giai đoạn 1976 đến 1990 là thời kỳ tài nguyên rừng bị khai thác mạnh để phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước sau chiến tranh. Diện tích rừng trong giai đoạn này tiếp tục giảm xuống, diện tích rừng năm 1990 chỉ còn chưa đầy 9,2 triệu hecta với tỷ lệ che phủ chỉ đạt 27,8%. Giai đoạn 1990 đến nay Chính phủ đã có nhiều biện pháp về chính sách và đầu tư nên diện tích rừng đã dần được phục hồi kể cả diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng. Năm 2015, diện tích rừng đã đạt trên 12,6 triệu hecta với độ che phủ 37%. Do nhiều nguyên nhân đã làm cho diện tích rừng tự nhiên bị giảm sút trong thời gian qua đã kéo theo sự suy giảm về đa dạng sinh học đối với các hệ sinh thái rừng nói chung. Các hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, tuy nhiên các hệ sinh thái này hiện nay cũng đang đối mặt với nhiều thách thức chủ yếu từ các hoạt động kinh tế xã hội của con người và những biến động của sự thay đổi khi hậu của Trái đất. Diện tích rừng tự nhiên đang có chiều hương suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Môi trường biển cũng đang bị tác động bởi các hoạt động khai thác tài nguyên như dầu khí, hải sản và cả ô nhiễm. Đặc trưng của đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam: Tính phong phú và đa dạng của các hệ sinh thái: Với một diện tích rừng không rộng, nhưng trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau. Ở từng vùng địa lý không lớn cũng tồn tại nhiều kiểu hệ sinh thái.  Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái rừng rất giàu. Cấu trúc quần xã trong các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Điểm đặc trưng này làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiểu điểm khác biệt so với các nước khác trên thế giới.  Tính phong phú của các mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý và các yếu tố sinh học, giữa các nhóm sinh vật với nhau, giữa các loài, giữa các quần thể trong cùng một loài sinh vật. Mạng lưới dinh dưỡng, các chuỗi dinh dưỡng với nhiều khâu nối tiếp nhau làm tăng tính bền vững của các hệ sinh thái. Các mối quan hệ năng lượng được thực hiện song song với các mối quan hệ vật chất rất phong phú, nhiều tầng, nhiều bậc thông qua các nhóm sinh vật/; tự dưỡng, dị dưỡng, hoại sinh trong các hệ sinh thái ở Việt Nam là những chuỗi quan hệ mà ở nhiều nước khác trên thế giới không có được.  Hệ sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng tính mềm dẻo sinh thái cao, thể hiện ở sức chịu tải cao; khả năng tự tái tạo lớn hơn; khả năng tập trung và hạn chế các tác động có hại; khả năng tự khắc phục những tổn thương; khả năng tiếp nhận, chuyển hóa, đồng hóa các tác động từ bên ngoài.  Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái nhạy cảm. Tính mềm dẻo sinh thái của các hệ sinh thái ở Việt Nam làm cho các hệ đó luôn ở trong trạng thái hoạt động mạnh, vì vậy, thường rất nhạy cảm với các tác động từ bên ngoài, kể cả các tác động của thiên nhiên, cũng như những tác động của con người. 2.Tầm quan trọng của đa dạng sinh học Việt Nam:  Giá trị sinh thái và môi trường: Các hệ sinh thái là cơ sở sinh tồn của sự sống trên trái đất, trong đó có loài người. Các hệ sinh thái đảm bảo sự chu chuyển của các chu trình địa hóa, thủy hóa: oxy và các nguyên tố cơ bản khác nhau như cacbon, nito, photpho. Chúng duy trì sự ổn định và màu mỡ của đất, nước ở hầu hết các vùng trên trái đất, làm giảm nhẹ sự ô nhiễm, thiên tai. Gần đây, khái niệm các dịch vụ của hệ sinh thái được đưa ra trên cơ sở các thuộc tính, chức năng của chúng được con người sử dụng. Bảo vệ tài nguyên đất và nước: các quần xã sinh vật đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ rừng đầu nguồn, đặc biệt thảm thực vật có thể làm giảm nhẹ mức độ hạn hán, lũ lụt cũng như duy trì chất lượng nước. Việc hủy hoại thảm rừng do khai thác gỗ, do khai hoang làm nông nghiệp, ngư nghiệp cũng như các hoạt động khác của con người trong quá trình phát triển kinh tế làm cho tốc độ xói mòn đất, sạt lở đất, hoang mạc đất đai tăng lên rất nhanh. Đất bị suy thoái khiến thảm thực vật khó có thể phục hồi càng gia tăng các thảm họa thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán... hoặc gây ô nhiễm môi trường đất và nước. Điều hòa khí hậu: quần xã thực vật có vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu địa phương, khí hậu vùng và cả khí hậu toàn cầu: tạo bóng mát, khuyếch tán hơi nước, giảm nhiệt độ không khí khi thời tiết nóng nực, hạn chế sự mất nhiệt khi khí hậu lạnh giá, điều hòa nguồn khí oxy và cacbonic cho môi trường trên cạn cũng như dưới nước thông qua khả năng quang hợp... Phân hủy các chất thải, các quần xã sinh vật, đặc biệt các loài nấm và vi sinh vật có khả năng hấp phụ, hấp thụ và phân hủy các chất ô nhiễm như kim loại nặng, thuốc trừ sâu và các chất thải nguy hại khác.  Giá trị kinh tế: Theo một số tài liệu, đa dạng sinh học trên toàn cầu có thể cung cấp cho con người một giá trị tương đương 33.000 tỷ USD/năm. Trong kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam (1995) cũng ước tính, hàng năm việc khai thác tài nguyên nông, lâm, ngư nghiệp và thủy sản của Việt Nam có giá trị tương đương 2 tỷ USD. Giá trị kinh tế của đa dạng sinh học có thể nêu khái quát về các mặt sau đây:  Giá trị được tính ra tiền do việc khai thác, sử dụng mua bán hợp lý các tài nguyên đa dạng sinh học.  Đa dạng sinh học đảm bảo cơ sở an ninh lương thực và phát triển bền vững của đất nước, đảm bảo các nhu cầu về ăn, mặc của nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo.  Đa dạng sinh học cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản: mía đường, bông vải, cây lấy dầu, cây lấy sợi, thuốc lá, cói, hạt điều...  Đa dạng sinh học góp phần nâng cao độ phì nhiêu của đất, qua đó làm tăng giá trị nông sản.  Giá trị xã hội và nhân văn: Trong các nên văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới, một số loài động vật hoang dã được coi là biểu tượng trong tín ngưỡng, thần thoại hoặc các tác phẩm hội họa, điêu khắc. Sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên sinh vật đã hình thành các lễ hội của một số bộ tộc ít người như lễ hội săn bắn theo mùa, hoặc hình thành sự quản lý tài nguyên theo tính chất cộng đồng như vai trò của già làng, trưởng bản trong việc phân định phạm vi, mức độ khai thác, sử dụng tài nguyên đất và rừng. Cuộc sống văn hóa của người Việt Nam rất gần gũi thiên nhiên, các loài động vật, thực vật nuôi trồng hay hoang dã và các sản phẩm của chúng ta đã quen thuộc với mọi người đân, đặc biệt người dân sống ở vùng nông thôn và miền núi, như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn (Hải Phòng), lễ hội đua thuyền...Nhiều loài cây, con vật đã trở thành thiêng liêng hoặc vật thờ cúng đối với các cộng đồng người Việt như: gốc đa thiêng, đền thờ cá Ông ở các tỉnh miền Nam Trung bộ. Các khu rừng thiêng, rừng ma là những nét văn hóa độc đáo của nhiều dân tộc miền núi. Nghề dệt thổ cẩm, làm hương, làm hàng mỹ nghệ từ gỗ, tre nứa hay song mây là những sự gắn bó của đời sống văn hóa con người Việt Nam với đa dạng sinh học. Rất nhiều loài động vật hoang dã được thuần dưỡng với mục đich làm bầu bạn với con người hoặc thuần hóa để chăn nuôi làm thực phẩm sử dụng hàng ngày. Rất nhiều thú vui của con người được tạo nên thông qua việc tổ chức tham quan, theo dõi tập tính của nhiều loài động vật hoang dã. Gần đây ngành du lịch sinh thái đã hình thành và đang phát triển rộng rãi trên cơ sở sự ham hiểu biết thiên nhiên của con người đồng thời cũng là điều kiện để nâng cao nhận thức tầm quan trọng của công tác bảo tồn thiên nhiên cũng như làm cho con người gần gũi hơn, thân thiện hơn với thiên nhiên hoang dã. Giá trị xã hội- nhân văn của đa dạng sinh học thể hiện tập trung ở các mặt sau đây: o Tạo nhận thức, đạo đức và văn hóa hưởng thụ thẩm mỹ công bằng cửa người dân. Qua các biểu hiện phong phú nhiều dáng vẻ, nhiều hình thù, nhiều màu sắc, nhiều kết cấu, nhiều hương vị của thế giới sinh vật con người trở nên hiền hòa, yêu cái đẹp. o Đa dạng sinh học góp phần đắc lực trong việc giáo dục con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước. o Đa dạng sinh học là yếu tố chống căng thẳng, tạo sự thoải mái cho con người. Điều này đặc biệt có giá trị trong thời đại công nghiệp, trong cuộc sống hiện tại căng thẳng và đầy sôi động. o Đa dạng sinh học góp phần tạo ổn định xã hội thông qua việc bảo đảm an toàn lương thực, thực phẩm, thỏa mãn các nhu cầu của người dân về đầy đủ các chất dinh dưỡng, về ăn mặc, tham quan du lịch và thẩm mỹ. 3.Sự suy giảm của đa dạng sinh học ở Việt Nam: Thực trạng của đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay:  Các hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái  Các loài tự nhiên bị suy giảm.  Nguồn gen cây trồng vật nuôi bị suy giảm. Trong tiến trình lịch sử của sự phân hóa và tiến hóa, số lượng các loài còn nhiều gấp bội, song chúng đã bị tiêu diệt phần lớn do những biến động lớn lao của vỏ Trái đất và của khí hậu toàn cầu. Con người đóng góp vào nạn diệt chủng của các loài chi sau khi họ ra đời và phát triển nền văn minh của mình và cũng là tác nhân chủ yếu làm mất đa dạng sinh học. Sự mất đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng giống như trên thế giới ngày một gia tăng, tốc độ suy giảm đa dạng sinh học ngày một tăng do ảnh hưởng các hoạt động con người vào tự nhiên. Trên thực tế, tốc độ suy giảm đa dạng sinh vật của nước ta nhanh hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực. Suy giảm hệ sinh thái: Hệ sinh thái rừng bị tổn thất nặng nề:  Diện tích rừng bị thu hẹp. Rừng bị khai thác: 120.000250.000ha/năm  Độ che phủ rừng bị giảm sút tới mức: báo động độ che phủ rừng.  Tình trạng mất rừng hầu hết xảy ra ở các rừng phòng hộ xung yếu  Chất lượng rừng bị giảm, bị thu hẹp và chia cắt. Độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm. Suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước: đầm phá Tam Giang, rừng ngập mặn Cần Giờ, rừng U Minh Thượng,...  Suy thoái về số lượng: diện tích bị giảm...  Suy thoái về chất lượng: 70% diện tích đất ngập nước bị ô nhiễm  Rừng ngập nước và tràng cỏ ngập nước ở đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã chuyển đổi thành đất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản  Diện tích đất ngập nước hiện nay: chỉ còn 10 triệu ha.  Rừng ngập mặn: diện tích rừng ngập mặn đã giảm 183.724 trong 20 năm qua  Các hệ sinh thái đầm phá và tràng cỏ ở miền trung cũng suy thoái nặng nề do khai thác thủy hải sản không bền vững và mở rộng nuôi trồng thủy sản.  Các hệ sinh thái đất ngập nước thuộc các sông hồ cũng bị khai thác cạn kiệt và do xây dựng cơ sở hạ tầng.  Mở rộng đất ngập nước để nuôi trồng thủy sản làm suy giảm tài nguyên sinh học tại chỗ: mất nơi sống, nơi sinh sản , vườn ươm của nhiều loài động vật dưới nước và trên cạn.  Làm mất nguồn thức ăn phong phú của nhiều sinh vật vùng triều, hậu quả là sản lượng tôm, cá đánh bắt ở ngoài biển cũng giảm... Hầu hết hệ sinh thái biển khơi ở Việt Nam đều đang bị suy thoái do khai thác quá mức -> hủy diệt; ô nhiễm...dẫn đến hậu quả là thay đổi cấu trúc quần xã thủy sinh. Giảm mật độ các loài thủy sản, 80 loài hải sản bị đe dọa, 70 loài đưa vào sách đỏ, 20 loài chim bị đe dọa toàn cầu. Sự suy giảm các loài tự nhiên: 855 loài bị đe dọa tuyệt chủng và ít nhất 10 loài khác không còn tồn tại ở Việt Nam. 4.Nguyên nhân làm suy giảm đa dạng sinh học: Nguyên nhân trực tiếp: Khai thác quá mức và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học: Nhằm thỏa mãn nhu cầu cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái lượm thực phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên khác. Chiến tranh: chiến tranh không những là nguyên nhân trực tiếp mà còn là nguyên nhân sâu xa gây suy thoái đa dạng sinh học. Trong giai đoạn 1945 đến 1990 nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh và 2 cuộc xung đột biên giới hết sức khốc liệt. Chiến tranh đã gây biến động lớn về phân bộ dân cư giữa các vùng, đồng thời một diện tích rừng bị khái phá để trồng cây lương thực bảo đảm hậu cần tại chỗ cho quân và dân. Không những thế các loài động vật hoang dã còn bị đe dọa bởi các loại vũ khí do chiến tranh để lại sau đó. Khai thác quá mức: -Khai thác gỗ: Các phương thức khai thác gỗ( hợp pháp hay bất hợp pháp) không bền vững từ trước đến nay đều được coi là mối đe dọa lớn đối với đa dạng sinh học. Nó không những làm nghèo kiệt tài nguyên gỗ tự nhiên mà còn làm giảm sút nghiêm trọng chất ượng rừng và gây ảnh hưởng lớn đối với vùng cư trú của các loài động vật hoang dã. -Khai thác củi làm nhiên liệu: Khai thác củi làm nhiên liệu có quy mô lớn và kho kiểm soát, đây cùng là mối đe dọa rất lớn đối với đa dạng sinh học. -Khai thác, buôn bán lâm sản ngoại gỗ. -Đánh bắt cá: Tại nhiều nơi vẫn có tình trạng đánh bắt cá mang tính hủy diệt như dùng mìn, chất nổ, điện, thậm chí cả chất độc. Đánh bắt quá mức có thể gây rõ hậu quả qua sản lượng đánh bắt một số loài cá suy giảm mặc dù cường độ đánh bắt tăng. -Khai thác trái phép tài nguyên các rạn san hô: Bảo tồn rạn san hô ít được chú ý trực tiếp. Một số rạn san hô bị phá hủy, chủ yếu là do sử dụng các phương pháp đánh bắt cá mang tính hủy diệt như đã nói ở trên. Tất cả những phương pháp đánh bắt cá không chọn lọc đó sẽ giết hoặc làm tất cả các loài hoảng sợ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng