LUẬN VĂN:
Tín dụng và các hình thức
trong nền kinh tế thị trường
Lời nói đầu
Mỗi khi xã hội phát triển, đến một trình độ nhất định, tự trong bản thân nó cho
ra đời những sản phẩm - những công cụ để phục vụ chính cho sự phát triển đó. Từ
khi có sự phân công lao động xã hội, và sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất đã tạo ra rất nhiều sản phẩm, mà một trong những sản phẩm của nó chính là
quan hệ tín dụng. Đến lượt nó, khi ra đời sẽ thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển lên
trình độ cao hơn. Do đó, sự tồn tại của nó như một tất yếu khách quan.
Ngày nay, chúng ta biết rằng, khi kinh tế thị trường là sự phát triển của nền kinh tế
ở một trình độ cao. Trong đó, các chủ thể độc lập với nhau về tính chất sản xuất kinh
doanh, về quyền sở hữu, về sự tuần hoàn và luân chuyển vốn. Như vậy trong nền kinh tế
có những doanh nghiệp “thừa” vốn. Ví dụ như các doanh nghiệp có tiền bán hàng nhưng
không phải trả lương, thuế và các khoản chi khác do đó tạm thời thừa tương đối. Trong
khi đó có những doanh nghiệp thiếu vốn những người thừa vốn sử dụng vốn này để thu
lợi nhuận còn doanh nghiệp thiếu vốn muốn sử dụng phải đi vay để duy trì hoạc tién hành
sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Như vậy hai nhu cầu này đều giống nhau ở chỗ để thu
lợi nhuận và mang tính chất tạm thời. Nhưng chúng khác nhau về chiều vận động và
quyền sở hữu. Do đó trong nền kinh tế tất yếu tồn tại quan hệ tiêu dùng và tín dụng.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ chuyển sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, việc tồn tại các loại hình
tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Vấn đề là chúng ta phải nhận thức được tầm quan
trọng của tín dụng trong nền kinh tế và từ đó xác định được loại hình tín dụng nào tồn tại
ở nước ta. Qua đó, nhà nước có các chủ trương, chính sách để kích thích cho sự ra đời
của nó.
Chính vì sự cần thiết như vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay và được sự giúp đỡ
tận tình của thầy cô giáo em quyết định chọn đề tài:
Tín dụng và các hình thức trong nền kinh tế thị trường
Để có thể giải quyết vấn đề trên, trong khuôn khổ bài viết này em trình bày những
vấn đề sau:
Phần 1: Những vấn đề chung về tín dụng
I. Những quan niệm về tín dụng,
II. Sự ra đời và phát triển của tín dụng
III. Bản chất của tín dụng
IV. Đặc điểm của tín dụng
V. Chức năng của tín dụng
Vi. Vai trò của tín dụng
Phần 2: Phân loại tín dụng
I. Theo thời hạn tín dụng
II. Theo đối tượng tín dụng
III. Theo mục đích sử dụng vốn
IV. Chủ thể trong quan hệ tín dụng
Phần 3: Các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường
I. Tín dụng thương mại
II. Tín dụng ngân hàng
III. Tín dụng nhà nước
IV. Tín dụng thuê mua
Phần 4: Thực trạng các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường
I. Tín dụng thương mại
II. Tín dụng ngân hàng
III. Tín dụng nhà nước
IV. Tín dụng thuê mua
Nội dung
Tín dụng ra đời rất sớm với sự xuất hiện của môn kinh tế học và được lưu truyền từ
đời này sang đời khác. Tín dụng xuất phát từ gốc từ Latin “credittum” tức là tin tưởng, tin
nhiệm, tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự vay mượn.
Trong thực tế tín dụng hoat động rất phong phú và đa dạng, nhưng ở bất cứ dạng
nào, tín dụng cũng thể hiện ai mặt cơ bản sau:
Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khac sử
dụng trong một thời gian nhất định.
Thứ hai: Đến thời hạn do hai bên thoả thuận người sử dụng hoàn lại cho người sở
hữu một giá trị lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn ngữ kinh
tế là lãi suất.
Cho vay
Người sở
hữu
(người cho
Trả nợ
Người sử
dụng
(người đi
Phần 1
Những vấn đề chung về tín dụng
i.
Những quan niệm về tín dụng
Hiện nay thuật ngữ tín dụng được sử dụng rộng rãi và phổ biến. Tuy nhiên không có
một định nghĩa nào thống nhất về tín dụng. Bởi vì mỗi người, mỗi ngành lại quan niệm
về tín dụng một cách khác nhau, ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa hai bên, đây là quan hệ điều tiết chỉ giữa hai
người, đó là người đ vay và người cho vay, sự vay mượn chủ yếu bằng tiền.
Tín dụng là sự tin tưởng, tại sao nói tín dụng là sự tin tưởng? Bởi vì chúng ta có tin
tưởng mới đi vay và cho vay (credit) để nhường quyền sử dụng vốn cho nhau.
Tín dụng là việc vay mượn, sử dụng vốn của nhau, nhưng không chỉ dưới hình thức
tiền mà còn dưới hình thức hàng hoá và thậm chí phi tài sản.
Cho dù có nhiều quan niệm về tín dụng, nhưng tựu chung lại ta có thể đưa ra một
khái niệm, có thể nói đó là một khái niệm tổng quát về tín dụng: Tín dụng là nghề vay
mượn tạm thời sử dụng vốn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng.
Để hiểu một cách thấu đáo về tín dụng chúng ta cần phải đi sâu vào quá trình ra đời
và phát triển của tín dụng cũng như bản chất của nó. Có như vậy chúng ta mới có một cái
nhìn sâu sắc hơn, hoàn hảo hơn về tín dụng.
ii.
Sự ra đời và phát triển của tín dụng
1.
Cơ sở ra đời của tín dụng
Sự phân công lao động và sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở
ra đời của tín dụng.
Xét về mặt xã hội sự xuất hiện chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành
sự phân hoá xã hội, của cải, tiền tệ có xu hướng tập trung vào một nhóm người, trong khi
đó một số người có thu nhập thấp hay thu nhập không đáp ứng đủ cho nhu cầu tối thiểu
cuả cuộc sống, đặc biệt khi những biến cố rủi ro bất thường gây ra. Trong điều kiện như
vậy đòi hỏi sử ra đời của tín dụng, để giải quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội, thực hiện
việc điều hoà nhu cầu tạm thời của cuộc sống, đầu tiên là tín dụng nặng lãi.
2.
Quan hệ tín dụng nặng lãi
Tín dụng nặng lãi là tín dụng ra đời đầu tiên vào thời kỳ cổ đại.
2.1. Chủ thể của quan hệ tín dụng nặng lãi
Người đi vay: chủ yếu là nông dân và thợ thủ công, ngoài ra chủ nợ, địa chủ và
quan lại cũng có một phần đi vay nặng lãi.
Người cho vay: là những người hoạt động thương nghiệp tiền tệ, chủ nợ, địa chủ và
một số quan lại.
2.2. Nguyên nhân xuất hiện tín dụng nặng lãi
Trong điều kiện sản xuất thấp kém, phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên, lại
thêm gánh nặng sưu thuế và các tệ nạn xã hội khác, những người sản xuất nhỏ khi phải
đối phó với những rủi ro xảy ra trong cuộc sốngcó thể dẫn đến phải đi vay để giải quyết
những khó khăn trong đời sống, như mua lương thực, thuốc men, đóng tô, thuế. . . còn
các tầng lớp khác đi vay để giải quyết những thiếu hụt tạm thời với các nhu cầu cao.
2.3. Đặc điểm của tín dụng nặng lãi
Tín dụng nặng lãi có lãi suất rất cao. Nguyên nhân là do cầu tín dụng lớn hơn so với
cung và nhu cầu đi vay thường là cấp bách không thể trì hoãn được.
Hình thức vận động của vốn trong quan hệ tín dụng nặng lãi biểu hiện rất đa dạng
đó là:
Cho vay bằng hiện vật và thu nợ bằng hiện vật;
Cho vay bằng tiền, thu nợ bằng hiện vật;
Cho vay bằng tiền, hiện vật và thu nợ bằng công lao động;
Cho vay bằng tiền và thu nợ bằng tiền;
Do những đặc điểm trên của tín dụng nặng lãi mà tín dụng nặng lãi có hai tính chất
sau: những người cho vay nặng lãi muốn duy trì nền sản xuất nhỏ để sự tồn tại của hình
thức tín dụng nặng lãi.
Cho vay nặng lãi thúc đẩy quá trình phân hoá giai cấp và tập trung vốn tạo tiền đề
cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới.
2.4. Tín dụng nặng lãi trong điều kiện ngày nay
Trong điều kiện ngày nay tín dụng nặng lãi còn tồn tại khá phổ biến ở các nước kém
phát triển. Nguyên nhân của sự tồn tại này là do:
Do ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Trong nông nghiệp ruộng đất phần lớn tạp
trung trong tay các địa chủ và áp dụng phương pháp phát canh thu tô, khoản địa tô phải
trả thường là rất cao.
Mức thu nhập của người lao động thấp. Vì vậy, khi xuất hiện các rủi ro bất thường
trong đời sống đòi hỏi phải có vốn vay bổ sung.
Hệ thống tín dụng chưa phát triển.
Do tín dụng nặng lãi vẫn tồn tại cho nên để hạn chế cho vay nặng lãi, các nước
thường áp dụng biện pháp sau:
Cải cách dân chủ trong nông nghiệp mà phương thức cơ bản là chia ruộng đất cho
nông dân.
Phát triển hệ thống tín dụng, tổ chức và mở rộng hệ thống ngân hàng.
3.
Sự phát triển của hệ thống tín dụng trong nền kinh tế
Sản xuất hàng hoá là nguyên nhân ra đời của tín dụng, vì vậy ở bất cứ xã hội nào có
sản xuất thì tất yếu có sự hoạt động của tín dụng.
3.1. Nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của tín dụng
Trong kinh tế thị trưòng các xí nghiệp hoạt động độc lập và giữa chúng có mối quan
hệ thông qua trao đổi - mua và bán để hình thành hệ thống kinh tế thống nhất.
Để thực hiện mối quan hệ trên các tổ chức kinh doanh phải có vốn tiền tệ và phải
sử dụng thước đo tiền tệ để tổ chức và quản lý kinh doanh. Xuất phát từ tính chất hoạt
động đó mà vốn của doanh nghiệp liên tục trải qua các giai đoạn và biêủ hiện dưới các
hình thái khác nhau. Qúa trình tuần hoàn vốn thể hiện như sau: T - H - SX - H’ - T’.
Giai đoạn 1: Vốn tiền tệ ứng ra để mua tư liệu sản xuất. Trong giai đoạn này vốn từ
hình thái tiền tệ chuyển thành hình thái hàng hoá.
Giai đoạn 2: Tiến hành tổ chức sản xuất, tức là quá trình kết hợp giữa lao động
sống và lao động vật để tạo ra sản phẩm mới. ở giai đoạn này vốn từ hình thái hàng hoá
chuyển thành hình thái chi phí sản xuất và cuối cùng sau khi sản phẩm mới đã được tạo
ra, vốn lại trở về hình thá hàng hoá.
Giai đoạn 3: Sản phẩn được đưa ra tiêu thụ, vốn lại trở về hình thái ban đầu của nó
tức là vốn bằng tiền. Riêng đối với các xí nghiệp trong lĩnh vực lưu thông, tuần hoàn vốn
chỉ chải qua hai giai đoạn: mua sản phẩm và bán sản phẩm, do đó vốn cũng chỉ biểu hiện
dưới hai hình thái là hàng hoá và tiền tệ.
Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn như trên mà mỗi khi không có sự ăn khớp về
thời gian và khối lượng về mua vật tư hàng hoá phục vụ sản xuất với việc tiêu thụ hàng
hoá thì tất yếu xảy ra hiện tượng:
- Hoặc có vốn hàng hoá chưa tiêu thụ hoặc đã tiêu thụ và thu được tiền nhưng
chưa cần thiết phải mua vật tư nguyên liệu dự trữ cho sản xuất.
- Hoặc có nhu cầu mua vật tư gàng hàng hoá phục vụ quá trình sản xuất nhưng
không có tiền. Hiện tượng thừa vốn này thể hiện khá rõ nét đối với các doanh nghiệp sản
xuất mang tính thời vụ. Còn đối với các loại hình xí nghiệp khác thì hiện tượng thừa vốn
cũng thường xuyên xảy ra; Bởi vì, mặc dù việc sản xuất được tiến hành liên tục nhưng
việc mua bán vật tư nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm được tiến hành theo định kỳ. Vì
vậy, tất yếu sẽ xuất hiện sự không ăn khớp giữa hai quá trình mua bán. Tuy nhiên đối với
các doanh nghiệp không thời vụ việc thừa thiếu vốn tiền tệ với thời gian ngắn hơn và quy
mô nhỏ hơn so với xí nghiệp thời vụ, chỉ trừ những doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh
doanh dài.
ở mỗi doanh nghiệp thì có lúc thiếu vốn, lúc thừa vốn, nhưng đứng trên giác độ toàn
bộ nền kinh tế quốc dân thì tại mỗi thời điểm nhất định sẽ có hiện tượng:
Một nhóm doanh nghiệp có vốn tạm thời chưa sử dụng.
Một nhóm những xí nghiệp khác lại có nhu cầu bổ sung tạm thời.
Sở dĩ có hiện tượng này là vì, chu kỳ sản xuất kinh doanh và tính chất thời vụ ở mỗi
doanh nghiệp, mỗi ngành kinh tế không giống nhau, trong lúc đó tái sản xuất là một quá
trình liên tục trên cơ sở phân công và hợp tác trên toàn bộ nền kinh tế.
Vì vậy khi mà xí nghiệp này thừa vốn thì tất yếu sẽ có xí nghiệp khác thiếu vốn. Ví
dụ, nông trường sản xuất mía sau khi thu hoạch sẽ có vốn tạm thời nhàn rỗi, ngược lại đối
với xí nghiệp chế biến đường lại có nhu cầu rất lớn về dự trữ nguyên liệu cho sản xuất.
Đây là hiện tượng khách quan tồn tại ngay trong quá trình tái sản xuất xã hội, đồng
thời nó là mâu thuẫn của quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn. Chính điều này đòi hỏi
phải có tín dụng làm cầu nối giữa nơi thườ và nơi thiếu.
Nếu xét về đặc điểm vốn trong quá trình tái sản xuất giản đơn thì hiện tượng thừa
thiếu vốn tạm thời trong toàn bộ nền kinh tế được bù trừ lẫn nhau. Tuy nhiên tái sản xuất
là quá trình thường xuyên mở rộng và phát triển, vì vậy đòi hỏi phải có vốn đầu tư bằng
vốn tiết kiệm.
Trong cơ chế thị trường tồn tại và phát triển luôn gắn bó với nhau, vì vậy nhu cầu
vốn cho sản xuất không chỉ để duy trì mức sản xuất như cũ mà còn có nhu cầu đầu tư
phát triển. Nhu cầu vốn trong trường hợp này được dùng để đầu tư vào tài sản cố định,
tăng dự trữ vật tư hàng hoá cho tái sản xuất mở rộng.
Đối với các xí nghiệp, đơn vị kinh tế, lợi nhuận tích luỹ để đầu tư có giới hạn. Vì
vậy muốn thực hiện được nhu cầu mở rộng sản xuất cần thiết phải nhờ đến nguồn vốn
trong xã hội.
Mỗi khoản tiết kiệm có một mục đích nhất định như nhà kinh doanh tiết kiệm để
mở rộng sản xuất, cá nhân mở rộng để mua sắm. . mục đích của tiết kiệm có thể được
thực hiện ngay hoặc được thực hiện trong tương lai. Chính vì vậy trong điều kiện chưa
thực hiện được nhũng mục đích đã định những người chủ của vốn
Tiết kiệm có thể sử dụng vốn này để cho vay hoặc trực tiếp như mua trái phiếu hoặc
gián tiếp như gửi vào tổ chức tín dụng.
Như vậy sự xuất hiện của tín dung xuất phát từ nhu cầu tiết kiệm, nhu cầu đầu tư và
phát triển. Mà tín dụng là nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Tóm lại trong nền kinh tế hiện đại, đặc điểm tuần hoàn vốn và yêu cầu của quá trình
tiết kiệm và đầu tư đòi hỏi phải có tín dụng.
3.2. Tín dụng ngày càng mở rộng và phát triển một cách đa dạng.
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng ngày càng mở rộng, chủ thể tham gia các
quan hệ tín dụng bao gồm cá nhân, các doanh nghiệp và nhà nước trung ương, cũng như
các địa phương.
Quan hệ tín dụng được mở rộng về đối tượng và quy mô thể hiện ở các mặt sau:
- Các tổ chức ngân hàng và các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng khác phát
triển mạnh và có mặt khắp mọi nơi.
- Phần lớn các doanh nghiệp đều có sử dụng vốn tín dụng (vay ngân hàng, mua
chịu hàng hoá, phái hành trái phiếu) và khối lượng ngày càng lớn.
- Thu nhập ngày càng tăng đối với cá nhân và vì vậy ngày càng có nhiều người
tham gia vào các quan hệ tín dụng
III. Bản chất tín dụng.
Tín dụng tồn tạ trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. ở bất cứ phương thức
sản xuất nào tín dụng cũng biểu hiện ra bên ngoài là sự vay mượn tạm thời một vật hoặc
một số vốn tiền tệ, nhờ vậy mà người ta có thể sử dụng được giá trị của hàng hoá hoặc
trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua trao đổi.
Để vạch rõ bản chất của tín dụng cần thiết phải nghiên cứu liên hệ kinh tế của tín
dụng trong quá trình hoạt động của tín dụng và mối liên hệ của nó với quá trình tái sản
xuất.
Về sự vận động của tín dụng: tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và
người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua vận động giá trị vốn, tín dụng
được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ. Hoặc quá trình vận động của nó thông qua các quá
trình sau:
Thứ nhất: phân phối vốn tín dụng dưới hình thức cho vay.
Thứ hai: sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất.
Thứ ba: sự hoàn trả của tín dụng. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của
tín dụng.
Sự hoàn trả của tín dụng là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là
dấu ấn phân biệt tín dụng với các phạm trù kinh tế khác.
IV. Đặc điểm của tín dụng.
- Có sự vận động độc lập tương đối giữa quyền sở hữu và quyền sủ dụng.
- Giá cả trong quan hệ mua bán ngang bằng với giá trị nhưng trong quan hệ tín
dụng thì không. Gía cả ở đây là biểu hiện của giá trị sử dụng một số vốn trong một thời
gian.
Mác viết “ đem tiền cho vay với tư cách là một vật có đặc điểm là sẽ quay trở về
điểm xuất phát của nó mà vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn
thêm trong quá trình vận động”.
V.
Chức năng của tín dụng.
1.
Tích tụ tập trung vốn.
Để cho vay và đáp ứng nhu cầu sử dụng khác tín dụng biến tài sản phi tài chính
thành tài sản tài chính.
1.1. Cung của quỹ cho vay.
Tiết kiệm của dân cư;
Tiết kiệm của nhà doanh nghiệp;
Mức thặng dư của ngân sách nhà nước;
Mức tăng của khối lượng tiền cung ứng.
1.2. Cầu của quỹ cho vay.
Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp;
Nhu cầu tín dụng tiêu dùng của cá nhân;
Thâm hụt ngân sách của chính phủ.
2.
Kiểm soát và giám đốc bằng tiền.
Thông qua các thước đo chỉ tiêu được xây dựng trên cơ sở tiền tệ mà tín dụng có thể
góp phần vào hai mục đích sau:
Đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doang nghiệp diễn ra theo đúng
pháp luật và có hiệu quả kinh tế cao.
Bởi vì doanh nghiệp muốn vay ngân hàng thì phải có tài khoản hoặc mục đích sử
dụng vốn hay phương án sản suất kinh doanh.
Về mặt pháp luật, mỗi khi có tiền gửi vào tài khoản phải thuyết trình nguồn thu.
VI. Vai trò của tín dụng.
1. Hoạt động tín dụng đảm bảo nhu cầu về vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và
nhu vầu tiêu dùng cho các cá nhân trong nền kinh tế.
Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các xí nghiệp. Việc phân phối vốn
tín dụng đã góp phần điều hoà trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản
xuất được liên tục.
Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích thích tiết
kiệm đồng thời là phương tiện cung cấp vốn cho đầu tư phát triển.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn hình thành
vốn lưu động và cố định của các xí ghiệp. Vì vậy tín dụng đã góp phần động viên vật tư
đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để đẩy nhanh
quá trình tái sản xuất.
Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mất cân đối, lạm
phát và thất nghiệp vẫn còn ở mức độ cao. Vì vậy thông qua việc đầu tư tín dúngẽ góp
phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
Mặt khác thông qua hoạt động tín dụng mà sử dụng nguồn lao động và nguồn
nguyên liệu một cách hợp lý, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời góp phần
giải quyết các vấn đề xã hội.
2. Thông qua hoạt động tín dụng, các tổ chức tín dụng tăng cường giám sát đối với
khách hàng vay vốn, từ đó nâng cao hiệu quả chung trong toàn bộ nền kinh tế.
3. Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng, mà vốn
này nằm phân tán ở khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước
và của cá nhân. Trên cơ sở đó cho các đơn vị kinh tế vay. Tuy nhiên quá trình đầu tư tín
dụng không phải rải đều cho mọi chủ thể có nhu cầu, mà việc đầu tư được tiến hành một
cách tập trung, chủ yếu là cho các xí nghiệp lớn, những xí nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Đầu tư tập trung là quá trình tất yếu, vừa đảm bảo tránh rủi ro tín dụng, vừa thúc đẩy quá
trình tăng trưởng kinh tế.
4. Tín dụng là công cụ tà trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi
nhọn.
Trong điều kiện nước ta nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết
cho xã hội, đang trong quá trình công nghiệp hoá và là ngành chịu tác động nhiều nhất
của quá trình tự nhiên. Vì vây, trong giai đoạn trước mắt nhà nước cần tập trung đầu tư
phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo
điều kiện để phát triển các ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó nhà nước cần tập trung tín đụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn,
mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành kinh tế khác.
5. Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các xí nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là hoạt động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Vì vậy, hoạt
động của tín dụng đã góp phần kích thích sử dụng vốn vay có hiệu quả.
Khi sử dụng vốn vay ngân hàng thì các xí nghiệp phải tôn trọng hoạt động tín dụng,
tức là phải đảm bảo hoàn trả nợ vay đúng thời hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã ghi
trong hợp đồng tín dụng. Bằng các tác động như vậy, đòi hỏi xí nghiệp phải quan tâm đến
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều
kiện để nâng cao doanh lợi xí nghiệp.
Phần 2
Các hình thức tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú.
Trong quản lý tín dụng các nhà kinh tế thường dựa vào các tiêu thức sau đây để
phân loại
i.
Thời hạn tín dụng
1.
Tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường được sử
dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho
vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
2.
Tín dụng trung hạn.
Là loại tín dụng từ 1 - 5 năm, loại tín dụng này được cung cấp để mua sắm tài sản
cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời
gian thu hồi vốn nhanh.
3.
Tín dụng dài hạn.
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, tín dụng dài hạn được
dùng để đầu tư cho xây dựng cơ bản.
ii.
Đ ối tượng tín dụng.
1.
Tín dụng vốn lưu động
Là loại tín dụng được cấp phát để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế.
2.
Tín dụng vốn cố định.
Là loại tín dụng được cấp phát để hình thành tài sản cố định.
iii.
Mục đích sử dụng vốn.
1.
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Là loại cấp phát tín dụng cho các nhà doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác
để tiến hành sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá.
2.
Tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng tiêu dùng là hình thức cấp phát tín dụng cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng.
iV. Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ sử dụng vốn.
1.
Tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp, được biểu
diễn mua bán chịu hàng hoá.
2.
Tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác
với các nhà doanh nghiệp và các cá nhân.
3.
Tín dụng nhà nước.
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa một bên là nhà nước với một bên là
phần còn lại của nền kinh tế và nhà nước là người đi vay.
4.
Tín dụng thuê mua.
Là quan hệ tín dụng giữa các công ty tài chính với người sản xuất kinh doanh được
thể hiện dưới hình thức cho thuê tài sản cố định.
Phần 3
các hình thức tín dụng xét theo chủ thể
Trong quan hệ tín dụng
i.
Tín dụng thương mại.
1.
Khái niệm.
Tín dụng thương mại là hình thức sử dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế được thể hiện dưới hình thức các doanh nghiệp mua chịu hàng hoá và dịch
vụ lẫn nhau.
2.
Nguyên nhân của sự xuất hiện tín dụng thương mại.
Là do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ, đặc điểm thời vụ trong sản xuất, mua
hoặc bán sản phẩm, vì vậy xảy ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng hoá
muốn bán, trong lúc đó một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền.
Trog trường hựp này nhà doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hiện được
sản phẩm họ có thể bán chịu hàng hoá cho gười mua.
Mua bán chịu là hình thức tín dụng vì:
Người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời trong một thời
gian nhất định.
Đến thời hạn đã được thoả thuận người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình
thức tiền tệ và cả phần lãi suất.
3.
Vai trò của tín dụng thương mại.
Trong thời kỳ quản lý nền kinh tế theo kế hoạch tập trung hầu hết các nước xã hội
chủ nghĩa đều cấm tín dụng thương mại hoạt động. Đến những năm 1980 gắn liền với
quá trình cải tổ và đổi mới quản lý kinh tế nhà nước đã bắt đầu cho phép tín dụng thương
mại hoạt động.
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh nghiệp
thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mạ một mặt đáp ứng được
nhu cầu vốn của các nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu, đòng thời giúp các xí nghiệp tiêu
thụ sản phẩm của mình. Mặt khác, sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giup cho các
nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Một vai trò quan trọng khác của tín dụng thương mại, đó là nó quyết định tính
không ăn khớp của quá trình sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Vì trong nền kinh tế người
sản xuất có hàng hoá nhưng chưa chắc người kinh doanh đã có tiền và người kinh doanh
có tiền chưa chắc người sản xuất có hàng hoá. Tín dụng thương mại đã làm tăng nhanh
tóc độ lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.
Tín dụng thương mại còn góp phần tiết kiệm tiền mặt, tiết kiệm lưu thông tiền tệ,
đảm bảo mối quan hệ kinh tế trong một nền kinh tế.
4.
Đặc điểm của tín dụng thương mại.
Vốn tín dụng tồn tại dưới hình thức hiện vật (do đó có độ an toàn khá cao);
Toàn bộ vốn tín dụng chưa phải là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi đã rút ra khỏi quá
trình sản xuất mà nó vẫn ở trong quá trình sản xuất kinh doanh (vốn sản xuất kinh
doanh);
Quá trình vận đổng của vốn tín dụng thương mại phụ thuộc vàc quy mô của quá
trình sản xuất kinh doanh.
5.
Công cụ của tín dụng thương mại.
Cơ sở pháp ly xác định quan hệ nợ nợ là giấy báo nợ. Đây là một loai đặc biệt của
khế ước dân sự xác định trao quyền cho người bán và nghĩa vụ thanh toán nợ của người
mua khi món nợ đến hạn.
Giấy nợ trong tín dụng thương mại gọi là thương phiếu.
Thưong phiếu có hai loại đó là kỳ phiếu và hối phiếu.
5.1. Kỳ phiếu thương mại là do người mua chịu phát hành ra để cam kết trả một
món nợ tiền nhất định khi đến hạn cho người bán.
5.2. Hối phiếu là do người bán chịu phát hành ra để ra lệnh cho người m ua chịu trả
số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn.
Bỏ qua sự khác biệt về người phát hành ra nó, hối phiếu và kỳ phiếu đều giống
nhau là thực hiện nghĩa vụ tài chính mà người mua chịu phải chiụ trách nhiệm trước
người bán chịu vào thời điểm nhất định với những điều kiện nhất định.
5.3. Đặc điểm của thương phiếu.
- Tính trừu tượng: trên thương phiếu không ghi rõ nguồn gốc và mục đích khoản
nợ mà chỉ ghi nghĩa vụ tài chính.
- Tính bắt buộc: luật pháp sẽ can thiệp vào hành vi mua bán chịu đến thời hạn
thanh toán người mua chịu phải chịu trách nhiệm trả tiền một cách vô điều kiện đối với
người bán chịu.
- Đựơc lưu thông như tiền: nó được dùng làm phương tiện lưu thông, phương tiện
thanh toán trong trời hạn hiệu lực của nó.
6.
Ưu, nhược điểm của tín dụng thương mại.
6.1. Ưu điểm.
- Giúp cho các doanh nghiệp (mua và bán) đảm bảo duy trì được tính liên tục của
quá trình sản xuất kinh doanh.
- Quyết định tính không ăn khớp của sản xuất hàng hoá, làm đẩy nhanh tốc độ lưu
thông hàng hoá;
- Góp phần làm giảm chi phí lưu thông trong nền kinh tế và tham gia điều tiết vốn
giữa các doanh nghiệp một cách trực tiếp;
- Tiết kiệm được khối lượng lưư thông tiền mặt. Tín dụng thương mại tồn tại cùng
với nền kinh tế thị trường, trở thành một đặc trưng của nền kinh tế thị trường.
6.2. Nhược điểm.
Mặc dù tín dụng thương mại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhưng nó
không thể thay thế các hình thức tín dụng khác, vì nó có nhữg mặt hạn chế sau:
- Hạn chế về quy mô tín dụng và chiều vận động của hàng hoá. Tín dụng thương
mại do các nhà doanh nghiệp cung cấp và họ chỉ cung cấp giới hạn khả năng của mình.
Nếu người đi vay có nhu cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng được.
Quy mô lớn nhất của tín dụng thương mại = tổng giá trị hàng hoá của người bán
chịu
Chiều vận động của tín dụng thương mại phụ thuộc vào chiều vận động của hàng
hoá.
Nó chỉ vận động theo một chiều nhất định. Do đó ảnh hưởng đến nền kinh tế, dẫn
đến khhủng hoảng kinh tế mang tính lan tryền, cộng hưởng nếu một khâu nào đó hay
một bộ phận nào đó bị phá sản.
- Hạn chế về thời hạn cho vay: Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của một
doanh nghiệp có thể phù hợp với nhau, vì vậy khi thời hạn mà người cho vay muốn cung
cấp và người đi vay có nhu cầu không phù hợp hau thì tín dụng không thể xảy ra. Tuy
nhiên, nhờ phương pháp cấp tín dụng của ngân hàng dưới hình thức chiết khấu đã giải
quyết được một phần hạn chế.
- Hạn chế phương hướng: Tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức
hàng hoá, vì vậy nhà doanh nghiệp chỉ cung cấp được tín dụng cho một số xí nghiệp nhất
định_ những xí nghiệp cần hàng hoá đó để sử dụng cho sản xuất kinh doanh hoặc dự trữ
để bán.
- Tạo ra mầm mống của khủng hoảng sản xuất thừa
Vì nếu mua trao tay tức là chỉ mua những thứ cần thiết trong ngắn hạn vì số tiền là
có giới hạn. Nhưng nếu có tín dụng thương mại tức là có tích luỹ tạo ra cầu giả tạo làm
cho người sản xuất sẽ sản xuất ra nhiều hơn và do đó sẽ tạo ra sự dư thừa hàng hoá.
- Loại bỏ khả năng kiểm soát của hệ thống ngân hàng với hoạt động kinh tế quốc
dân làm tạo ra mầm mống cho những nguồn thu nhập bất hợp pháp.
ii.
Tín dụng ngân hàng.
1.
Khái niệm.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác
với các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian. Vì vậy, trong
quan hệ tín dụng với các nhà doanh nghiệp, các cá nhân, ngân hàng vừa là người cho vay
đồng thời cũng là người đi vay.
Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tièn gửi của các nhà doanh nghiệp, cá
nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu đó huy động vốn trong xã hội.
Trái lại với tư cách là người cho vay ngân hàng cung cấp tina dụng cho các doanh
nghiệp và cá nhân.
2.
Đặc điểm của tín dụng ngân hàng.
- Vốn tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ, vốn tín dụng đã
được giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh, là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi.
- Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng tương đối độc lập so với quá trìh
sản xuất kinh doanh;
- Hoạt động sản xuất kinh doanh mở rộng, phát triển sẽ làm cho nhu cầu về vốn
tăng dẫn đến hu cầu về vốn tín dụng cao và điều này tất yếu dẫn đến hoạt động tín dụng
ngân hàng phát triển theo;
- Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung và
hỗ trợ cho nhau. Hoạt động của tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở để cung cấp tín dụng
ngân hàng, điều này thể hiện thông qua việc cấp vốn tín dụng ngân hàng ttrên cơ sở
thương phiếu của ngân hàng thươg mại. Trái lại hoạt động của tín dụng ngân hàng đã góp
phần khắc phục các mặt hạn chế của tín dụng thương mại, đồng thời tạo điều kiện cho tín
dụng thương mại phát triển.
- Xem thêm -