Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tìm hiểu tục tang ma của người mường tỉnh hòa bình...

Tài liệu Tìm hiểu tục tang ma của người mường tỉnh hòa bình

.PDF
87
267
112

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ HÀ TÔN NGÂN HÀ TÌM HIỂU TỤC TANG MA CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HÒA BÌNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử văn hóa Hà Nội, 2016 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa, quý Thầy, cô giáo khoa Lịch sử trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 và quý thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung, cô đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. Tác giả cảm ơn tập thể lớp K38 A – CN Lịch Sử, trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2015 Tác giả Hà Tôn Ngân Hà LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình học tập nghiên cứu của tôi cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô giáo – TS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung. Trong quá trình làm khóa luận tôi có tham khảo những tài liệu có liên quan đã được hệ thống trong mục Tài liệu tham khảo. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả Hà Tôn Ngân Hà MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4 6. Đóng góp của đề tài ...................................................................................... 4 7. Cấu trúc của đề tài ....................................................................................... 5 Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HÒA BÌNH..................................................................................................................... 6 1.1. Khái quát về tỉnh Hòa Bình ..................................................................... 6 1.1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................ 6 1.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên .................................... 6 1.1.3. Điều kiện kinh tế- xã hội ..................................................................... 9 1.2. Vài nét về người Mường tỉnh Hòa Bình ............................................... 16 1.3. Quan niệm sống và chết của người Mường tỉnh Hòa Bình ................ 21 Tiểu kết chương 1........................................................................................... 24 Chương 2. TANG MA CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HÒA BÌNH ............ 25 2.1. Quan niệm về tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình................... 25 2.2. Các công việc chuẩn bị cho việc mai táng ............................................ 26 2.2.1. Tang phục và Áo quan ...................................................................... 26 2.2.2. Làm nhà ram, nhà xe, không lôộng ................................................. 32 2.2.3. Khai lăng, đào huyệt .......................................................................... 35 2.3. Các bước tiến hành tang ma .................................................................. 38 2.3.1. Báo tin và đón tiến người đến viếng ................................................. 38 2.3.2. Khâm liệm và nhập quan .................................................................. 40 2.3.3. Các nghi lễ mo ................................................................................... 45 2.3.4. Đưa ma ............................................................................................... 51 2.3.5. Chôn cất ............................................................................................. 54 Tiểu kết chương 2........................................................................................... 58 Chương 3. NHỮNG ĐẶC TRƯNG VÀ SỰ BIẾN ĐỔI TRONG TANG MA CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HÒA BÌNH ................................................... 60 3.1. Những đặc trưng riêng trong tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình. 60 3.1.1.Vai trò của thầy mo............................................................................. 60 3.1.2. Các áng mo......................................................................................... 61 3.1.3. Áo quan .............................................................................................. 62 3.1.4. Tang phục .......................................................................................... 62 3.1.5. Lễ quạt ma .......................................................................................... 63 3.2. Sự thay đổi trong tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình hiện nay .......................................................................................................................... 64 3.2.1. Biến đổi trong quan niệm và nhận thức ........................................... 64 3.2.2. Biến đổi về hình thức báo tang và chuẩn bị tang lễ ........................ 65 3.2.3. Biến đổi các đêm mo và nghi lễ......................................................... 67 3.2.4. Biến đổi ở một số lĩnh vực khác trong tang ma ............................... 69 Tiểu kết chương 3........................................................................................... 71 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 75 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng biệt, độc đáo, tạo thành một bức tranh văn hóa sinh động. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam gắn với xu thế hội nhập, văn hóa các dân tộc và đã góp phần tạo nên văn hóa Việt Nam “đa dạng trong thống nhất”. Trong số những dân tộc góp phần tạo nên văn hóa Việt Nam “đa dạng trong thống nhất”, dân tộc Mường là một trong những dân tộc có đóng góp to lớn tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Hiện nay, người Mường sống trên lãnh thổ Việt Nam chiếm một số lượng khá đông, nhưng chủ yếu tập trung ở các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ... Trong đó ở Hòa Bình, người Mường cư trú với số lượng đông đảo. Họ sống tập trung ở các huyện miền núi như: Lạc Thủy, Lạc Sơn, Tân Lạc, Kim Bôi… Hòa Bình là một vùng đất cổ, nơi còn lưu giữ lại nhiều nét văn hóa truyền thống của dân tộc Mường, trải qua những thăng trầm của lịch sử đến hôm nay vẫn còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa truyền thống. Trong phong tục tập quán của người Mường ở Hòa Bình, tang ma là một sự kiện rất quan trọng. Xuất phát từ niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn và một cuộc sống sau khi chết, quan niệm về thế giới hữu hình và vô hình, người Mường tin rằng người chết sẽ mang lời nguyện cầu của người sống đến với tổ tiên và tổ tiên sẽ thu giữ, chỉ lối cho linh hồn người đã mất ở thế giới bên kia. Mối liên hệ vô hình này luôn giúp người Mường nhớ về người đã mất và giáo dục con cái phải biết tôn trọng, giữ gìn những truyền thống tốt đẹp tổ tiên để lại. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước đã tác động và làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội. Sự giao lưu văn hóa ngày càng được mở rộng giữa quốc gia này với quốc gia khác, tộc người này với tộc người khác. Tuy nhiên, những hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của các dân tộc 1 thiểu số nói chung và của người Mường nói riêng vẫn còn hạn chế. Trong thời đại công nghiệp hóa và toàn cầu hóa, văn hóa của người Mường ở Hòa Bình đang có những thay đổi nhanh chóng. Do vậy, việc tìm hiểu văn hóa truyền thống và những biến đổi là việc làm rất cần thiết có tác dụng giáo dục cho thế hệ trẻ thấy được bản sắc văn hóa quê hương. Mặt khác, là một người con của dân tộc Mường, bản thân tác giả muốn góp một phần công sức của mình để lưu giữ lại những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Do đó, tác giả chọn nghiên cứu vấn đề “Tìm hiểu tục tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình” làm khóa luận tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu các phong tục tập quán của các tộc người, đặc biệt là các dân tộc thiểu số của dân tộc Việt Nam ngày càng nhiều, góp phần không nhỏ làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Việt Nam. Cuốn “Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Huy, do nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1998, đã đề cập một cách khái quát về 54 dân tộc Việt Nam, trong đó có dân tộc Mường. Ở phần viết về người Mường, tác giả đã giới thiệu đôi nét về người Mường, tuy nhiên chưa đi sâu cụ thể. Cuốn sách “Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam” của tác giả Vũ Ngọc Khánh, do nhà xuất bản Thanh niên xuất bản năm 2006, trong đó tác giả đã đề cập đến truyền thống văn hóa của các dân tộc thiểu số Việt Nam ở khía cạnh địa danh, con người huyền thoại dưới dạng câu chuyện. Trong tác phẩm, tác giả đã đề cập đến người Mường ở lĩnh vực nguồn gốc tộc người, công cuộc đấu tranh và bảo vệ bản Mường của nhân dân thông qua bài mo “Đẻ đất đẻ nước”, qua câu chuyện “Dịt dàng” và đề cập đến một số loại nhạc cụ của dân tộc Mường như: cồng, chiêng… Tuy nhiên, những nghiên 2 cứu còn rất sơ lược , khái quát chưa phải là tác phẩm nghiên cứu có hệ thống về văn hóa Mường. Tiếp đó, cuốn “Mo Mường” của Đặng Văn Lung, Bùi Thiện, Bùi Văn Nợi, do nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản năm 1996, đã trình bày một số bài mo của dân tộc Mường. Tác giả Bùi Huy Vọng đã khái lược về những công việc, sự kiện diễn ra trong tang lễ cổ truyền của người Mường thông qua tác phẩm “Tang lễ cổ truyền người Mường”, do nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm 2011. Tuy nhiên tác phẩm chỉ là sự khái quát chung tang lễ cổ truyền của người Mường, chưa tìm hiểu tang lễ cụ thể ở một vùng nhất định. Trong thời gian gần đây, những công trình của giới sử học và dân tộc học Việt Nam khá đồ sộ, đã cho ra đời một khối lượng lớn về việc tìm hiểu phong tục tập quán, các lĩnh vực đời sống văn hóa dân tộc Mường nói chung, trong đó có công trình “Nghi lễ tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình” của tác giả Nguyễn Thị Song Hà chủ biên, được đăng trên tạp chí Đông Nam Á số 11 năm 2009, đã phác họa khá phong phú, đa dạng về người Mường tỉnh Hòa Bình. Nhưng việc nghiên cứu tục tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình vẫn chưa thỏa đáng. Ngoài ra, còn một số trong công trình nghiên cứu của các tác giả, nhà báo, các cán bộ ban ngành quan tâm như: cơ quan Ban Tuyên giáo các huyện, tỉnh, Bộ văn hóa… Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc mô tả chung chung về tục tang ma của người Mường mà chưa đi sâu phân tích những đặc trưng truyền thống của tục tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Từ những vấn đề mà đề tài tiếp cận, mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu những đặc trưng truyền thống và làm rõ những nét thay đổi trong nghi lễ tang ma hiện nay của người Mường tỉnh Hòa Bình. Nhiệm vụ nghiên cứu: Khái quát chung về tỉnh Hòa Bình và giới thiệu đôi nét về người Mường tỉnh Hòa Bình. Phân tích những nghi lễ truyền thống trong tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình, từ đó rút ra những nét đặc trưng trong nghi lễ tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình. Làm rõ một số nét thay đổi trong nghi lễ tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nghi lễ tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình Phạm vi nghiên cứu: Các huyện thuộc tỉnh Hòa Bình. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài của mình, tác giả đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu khác nhau như: tư liệu thành văn, tư liệu điền dã, tư liệu phỏng vấn... Về phương pháp nghiên cứu, tác giả sử dụng hệ thống phương pháp liên ngành, các phương pháp nghiên cứu văn hóa, lịch sử, điền dã, xã hội học... 6. Đóng góp của đề tài Khóa luận góp phần hiểu sâu hơn về tộc người Mường, bên cạnh đó còn thấy được quá trình vận động, biến đổi của một số giá trị văn hóa dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình nói riêng và trên lãnh thổ Việt Nam nói chung cụ thể ở đây là tục tang ma. 4 Khóa luận có thể cung cấp những thông tin có giá trị khoa học làm cơ sở cho các cơ quan chức năng xây dựng và hoàn thiện các chính sách văn hóa nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Mường nói riêng và các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam nói chung. Khóa luận sẽ là tư liệu bổ ích đối với sinh viên ngành lịch sử, văn hóa khi tìm hiểu về văn hóa các dân tộc nói chung và dân tộc Mường nói riêng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Các cá nhân, tập thể quan tâm đến vấn đề văn hóa tộc người Mường nói chung và tang ma nói riêng có thể dùng khóa luận làm tư liệu tham khảo. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu và phần kết luận khóa luận gồm 3 chương. Chương 1. Khái quát chung về người Mường tỉnh Hòa Bình. Chương 2. Tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình. Chương 3. Những đặc trưng và sự biến đổi trong tang ma của người Mường tỉnh Hòa Bình. 5 Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HÒA BÌNH 1.1. Khái quát về tỉnh Hòa Bình 1.1.1. Vị trí địa lý Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc của Việt Nam, có vị trí ở phía nam Bắc Bộ, giới hạn ở tọa độ 20°19' - 21°08' vĩ độ Bắc, 104°48' 105°40' kinh độ Đông, phía Đông giáp thành phố Hà Nội, phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ, phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Thanh Hóa, phía Đông Nam giáp tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội 76 km theo đường quốc lộ 6, là khu vực đối trọng phía Tây của thủ đô Hà Nội, có vị trí quan trọng trong chiến lược khu vực phòng thủ và cả nước [2; tr.1 ]. Hòa Bình hiện có 1 thành phố (thành phố Hòa Bình), 10 huyện (Lương Sơn, Cao Phong, Đà Bắc, Kim Bôi, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thủy, Mai Châu, Tân Lạc, Yên Thủy), 11 thị trấn (Lương Sơn, Cao Phong, Đà Bắc, Bo, Kỳ Sơn, Vụ Bản, Chi Nê, Mai Châu, Mường Khến, Hàng Trạm), 8 phường và 191 xã. Hòa Bình có mạng lưới giao thông đường bộ và đường thủy tương đối phát triển so với các tỉnh trong vùng, trong đó có các tuyến đường quốc lộ quan trọng đi qua như: đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 6, trong tương lai là đường cao tốc Hòa Bình- Hòa Lạc- Hà Nội… Mạng lưới giao thông phân bố khá đều khắp, kết nối Hòa Bình với các tỉnh trong khu vực và các địa phương trong tỉnh khá thuận lợi. Có nguồn điện lực lớn của Nhà máy thủy điện Hòa Bình, hồ Hòa Bình có tác dụng quan trọng trong việc điều tiết nước cho hệ thống sông Hồng. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên Địa hình 6 Đặc điểm nội bật của địa hình tỉnh Hòa Bình là đồi, núi dốc theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, chia thành hai vùng rõ rệt: Phía Tây Bắc (vùng cao): Bao gồm các dải núi lớn, bị chia cắt nhiều, độ cao trung bình so với mực nước biển từ 500-600m, nơi cao nhất là đỉnh núi Phu Canh (huyện Đà Bắc) cao 1.373m. Độ dốc trung bình từ 30-350m, có nơi dốc trên 400m, địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn [21]. Phía Đông Nam (vùng thấp): thuộc hệ thủy sông Đà, sông Bôi, sông Bưởi, sông Bùi, gồm các huyện Kỳ Sơn, Tân Lạc, Kim Bôi, Lương Sơn, Yên Thủy, Lạc Thủy, Lạc Sơn, thành phố Hòa Bình. Địa hình gồm các dải núi thấp, ít bị chia cắt, độ dốc trung bình từ 20-250m, độ cao trung bình so với mực nước biển từ 100-200m, đi lại thuận lợi [21]. Khí hậu Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm trung bình 60%, cao nhất tới 90% vào tháng 8 và tháng 9, thấp nhất là 75% vào tháng 11 và tháng 12. Do khí hậu nhiệt đới gió mùa nên khí hậu được chia làm hai mùa rõ rệt trong năm: Mùa mưa: Kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 trong năm, thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 240 C, cao nhất 38-390 C vào tháng 6 và tháng 7, lượng mưa trung bình từ 1.700-1.800 mm (trên 90% tổng lượng mưa cả năm) [21]. Mùa khô: Kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau, thời tiết lạnh, ít mưa, nhiệt độ trung bình 15-160C, thấp nhất 50C vào tháng 1 và tháng 12, ở vùng núi cao có nơi nhiệt độ xuống tới 20 C, lượng mưa từ 100-200mm (chiếm 10% lượng mưa cả năm) [21]. Khí hậu Hòa Bình nhìn chung tương đối phức tạp, mưa nắng thất thường, tạo ra các vùng tiểu khí hậu khác nhau trên địa bàn tỉnh, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp. 7 Tài nguyên đất Diện tích tự nhiên của tỉnh Hòa Bình tính đến năm 2009 là 4.595,2 km2, gồm 3 nhóm chính: Nhóm Feralit phát triển trên đá trầm tích và biến chất kết cấu hạt thô trên các loại đá chủ yếu là sa thạch Pocfirit Spilit; nhóm đất phát triển trên đá trầm tích và biến chất có kết cấu hạt mịn trên các loại đá phiến thạch sét, diệp thạch; nhóm Feralit phát triển trên đá vôi và biến chất của đá vôi [21]. Đất đai có độ màu mỡ cao thích hợp với nhiều loại cây trồng, với hàng trăm ngàn ha gồm các lô đất liền khoảnh có thể sử dụng vào các mục đích khác nhau nhất là trồng rừng, trồng cây công nghiệp để phát triển công nghiệp chế biến nông- lâm sản và phát triển công nghiệp. Phần đất trống, đồi núi trọc khó phát triển nông nghiệp và trồng rừng có diện tích khá thuận lợi cho việc phát triển và mở rộng các khu công nghiệp. Tài nguyên nước Có mạng lưới sông, suối phân bố khắp trên tất cả các huyện, thành phố. Nguồn cung cấp nước lớn nhất tỉnh Hòa Bình là sông Đà chảy qua các huyện: Mai Châu, Đà Bắc, Tân Lạc, Kỳ Sơn và thành phố Hòa Bình với tổng chiều dài 151km. Hồ Hòa Bình với diện tích mặt nước khoảng 8000 ha, dung tích 9,5 tỷ m3 ngoài nhiệm vụ cung cấp điện cho Nhà máy Thủy điện Hòa Bình còn có nhiệm vụ chính là điều tiết và cung cấp nước cho Đồng bằng sông Hồng [21]. Ngoài ra Hòa Bình còn có hai con sông lớn nữa là sông Bôi và sông Bưởi cùng khoảng 1.800 ha ao hồ, đầm nằm rải rác trên địa bàn tỉnh. Đây cũng là nơi trữ nước, điều tiết nước và nuôi trồng thùy sản tốt. Bên cạnh đó còn có nguồn nước ngầm ở Hòa Bình cũng có trữ lượng khá lớn, chủ yếu được khai thác để sử dụng trong sinh hoạt. Chất lượng nước ngầm ở Hòa Bình được đánh giá là rất tốt không bị ô nhiễm. Đây là một tài nguyên quan trọng cần được bảo vệ và khai thác hợp lý. 8 Tài nguyên rừng Năm 2009 diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Hòa Bình là 251.315 ha, chiếm 54,7% diện tích tự nhiên, trong đó đất rừng tự nhiên 151.949 ha, đất rừng trồng 98.250 ha. Rừng Hòa Bình có nhiều loại gỗ, tre, bương, luồng; cây dược liệu quý như dứa dại, xạ đen, củ bình vôi…[21]. Ngoài ra các khu rừng phòng hộ, phần lớn diện tích rừng trồng thuộc các dự án trồng rừng kinh tế hiện nay đã đến thời kỳ khai thác và tiếp tục được trồng mới mở rộng diện tích, hứa hẹn khả năng xây dựng các nhà máy chế biến quy mô lớn. Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, bao gồm: khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia- Pà Cò, khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (chung với Thanh Hóa), khu bảo tồn thiên nhiên Phu Canh, khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn, vườn Quốc gia Cúc Phương (chung với Ninh Bình và Thanh Hóa), vườn Quốc gia Ba Vì (chung với Hà Nội) và khu bảo tồn đất ngập nước lòng hồ Hòa Bình. Đây là các khu vực có đa dạng sinh học cao, có giá trị đối với phát triển du lịch. Tài nguyên khoáng sản Hòa Bình có nhiều loại khoáng sản đã được tổ chức khai thác như: Amiăng, than, nước khoáng, đá vôi… Đáng lưu ý nhất là đá, nước khoáng, đất sét có trữ lượng lớn. Ngoài ra còn có nhiều mỏ khoáng sản đa kim: đồng, chì, kẽm, thủy ngân, antimon, pyrit, photphorit,… có trữ lượng ở các mức độ khác nhau. Thế mạnh về khoáng sản của tỉnh là đá để sản xuất vật liệu xây dựng, nguyên liệu sản xuất xi măng, nước khoáng khai thác với quy mô công nghiệp. 1.1.3. Điều kiện kinh tế- xã hội Kinh tế Từ xa xưa để đảm bảo cho cuộc sống của mình, cư dân ở Hòa Bình luôn biết tận dụng các khu vực thung lũng bằng phẳng, rộng lớn để canh tác ruộng 9 nước, những nơi có sườn đồi để canh tác thành ruộng bậc thang, còn những nơi có địa hình hiểm trở hơn, đất đá thì họ cải tạo thành các nương rẫy để trồng hoa màu. Dù không có những cánh đồng rộng lớn phù sa như người Kinh ở đồng bằng Sông Hồng, hay những cánh đồng thẳng cánh cò bay như ở đồng bằng Sông Cửu Long, nhưng cư dân ở Hòa Bình vẫn cải tạo đất để có đủ ruộng canh tác, đảm bảo nhu cầu lương thực cho cuộc sống hàng ngày. Nông nghiệp Ruộng nước chiếm vai trò quan trọng, là nguồn cung cấp lương thực chính cho cuộc sống của cư dân Hòa Bình. Bằng kinh nghiệm tích lũy từ đời này sang đời khác, cư dân ở Hòa Bình đã biết cách đào kênh mương, cung cấp nước đầy đủ cho đồng ruộng. Ngày nay bên cạnh việc duy trì các hệ thống thủy lợi truyền thống, thì Nhà nước đã có những biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ để nâng cấp các hệ thống thủy lợi, đê điều để đảm bảo cho cư dân sản xuất. Bên cạnh cây lúa nước thì các loại cây hoa màu như: ngô, khoai, sắn… cũng chiếm vị trí cực kỳ quan trọng trong cuộc sống của cư dân Hòa Bình, là nguồn lương thực chính để phục vụ chăn nuôi gia súc, gia cầm trong mỗi gia đình. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng là nguồn cung cấp lương thực hàng ngày, và đem lại hiệu quả kinh tế cao trong cuộc sống của cư dân Hoà Bình. Xưa kia cư dân ở Hòa Bình chủ yếu dựa vào nguồn lương thực tự cung tự cấp và sử dụng trâu, bò làm sức kéo nông nghiệp nên chủ yếu là nuôi các con vật như: gà, vịt, lợn, trâu, bò… Ngày nay bên cạnh việc chăn nuôi cung cấp lương thực cho cuộc sống hàng ngày, thì cư dân ở Hòa Bình cũng đã có sự trao đổi kinh tế, buôn bán ra bên ngoài, họ đã biết mở rộng thêm các vât nuôi như: dê, bò sữa, ong mật…. Các nghề thủ công truyền thống Trước kia các nghề thủ công truyền ở Hòa Bình chỉ mang tính chất hộ gia đình như các nghề: đan lát, thêu thùa, dệt vải, làm bông… chủ yếu là tự cung, tự cấp và phục vụ cho các hộ gia đình lân cận. Sau này khi có sự 10 giao lưu buôn bán với bên ngoài thì các cư dân ở Hòa Bình đã biết làm ra các mặt hàng có giá trị thẩm mỹ để bán như các loại vải thổ cẩm như của người Mông, khăn Piêu của người Thái, và trang phục truyền thống của các dân tộc cũng được du khách ưa chuộng. Nhờ vậy đem lại hiệu quả kinh tế cho các gia đình, bên cạnh đó cũng là điều kiện để giao lưu và giới thiệu văn hóa với các vùng khác. Lâm nghiệp Chủ yếu là dựa vào tài nguyên thiên nhiên có sẵn trong tự nhiên như các loại gỗ trong rừng. Chính vì vậy đã dẫn đến tình trạng chặt phá và khai thác rừng bừa bãi, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn tài nguyên trong tự nhiên. Sau này Nhà nước có chính sách tuyên truyền, động viên bảo vệ rừng và trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc, thì các cư dân ở Hòa Bình đã biết bảo vệ tài nguyên rừng và trồng rừng để phát triển kinh tế. Xã hội Dân cư Hòa Bình có 832.543 dân (tháng 7/ 2009) bao gồm 6 dân tộc sinh sống, đông nhất là người Mường chiếm 63.3%, người Việt (Kinh) chiếm 27,73 %, người Thái chiếm 3,9%, người Dao chiếm 1,7%, người Tày chiếm 2,7%, người Mông chiếm 0,52%, ngoài ra còn có người Hoa sống rải rác ở các địa phương trong tỉnh. Người Hoa trước đây sống chủ yếu ở Ngọc Lương, Yên Thủy, nhưng sau năm 1979 còn lại một số gia đình và hiện nay sống phân tán ở các xã Yên Trị, Ngọc Lương và Phú Lại huyện Yên Thủy. Ngoài ra còn một số người thuộc các dân tộc khác chủ yếu do kết hôn với người Hòa Bình công tác tại các tỉnh miền núi khác. Hòa Bình là một trong bốn tỉnh của Việt Nam mà trong đó người Việt (Kinh) không chiếm đa số, đồng thời tỉnh Hòa Bình cũng được coi là thủ phủ của người Mường, vì phần lớn người dân tộc Mường sống tập chung chủ yếu ở đây. Người Mường xét về phương diện văn hóa- xã hội là dân tộc gần gũi 11 với người Kinh nhất. Địa bàn cư trú của người Mường ở khắp các địa phương trong tỉnh, sống xen kẽ với người Kinh và dân tộc khác. Người Kinh sống ở khắp nơi trong tỉnh, nhưng người Kinh sống ở Hòa Bình đầu tiên đã lên tới 4-5 đời, đa số di cư đến Hòa Bình vào những năm 1960 của thế kỷ trước thuộc phong trào khai hoang từ các tỉnh đồng bằng lân cận như (Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây..). Trong những năm gần đây sự giao lưu kinh tế, văn hóa mở rộng nhiều người Kinh từ các tỉnh thành đều tìm kiếm cơ hội làm ăn sinh sống ở Hòa Bình. Người Thái tập trung chủ yếu ở huyện Mai Châu, tuy sống với người Mường lâu đời và bị ảnh hưởng nhiều về phong tục, lối sống (đặc biệt là trang phục ) nhưng vẫn giữ được nét văn hóa độc đáo. Đây là vốn quý để phát triển du lịch, Bản Lác là một trong những điểm du lịch thu hút khách du lịch trong và ngoài nước hàng đầu ở Hòa Bình. Người Dao sống thành cộng đồng ở các huyện Đà Bắc, Lương Sơn, Kim Bôi, Cao Phong…. Người H’Mông sống tập trung ở xã Hương Kia và Pà Co của huyện Mai Châu. Trước đây hai dân tộc này sống du canh, du cư, nhưng từ những năm 1970-1980 đã chuyển sang chế độ định canh, định cư và đạt được những thành tựu đáng kể về phương diện kinh tế, xã hội. Người Tày chủ yếu tập trung ở huyện Đà Bắc sống xen kẽ với người Mường và người Dao, người Tày có tập quán và nhiều nét văn hóa giống với người Thái (đặc biệt là ngôn ngữ). Tuy nhiên xét theo khía cạnh trạng phục thì người Tày ở huyện Đà Bắc tỉnh Hòa Bình giống với người Thái Trắng thuộc các huyện Phù Yên, Bắc Yên của Sơn La. Với sự đa dạng về sắc tộc như vậy, đặc biệt là gần với đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ khoảng từ 80 đến 100km, kết hợp với các điều kiện địa hình, phong cảnh của tỉnh Hòa Bình thì đây là tiềm năng lớn để phát triển du lịch. 12 Văn hóa vật chất Ở: Cư dân Hòa bình xưa kia chủ yếu sống trong các nhà sàn, nhà đất trong các làng, bản. Tuy nhiên mỗi dân tộc lại có địa bàn sinh sống khác nhau. Người Mường sống trong nhà sàn, một số là nhà đất ven các thung lũng hẹp, trên sườn núi đá vôi và bên các dòng suối. Cư dân Mường không dựng nhà bên các đường cái lớn mà nhấp nhô, thấp thoáng trong màu xanh bao la của núi rừng. Lối vào bản Mường thường khúc khủy, ngoằn ngèo và uốn lượn theo thế đất rừng tự nhiên. Người Thái-Tày sống trong nhà sàn, tập chung bên những con suối, con sông, một số cư trú ở những nơi tiếp cận rừng rậm nhiệt đới, có khí hậu phức tạp. Địa bàn sinh sống của dân tộc Thái-Tày rất phong phú, có sông suối, núi rừng… rất thuận lợi cho việc làm ăn sinh sống hàng ngày. Người Dao sống rải rác ở các huyện Đà Bắc, Kỳ Sơn… họ sống xen lẫn với các dân tộc khác trong tỉnh Hòa Bình. Nhà ở của người Dao là nhà đất và nhà nửa sàn nửa đất. Người Mông cư trú ở địa hình núi cao hiểm trở, vách đá treo leo hay quanh thung lũng, vực hẹp. Nhà ở của người Mông rất đơn giản chủ yếu họ sống trong nhà đất trên các đỉnh núi cao. Ăn: Hòa Bình là vùng đất nổi tiếng với rất nhiều món ăn của các dân tộc, mỗi dân tộc mang cho mình những món ăn truyền thống riêng mang đậm bản sắc của dân tộc mình. Điều đặc biệt làm nên hương vị của các món ăn đó chính là các loại gia vị tận dụng từ trong tự nhiên mà các dân tộc đã chế biến để cho vào các món ăn. Người Mường thường ăn các món nướng, luộc, đồ như: cá nướng, rau sôi (hay còn gọi là rau đồ), cá ướp chua, ốc lá… Bên cạnh đó dân tộc Mường còn nổi tiếng với các loại bánh nếp như: Bánh Nẳng, bánh Do… Một trong những đặc sản của dân tộc Mường mà không thể không nhắc đến đó chính là rượu Cần mang đậm hương vị núi rừng tự nhiên. 13 Người Thái hay ăn các món xôi nếp, hấp, nấu canh, các món ăn truyền thống của họ như: Cơm lam, Nặm pịa, Lạp bò, Da trâu nấu canh bon, đuôi trâu, bò ninh nhừ, thịt trâu sấy khô, măng đắng… Người Tày hay ăn các món sôi ( hay còn gọi là đồ), nướng, cơm tẻ, các món ăn truyền thống của họ như: Xôi nếp lẫn rau ngót rừng, xôi trứng kiến, cá nướng, cá sấy, mắm cá và cá chúa, thịt lợn tái, thịt gà giò nấu canh gừng nghệ, các loại bánh nếp (bánh Chưng, bánh Dày, bánh nếp với khoai tím...) Người Dao cũng giống như các dân tộc anh em khác, họ cũng thường đồ xôi để ăn trong các dịp lễ tết, các món ăn của họn thường là nấu, luộc, hầm như: thịt lợn nấu canh măng, sương hầm với đu đủ hoặc măng rừng, thịt gà, cá thì đem nướng…. Người Mông ăn rất đơn giản trong bữa ăn hàng ngày họ chủ yếu là ăn cơm hoặc bột ngô chộn lẫn cơm với rau luộc hoặc nấu canh, ngô là cây lương thực không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Bên cạnh việc chộn bột ngô với cơm, họ còn dùng ngô để nấu rượu uống hàng ngày, ngoài ra trong các dịp lễ hội người Mông còn uống rượu Hoẵng. Mặc: Mỗi dân tộc ở Hòa Bình đều có một trang phục riêng, mang sắc thái văn hóa của dân tộc mình. Nhưng tựu chung lại đều có những điểm chung như: trang phục của nưc giới thì có áo ngắn, áo dài, quần, váy, khăn vấn đầu, đai lưng và trang sức; nam giới thì có quần áo, mũ, dải quấn lưng. Tùy vào mỗi bộ trang phục của từng dân tộc mà có nhiều màu sắc khác nhau, trong đó trang phục của dân tộc của phụ nữ Mông là có nhiều màu sắc rực rỡ nhất. Đi lại: Do địa hình ở Hòa Bình chủ yếu là đồi núi nên việc đi lại chủ yếu là đi bộ, xe ngựa và dùng sức kéo của động vật, một số nơi gần sông suối thì di chuyển thêm bằng thuyền, bè. 14 Văn hóa tinh thần Nếp sống: Hòa Bình là một tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống với các hình thái sinh hoạt và đặc trưng văn hóa khác nhau, tạo nên một nền văn hóa đa dang. Các dân tộc chung sống hòa thuận, giúp đỡ và cùng nhau phát triển, họ không xảy ra mâu thuẫn văn hóa mà bên cạnh đó là giao lưu và tương trợ để cùng nhau phát triển. Tín ngưỡng: “vạn vật hữu linh” với các loại thần sông, thần núi, thần khe, thần đá, thần cây, động vật, các lực lượng siêu nhiên như sấm chớp, mưa gió... Các bộ phận trên thân thể con người cũng có hồn. Thái độ kính trọng với rừng, họ bảo vệ rừng ban, hoa ban…… Văn học: phong phú, đủ thể loại từ tục ngữ, thành ngữ, đồng dao, dao duyên, cho đến lời khấn, lời bùa trú, các áng văn trong lễ tang, trong lễ hội, các bài văn vần dạy bảo, các thần thoại, đồng thoại, cổ tích, truyện cười…. ở một số dân tộc có cả truyện thơ dài như Tiễn dăn người yêu (Thái), Tiếng hát làm dâu (H’mông), Vườn hoa núi Cối(Mường). Ngay đến lời hát của các Mothen trong lễ cúng người ốm cũng là một áng du kí ca đầy hình tượng đẹp được diễn tả bằng văn phong trau chuốt. Dân ca: Các dân tộc ở Hòa Bình có rất nhiều làn điệu dân ca truyền thống trong đó người Mường có hát sào bùa, hát bộ meng, hát thường rang, hát ví…, người Thái có hát mo và hát phong tục, hát giao duyên đối đáp…. Múa: Đa dạng với nhiều thể loại múa khác nhau như múa bông, múa cờ của người Mường, múa mùn, múa khăn, múa nhặt hoa, mùa xòe… của người Thái. Ngoài ra còn có các điệu múa khèn của người Mông, múa chuông, múa gậy, múa rùa của người Dao Trò chơi dân gian: Có rất nhiều trò chơi như: đánh đu, ném còn, bịt mắt bắt dê, cờ người, đấu vật… được sử dụng phổ biến trong cuộc sống hàng này, đặc biệt là các dịp lễ hội. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất