Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tìm hiểu tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ việt - thái...

Tài liệu Tìm hiểu tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ việt - thái

.PDF
61
304
93

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC LÙ THỊ XOAN TÌM HIỂU TÍNH LỊCH SỰ CỦA LỜI MỜI TRONG NGÔN NGỮ VIỆT - THÁI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC LÙ THỊ XOAN TÌM HIỂU TÍNH LỊCH SỰ CỦA LỜI MỜI TRONG NGÔN NGỮ VIỆT - THÁI CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Người hướng dẫn: TS. Vũ Tiến Dũng SƠN LA, NĂM 2013 LỜI CẢM ƠN Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học, sự chỉ bảo tận tình của Tiến sĩ Vũ Tiến Dũng, sự quan tâm của Phòng Đào tạo, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, Thư viện nhà trường, cùng các thầy cô giáo bộ môn tiếng Việt và cô giáo chủ nhiệm, các bạn sinh viên K50 ĐHSP Văn – GDCD. Nhân dịp khóa luận được công bố, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ đó. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Vũ Tiến Dũng – người thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Sơn La, tháng 5, năm 2013 Tác giả Lù Thị Xoan MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa .................................................................... 4 3.1. Mục đích .................................................................................................... 4 3.2. Nhiệm vụ .................................................................................................... 4 3.3. Ý nghĩa ....................................................................................................... 4 3.3.1. Ý nghĩa lí luận ......................................................................................... 4 3.3.2. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 4 4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu .............................................. 5 5.1. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 5 5.1.1. Phương pháp khảo sát, thống kê ............................................................. 5 5.1.2. Phương pháp miêu tả, phân tích ............................................................. 5 5.1.3. Phương pháp hệ thống ............................................................................ 5 5.1.4. Phương pháp phân tích, quy nạp ............................................................ 5 5.1.5. Phương pháp so sánh, đối chiếu ............................................................. 5 5.1.6. Phương pháp phân tích diễn ngôn .......................................................... 5 5.2. Nguồn ngữ liệu ........................................................................................... 6 6. Cấu trúc khóa luận ....................................................................................... 6 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ...................................................................... 7 1.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ .................................................................. 7 1.1.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ của Austin .............................................. 7 1.1.1.1. Hành vi tạo lời (Locutionary act) .......................................................... 7 1.1.1.2. Hành vi mượn lời (Perlocution act) ....................................................... 8 1.1.1.3. Hành vi ở lời (Illocutionary act) ............................................................ 9 1.1.1.4. Phát ngôn khảo nghiệm và phát ngôn ngữ vi ....................................... 10 1.1.1.5. Động từ ngữ vi ..................................................................................... 10 1.1.1.6. Phân loại các hành vi ngôn ngữ theo Austin ........................................ 11 1.1.2. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ của Searle ................................................. 11 1.1.2.1. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời theo Searle .................................. 11 1.1.2.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ theo Searle .............................................. 11 1.1.3. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp .................. 13 1.1.3.1. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp .................................................................. 13 1.1.3.2. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp ................................................................. 13 1.2. Lí thuyết hội thoại ................................................................................... 15 1.2.1. Khái niệm cuộc thoại ............................................................................. 15 1.2.2. Những đặc điểm khái quát của một cuộc thoại ..................................... 15 1.2.3. Cấu trúc một cuộc thoại ........................................................................ 16 1.2.4. Các nguyên tắc hội thoại ....................................................................... 16 1.3. Lí thuyết lịch sự ....................................................................................... 16 1.3.1. Khái niệm lịch sự................................................................................... 16 1.3.2. Một số quan điểm về lịch sự trên thế giới.............................................. 17 1.3.2.1. Quan điểm về lịch sự của R. Lakoff ..................................................... 17 1.3.2.2. Quan điểm về lịch sự của Leech .......................................................... 19 1.3.2.3. Quan điểm về lịch sự của Brwon và Levinson ...................................... 22 1.3.3. Một số quan điểm về lịch sự ở Việt Nam ............................................... 23 1.3.4. Lịch sự trong giao tiếp của người Việt .................................................. 23 1.4. Hành vi mời trong giao tiếp .................................................................... 25 1.4.1. Khái niệm lời mời .................................................................................. 25 1.4.2. Một số cách thức mời trong tiếng Việt .................................................. 26 1.4.3. Điều kiện nhận diện lời mời .................................................................. 27 1.4.4. Tính lịch sự trong lời mời của một số ngôn ngữ Âu – Mĩ..................... 28 CHƯƠNG 2. TÍNH LỊCH SỰ CỦA LỜI MỜI TRONG NGÔN NGỮ VIỆT - THÁI ............................................................................................................. 32 2.1. Lịch sự của lời mời trong tiếng Việt ....................................................... 32 2.1.1. Lịch sự của lời mời xét theo vai giao tiếp .............................................. 32 2.1.2. Lịch sự trong hành vi mời thể hiện trong hành vi ở lời trực tiếp.......... 34 2.1.3. Xưng hô một biểu hiện của lịch sự trong lời mời ................................. 35 2.1.3.1. Xưng hô trong gia đình ........................................................................ 35 2.1.3.2. Xưng hô ngoài xã hội........................................................................... 36 2.1.4. Các thành phần bổ trợ - một trong những biểu hiện quan trọng của lịch sự trong lời mời ............................................................................................... 37 2.1.4.1. Thành phần bổ trợ hô gọi .................................................................... 37 2.1.4.2. Thành phần chào hỏi ........................................................................... 37 2.1.4.3. Thành phần nêu lí do mời .................................................................... 38 2.1.4.4. Thành phần thăm dò khả năng ............................................................. 38 2.1.4.5. Thành phần bộc lộ ............................................................................... 38 2.1.4.6. Tỏ ra am hiểu về Sp2 ........................................................................... 39 2.1.4.7. Kết hợp một số biểu thức ..................................................................... 39 2.2. Lịch sự của lời mời trong tiếng Thái ...................................................... 40 2.2.1. Lịch sự của lời mời xét theo vai giao tiếp .............................................. 40 2.2.2. Lịch sự trong hành vi mời thể hiện qua hành vi ở lời trực tiếp ............ 41 2.2.3. Xưng hô - một biểu hiện của lịch sự trong lời mời ............................... 41 2.2.3.1. Xưng hô trong gia đình ........................................................................ 42 2.2.3.2. Xưng hô ngoài xã hội........................................................................... 42 2.2.4. Các thành phần bổ trợ - một trong những biểu hiện quan trọng của lịch sự trong lời mời ............................................................................................... 43 2.2.4.1. Thành phần bổ trợ hô gọi .................................................................... 43 2.2.4.2. Thành phần chào hỏi ........................................................................... 44 2.2.4.3. Thành phần nêu lí do mời .................................................................... 44 2.2.4.4. Thành phần thăm dò khả năng ............................................................. 45 2.2.4.5. Thành phần bộc lộ ............................................................................... 45 2.2.4.6. Kết hợp một số biểu thức ..................................................................... 46 2.2.5. Một số điểm tương đồng và nét khác biệt giữa tính lịch sự của lời mời trong tiếng Việt và tính lịch sự của lời mời trong tiếng Thái.......................... 47 2.2.5.1. Điểm tương đồng ................................................................................. 47 2.2.5.2. Điểm khác biệt ..................................................................................... 48 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Cùng với sự phát triển chung của xã hội loài người, ngôn ngữ cũng ngày càng phát triển phong phú, đa dạng hơn. Trong những sự phát triển đó, chúng ta phải kể đến sự xuất hiện của khái niệm lịch sự trong tương tác. Lịch sự đã xuất hiện khá lâu đời và biểu hiện trong nhiều ngôn ngữ, trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, trong những ngày đầu tiên xuất hiện, tính lịch sự chưa được quan tâm với tư cách như một khái niệm. Phải đến những năm 70 của thế kỉ XIX thì khái niệm lịch sự mới được xem xét và phân tích một cách khoa học với những tên tuổi như: N.Boston và J.C.Lock. Và đến một trăm năm sau, khái niệm lịch sự mới được hình thành, phát triển và trở thành mối quan tâm chú ý thường xuyên của ngành ngôn ngữ học nói chung và ngữ dụng học nói riêng. Tuy vậy, nội dung khái niệm lịch sự không chung cho tất cả các nền văn hóa. Tùy theo mỗi nền văn hóa, mỗi vùng văn hóa khác nhau, khái niệm lịch sự lại được hiểu theo những cách không giống nhau. Theo các tài liệu đã chứng minh, văn hóa phương Tây coi lịch sự như một chiến lược giao tiếp. Đó là những cách thức ứng xử bằng ngôn ngữ khôn khéo, tránh áp đặt và xúc phạm đến đối tượng tham gia giao tiếp nhằm nâng cao hiệu quả trong tương tác. Văn hóa phương Đông lại hiểu khái niệm lịch sự ở phương diện khác. Lịch sự được biểu hiện ở các hành vi có tính lễ độ, chịu sự chi phối của những quy tắc tương tác nhất định. Hiểu theo nghĩa này, lịch sự được coi như những chuẩn mực xã hội. Bên cạnh đó, có một số nhà nghiên cứu lại nhận định lịch sự là sự dung hợp giữa lịch sự chuẩn mực và lịch sự chiến lược. Hay nói cách khác, đó là sự kết hợp hài hòa giữa các cách ứng xử khéo léo, khiêm nhường, lễ phép và đúng mực. Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, cùng với đó là giao tiếp cũng ngày càng được mở rộng. Càng ngày, người ta càng muốn nâng cao hiệu quả giao tiếp và lịch sự là một trong những nhân tố góp phần đáng kể vào việc nâng cao hiệu quả đó. Trong hội thoại, con người chúng ta ai cũng muốn được tôn trọng và giữ thể diện. Do vậy, việc cân nhắc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ trong giao tiếp của mỗi cá nhân để đạt được hiệu quả là điều không đơn giản. Dựa vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, những người tham gia giao tiếp cần có những cách thức phù hợp để tránh đe dọa đến thể diện của người đối thoại cũng như thể diện của mình. Trong giao tiếp, lời mời là một trong những nghi thức lời nói rất quan trọng. Vậy mời như thế nào để đảm bảo sự khéo léo, tế nhị, lịch sự? Điều đó đòi 1 hỏi ở người nói sự tính toán để đưa ra chiến lược giao tiếp phù hợp nhằm đảm bảo được thể diện của mình, đồng thời làm hài lòng và nâng cao thể diện của người nghe. Tùy thuộc vào ngữ cảnh và quan hệ liên nhân giữa các đối tượng mà người nói có thể vận dụng các chiến lược giao tiếp một cách linh hoạt sao cho đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất. Là hành vi ngôn ngữ, cũng như mọi hành vi khác của con người, hành vi mời vừa mang tính phổ quát vừa mang tính đặc ngữ, chịu sự chi phối sâu sắc của văn hóa dân tộc. Việc tìm hiểu tính lịch sự trong lời mời ngôn ngữ Việt – Thái sẽ góp phần bổ sung vào vốn hiểu biết của chúng ta những tri thức về văn hóa của dân tộc Việt và dân tộc Thái. Đồng thời, việc tìm hiểu đó sẽ giúp chúng ta khám phá ra những điểm tương đồng và khác biệt về tính lịch sự trong văn hóa của hai dân tộc này thể hiện qua “lời mời”. Tính đến nay, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sự và lời mời. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào chuyên biệt nghiên cứu về tính lịch sự trong lời mời ngôn ngữ Việt – Thái. Với tất cả những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt - Thái”. 2. Lịch sử vấn đề Vấn đề lịch sự trong giao tiếp từ lâu đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu về ngữ dụng học. Ngày nay, lịch sự càng được nhiều người quan tâm và có một vị trí rõ nét trong giao tiếp. Bởi vì, nhờ lịch sự trong giao tiếp, chúng ta có thể đạt được những điều chúng ta mong muốn một cách tốt nhất. Hiện nay, khi nghiên cứu về lịch sự, trên thế giới đang tồn tại ba khuynh hướng chính. Các khuynh hướng này dựa trên những cứ liệu văn hóa khác nhau của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Tuy mục đích và phương pháp nghiên cứu không giống nhau, nhưng kết quả nghiên cứu của các tác giả đều thừa nhận lịch sự là một hiện tượng xã hội, có tính phổ quát cho mọi cộng đồng. R.Lakoff đưa ra ba quy tắc khác nhau về lịch sự để đối tượng tham gia giao tiếp có thể lựa chọn, sử dụng để thể hiện lịch sự. Theo tác giả này thì những hành động lịch sự hay bất lịch sự đều gắn với bối cảnh giao tiếp cụ thể. Leech cho rằng, lịch sự gắn với quan hệ liên nhân trong tương tác. Nhìn chung, sáu tiêu chí lịch sự của Leech gần gũi với kết cấu các nguyên tắc hội thoại của Grice. Leech cũng lưu ý rằng, một số hành động cố hữu mang tính 2 chất bất lịch sự như: ra lệnh, sai bảo, yêu cầu, khuyên răn,… và có hành động mang bản chất lịch sự như hành động khen tặng. Brown và Levinson là hai tác giả có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực nghiên cứu về lịch sự. Quan điểm của hai tác giả này hiện nay được xem là nhất quán, có ảnh hưởng rộng rãi nhất, có hiệu quả cao nhất đối với nghiên cứu về phép lịch sự. Hai tác giả này đưa ra bốn định hướng trong sự phân định hành động tự thân có thể làm ảnh hưởng, phương hại đến thể diện (Thể diện là động lực của lịch sự và lịch sự là phương tiện để bảo vệ thể diện). Brown và Levinson cho rằng đa số các hành vi ngôn ngữ đều tiềm ẩn nguy cơ đe dọa thể diện và khi giao tiếp, con người ta tìm cách hạn chế những nguy cơ đó. Những hành vi này thuộc tính chiến lược lịch sự của cá nhân trong giao tiếp. Lịch sự ở đây được hiểu là những toan tính cá nhân nhằm tránh áp đặt, tránh vi phạm thể diện để mỗi cá nhân thành công trong tương tác xã hội. Bên cạnh các quan điểm về lịch sự nêu trên, các nhà nghiên cứu về lịch sự dựa trên các cứ liệu văn hóa phi phương Tây lại cho rằng lịch sự không đơn thuần chỉ mang tính chiến lược cá nhân. Theo Gu và Matsumoto, lịch sự phải gắn với những giá trị thuộc về giao tiếp cộng đồng xã hội hơn là những ý muốn lựa chọn tự do của cá nhân trong giao tiếp. Có nghĩa là lịch sự phải tuân thủ các quy tắc ứng xử của xã hội và nó được coi là lịch sự chuẩn mực. Mọi cá nhân tham gia giao tiếp xã hội phải tuân thủ những chế định xã hội được mọi người trong cộng đồng xã hội thừa nhận mới được coi là lịch sự. Ngoài ra, một khuynh hướng nghiên cứu khác lại cho rằng lịch sự là sự kết hợp giữa quan niệm lịch sự chiến lược và quan niệm lịch sự chuẩn mực. Hai tác giả lớn tiêu biểu cho khuynh hướng này là Hill và Kasper. Ở Việt Nam, vấn đề lịch sự cũng được nghiên cứu một cách cụ thể và đạt được những thành tựu đáng quan tâm. Hai tác giả Vũ Thị Thanh Hương và Vũ Tiến Dũng đã đưa ra những kết luận về nội dung của lịch sự theo quan niệm của người Việt. Đó là, coi lịch sự vừa là chiến lược cá nhân, vừa là chuẩn mực xã hội. Các tác giả đã xác định rõ tầm quan trọng của lịch sự trong giao tiếp. Các công trình nghiên cứu đã đưa ra được những kết luận bước đầu về khái niệm lịch sự trong tiếng Việt và đi sâu hơn nữa là tìm hiểu về lịch sự trong giới tính, trong các hành động nói. Những công trình đó đã góp phần định hướng cho việc tìm hiểu về lịch sự trong giao tiếp cho các công trình nghiên cứu tiếp theo. Bên cạnh đó, tính lịch sự của lời mời cũng đã được một số tác giả đề cập đến. Chẳng hạn như tác giả Nguyễn Thị Thu Thuỷ đã đề cập đến tính lịch sự của 3 lời mời trong luận văn thạc sĩ “Lịch sự của lời mời và cách thức từ chối lời mời trong giao tiếp tiếng Việt”. 3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa 3.1. Mục đích Qua việc tìm hiểu tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt – Thái, khóa luận này hướng đến những mục đích sau: - Nhận ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa tính lịch sự trong văn hóa của dân tộc Việt và dân tộc Thái thể hiện qua “lời mời”. - Chỉ ra được tính lịch sự của hành vi mời phù hợp với văn hóa của từng dân tộc mà cụ thể là “tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt – Thái”. 3.2. Nhiệm vụ Với mục đích được xác định như trên, khóa luận hướng tới các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hoá một số vấn đề về lí thuyết lịch sự. - Xem xét tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt – Thái. 3.3. Ý nghĩa 3.3.1. Ý nghĩa lí luận Khóa luận làm rõ những điểm tương đồng và những nét khác biệt về tính lịch sự trong lời mời của ngôn ngữ Việt và ngôn ngữ Thái. 3.3.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của khóa luận nếu có tính khả chấp sẽ là tư liệu phục vụ cho việc tìm hiểu văn hóa, ngôn ngữ của dân tộc Việt, dân tộc Thái mà hẹp hơn là tính lịch sự thể hiện qua lời mời trong giao tiếp của hai dân tộc này, đồng thời góp phần rèn luyện, nâng cao năng lực ngôn ngữ cho mỗi cá nhân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tìm hiểu về tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt - Thái. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Khảo sát việc sử dụng lời mời trong giao tiếp tiếng Việt và trong giao tiếp tiếng Thái ở huyện Mường Ảng, huyện Tuần Giáo,…thuộc tỉnh Điện Biên. 4 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 5.1. Phương pháp nghiên cứu 5.1.1. Phương pháp khảo sát, thống kê Phương pháp khảo sát được sử dụng để tiến hành để khảo sát các tài liệu liên quan đến đề tài và sau đó thống kê lại toàn bộ nội dung đã khảo sát. Phương pháp này giúp chúng ta sử dụng được nhiều nguồn ngữ liệu một cách có hiệu quả và giúp chúng ta biết được vấn đề nào đầy đủ hay còn thiếu sót để bổ sung và hoàn chỉnh. 5.1.2. Phương pháp miêu tả, phân tích Phương pháp này được sử dụng sau khi đã khảo sát và thống kê nguồn ngữ liệu mà khoá luận quan tâm, nghiên cứu. Thao tác miêu tả, giúp nhận dạng đúng đối tượng và và sau đó phân tích để hiểu rõ về đối tượng một cách đầy đủ, cụ thể và chi tiết nhất. 5.1.3. Phương pháp hệ thống Phương pháp hệ thống giúp ta kiểm tra toàn bộ những nội dung đã tiến hành khảo sát, thống kê nhằm giúp kiểm soát được chính xác nội dung miêu tả, phân tích đã đạt được và căn cứ vào đó để chỉnh sửa, bổ sung nếu cần, tránh được những kết luận thiếu nhất quán. 5.1.4. Phương pháp phân tích, quy nạp Phương pháp này giúp khoá luận tổng hợp tất cả những nội dung đã thực hiện ở trên rồi khái quát lại giúp cho các kết luận của khoá luận có căn cứ khách quan, khoa học. 5.1.5. Phương pháp so sánh, đối chiếu Phương pháp so sánh đối chiếu được chúng tôi sử dụng để so sánh tính lịch sự trong lời mời ngôn ngữ Việt và tính lịch sự trong lời mời ngôn ngữ Thái. Trên cơ sở đó, chỉ ra những điểm tương đồng và những nét khác biệt về tính lịch sự trong lời mời hai ngôn ngữ này. 5.1.6. Phương pháp phân tích diễn ngôn Đây là phương pháp phân tích các phát ngôn ngắm với mỗi tình huống giao tiếp để mã hóa được ý nghĩa của phát ngôn đó ngắn với một tình huống giao tiếp cụ thể. 5 5.2. Nguồn ngữ liệu Khoá luận được thực hiện dựa trên nguồn ngữ liệu là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt và người dân tộc Thái trong khu vực huyện Mường Ảng, huyện Tuần Giáo,… thuộc tỉnh Điện Biên mà chúng tôi ghi chép được. 6. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, cấu trúc khoá luận gồm hai chương cụ thể: Chương 1. Cơ sở lí luận Chương 2. Tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt - Thái 6 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ Hành vi (hay còn gọi là hành động) là toàn bộ nói chung các phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể, nhất định. [22] Trong cuộc sống hàng ngày, dưới sự điều khiển của tư duy, con người có hai hoạt động dễ nhận thấy là “nói” (speak) và “làm” (do). Và từ trước tới nay, trong quan niệm của nhiều người thì thường đối lập giữa “nói” và “làm”. Thậm chí, người Việt Nam chúng ta còn quan niệm “nói” và “làm” là hai phạm trù khác hẳn nhau. Chính vì vậy, dân gian ta thường có câu: “Nói một đằng làm một nẻo” hay “Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa”… Như vậy, có thể thấy theo nhận thức thông thường, người ta quan niệm “đi”, “đứng”, “ăn”, “uống”… mới là hành động, còn “nói” thì không được xếp vào chuỗi hành động. Tuy nhiên, thực tế đã xác nhận rằng “nói” cũng là một hành động (Act). Đó là hành động dùng ngôn ngữ để biểu hiện, diễn tả một thông báo gì đó. Hoạt động lời nói là một phần, một dạng trong đời sống của con người. Nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ cũng có nhiều công trình khác nhau và đã có những kết luận khoa học quan trọng. 1.1.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ của Austin J.L.Austin – một nhà triết học người Anh là người xây dựng và đặt nền móng cho lí thuyết hành vi ngôn ngữ. Năm 1955, tại trường đại học tổng hợp Harvard (Mĩ), ông đã trình bày 12 chuyên đề. Những chuyên đề này, năm 1962 (tức hai năm sau ngày ông mất) đã được tập hợp lại xuất bản thành sách với nhan đề “How to do things with words” (có thể tạm dịch là: Hành động như thế nào bằng lời nói). Vào năm 1970, cuốn sách này được dịch sang tiếng Pháp với nhan đề “Quand dire c′est faire” (khi nói tức là làm).[5] Austin đã phân biệt phát ngôn khảo nghiệm và phát ngôn ngữ vi. Từ đó, phát hiện ra bản chất của ngôn ngữ và gọi hành vi ngôn ngữ là hành vi nói năng. Theo Austin, khi chúng ta nói năng tức là chúng ta hành động; chúng ta thực hiện một hành vi đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ. Theo ông, có ba loại hành vi ngôn ngữ trong một phát ngôn là: Hành vi tạo lời (Locutionary act), hành vi mượn lời (Perlocutionary act), hành vi ở lời (Illocutionary act). 1.1.1.1. Hành vi tạo lời (Locutionary act) Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như: âm, từ, các 7 kiểu kết hợp từ thành câu,… để tạo ra một phát ngôn hoàn chỉnh về nội dung và hình thức. Chẳng hạn, khi ta nói: (1) Hôm nay, thời tiết đẹp quá! thì ta sử dụng các từ: Hôm nay, thời tiết, đẹp, quá và các quy tắc đặt câu của tiếng Việt như: Chủ ngữ đặt ngay trước vị ngữ, trạng ngữ chỉ thời gian đặt ngay trước nòng cốt câu, phụ từ quá đặt sau tính từ trung tâm và bổ sung ý nghĩa thang độ cho tính từ đẹp. Trong thực tế, nếu như một người gặp khó khăn trong việc phát âm các từ để tạo ra một phát ngôn có nghĩa trong một ngôn ngữ như người nước ngoài nói tiếng Việt hay người ngắn lưỡi thì khó có thể thành công trong hành vi tạo lời. Chẳng hạn, một người nước ngoài nói tiếng Việt thường sẽ nói là: a. Xin chao! Phát ngôn này bình thường sẽ không được coi là hành vi tạo lời mà hành vi tạo lời phải là: b. Xin chào! Và một bộ phận của hành vi tạo lời là đối tượng nghiên cứu của ngữ pháp tiền dụng học. 1.1.1.2. Hành vi mượn lời (Perlocution act) Hành vi mượn lời là những hành vi “mượn” phương tiện ngôn ngữ, nói cho đúng hơn là mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngôn ngữ nào đó ở người nghe hoặc ở chính người nói. Hay nói cách khác là bằng hành động nói ra một câu nói, người nói có thể gây ra ở người nghe những hiệu quả, tác động tâm lí, sinh lí, vật lí phù hợp hay không phù hợp với ý muốn của mình. Như vậy, người nói đã thực hiện hành vi mượn lời. Ví dụ: (2) Sp1: Đóng cửa lại! Sp2: Đứng dậy đi ra cửa và đẩy cánh cửa cho kín lại với biểu hiện vùng vằng, gắt gỏng, bực tức, càu nhàu, khó chịu. Hành động vật lí đóng cửa lại và sự vùng vằng, gắt gỏng, bực tức, càu nhàu, khó chịu đều thuộc về hành vi mượn lời. Chức năng hành động của giao tiếp được thực hiện nhờ các hiệu quả mượn lời của các phát ngôn. Có những hiệu quả mượn lời là đích của một hành vi ở lời (như đóng cửa là hiệu quả của hành vi ở lời điều khiển), nhưng có những hiệu quả không thuộc đích của hành vi ở lời (như vùng vằng, gắt gỏng, bực tức, càu nhàu, khó chịu khi nghe lệnh). Những hiệu quả mượn lời nhiều khi rất phân tán, mơ hồ và không thể tính toán 8 được (khó kiểm soát). Chúng không có tính quy ước (trừ những hành vi mượn lời đích của hành vi ở lời). [5] 1.1.1.3. Hành vi ở lời (Illocutionary act) Hành vi ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. Có rất nhiều hành vi ở lời như: hỏi, yêu cầu, ra lệnh, mời, hứa hẹn,… [5] Chẳng hạn, khi chúng ta hỏi ai về một điều gì đó thì người được hỏi có nhiệm vụ trả lời chúng ta, cho dù phải trả lời rằng không biết. Nếu không trả lời hoặc không đáp lại câu hỏi, người nghe sẽ bị xem là không lịch sự. Một đặc điểm nổi bật của hành vi ở lời là nó làm thay đổi tư cách pháp nhân của người đối thoại. Chúng đặt người nói, người nghe vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình trạng của họ trước khi thực hiện hành vi ở lời đó. [5] Bên cạnh đó, hành vi ở lời còn có các đặc điểm như: có ý định (có đích tại lời), có quy ước và thể chế. Mặc dù, quy ước và thể chế của chúng không hiển ngôn mà quy tắc vận hành chúng được cộng đồng ngôn ngữ tuân theo một cách không tự giác. Có thể nói, nắm được ngôn ngữ không chỉ là nắm được ngữ nghĩa, âm, từ ngữ, câu của ngôn ngữ đó mà còn là nắm được các quy tắc điều khiển hành vi ở lời trong ngôn ngữ đó sao cho đúng lúc, đúng chỗ, thích hợp với ngữ cảnh, thích hợp với “phông văn hóa” của dân tộc đó. Chẳng hạn: Trong một cuộc liên hoan giữa các bạn sinh viên quốc tế cùng một kí túc xá tại Úc, một bạn nữ sinh người Việt mặc chiếc áo dài trắng, chiếc áo dài ôm gọn lấy tấm thân thon lẳn của cô. Cô vừa bước vào phòng tiệc thì Paul – anh bạn người Úc ở cùng tầng với cô, anh nhìn cô với đôi mắt mở to và thốt lên: (3) Thu, you look really sexy to day! (Thu, hôm nay trông cậu thật gợi tình quá!) Thu trợn tròn mắt, mặt đỏ lự, cô lao vội về phòng mình và cảm thấy rất xấu hổ. [13] Như vậy, trong văn hóa Anh, Mĩ, Úc, đặc biệt đối với giới trẻ thì sexy không phải là một cái gì phải bưng bít. Do vậy, Paul bảo Thu trông thật gợi tình được hiểu là một lời khen. Trong khi đối với văn hóa Việt, sexy vẫn là một điều cấm kị (Taboo). Và Thu hiểu câu nói của Paul như một sự xúc phạm. [13] Hay như trong xã hội Việt Nam nói riêng, xã hội Á Đông nói chung thì khi ta hỏi một ai đó (Sp2) về tuổi tác, về tình trạng hôn nhân là được phép, là tỏ 9 sự quan tâm của người hỏi với người được hỏi. Nhưng trái lại, hỏi về những khía cạnh đó ở xã hội phương Tây lại bị xem là không lịch sự, là tò mò, “dí mũi” vào đời tư của người khác. [5] Lí thuyết hành vi ngôn ngữ liên quan chủ yếu tới các hành vi ở lời. Người ta cố gắng để làm sao truyền đạt được nhiều hơn cái người ta nói. Vì thế, trong ba loại hành vi ngôn ngữ ở trên thì hành vi ở lời được thảo luận nhiều nhất. 1.1.1.4. Phát ngôn khảo nghiệm và phát ngôn ngữ vi Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn – sản phẩm của một hành vi ở lời nào đó khi hành vi này được thực hiện một cách trực tiếp chân thực. Phát ngôn ngữ vi có một kết cấu lõi đặc trưng cho hành vi ở lời tạo ra nó. Kết cấu lõi được gọi là biểu thức ngữ vi. Chẳng hạn, chúng ta có phát ngôn ngữ vi: (4) Xin thầy cứ yên tâm, em sẽ cố gắng hoàn thành tốt khóa luận. Phát ngôn trên có biểu thức ngữ vi nguyên cấp là: Em sẽ cố gắng hoàn thành tốt khóa luận và một thành phần mở rộng cho hành vi cầu khiến tạo ra xin thầy cứ yên tâm. Biểu thức ngữ vi là những thể thức nói năng đặc trưng cho một hành vi ở lời. Austin phân biệt hai loại biểu thức ngữ vi. Đó là biểu thức ngữ vi nguyên cấp (primary) hay hàm ẩn (Impilicit) và biểu thức ngữ vi tường minh (Explixit). Biểu thức ngữ vi nguyên cấp là biểu thức không có động từ ngữ vi nhằm thực hiện một hiệu lực ở lời qua một hành vi nào đó. Biểu thức ngữ vi tường minh là biểu thức có chứa động từ ngữ vi nhằm thực hiện một hành vi ở lời nào đó như: mời, chào, xin lỗi, cảm ơn,… 1.1.1.5. Động từ ngữ vi Động từ ngữ vi là động từ mà khi phát âm ra cùng với biểu thức ngữ vi (có khi không cần biểu thức ngữ vi đi kèm) là lời nói thực hiện ngay các hành vi ở lời do chúng ta biểu thị. Trong trường hợp xin lỗi, mời, cảm ơn, chúng ta thực hiện hành vi xin lỗi, mời, cảm ơn chỉ bằng động từ ngữ vi chứ không phải là biểu thức ngữ vi. Austin cho rằng, động từ ngữ vi chỉ được dùng trong chức năng ngữ vi (có hiệu lực ngữ vi) khi trong phát ngôn, nó được dùng ở ngôi thứ nhất (người nói Sp1), thời hiện tại, thể chủ động, thức thực thi. Ví dụ: (5) Tôi cảm ơn anh. trong phát ngôn này, Sp1 thực hiện ngay hành vi cảm ơn bằng động từ ngữ vi 10 cảm ơn, bởi người nói là tôi – ngôi thứ nhất số ít, động từ cảm ơn được dùng ở thời hiện tại, thể chủ động, thức thực thi. 1.1.1.6. Phân loại các hành vi ngôn ngữ theo Austin Austin là người thử nghiệm thực hiện việc phân loại hành vi ngôn ngữ và đã xếp chúng vào 5 phạm trù: 1.Phán xử; 2.Hành xử; 3.Cam kết; 4.Trình bày; 5.Ứng xử. 1.1.2. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ của Searle Với công trình Speech acts (hành vi ngôn ngữ) (1969), Searle được công nhận là người có vị trí đặc biệt trong sự phát triển lí thuyết hành vi ngôn ngữ. 1.1.2.1. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời theo Searle Trên cơ sở phân tích một hành vi ở lời (hành vi “hứa” trong tiếng Anh), Searle điều chỉnh lại, bổ sung vào những điều kiện may mắn của Austin và gọi chúng là điều kiện sử dụng hay điều kiện thỏa mãn. Mỗi hành vi ở lời đòi hỏi phải có một hệ thống những điều kiện gọi là những quy tắc (Rules) để cho việc thực hiện nó đạt hiệu quả đúng với đích của nó. Mỗi điều kiện là một điều kiện cần và toàn bộ hệ điều kiện là điều kiện đủ. Theo Searle, có tất cả bốn điều kiện sử dụng hành vi ở lời. Đó là: a.Điều kiện nội dung mệnh đề; b.Điều kiện chuẩn bị; c.Điều kiện chân thành; d.Điều kiện căn bản. Mỗi điều kiện sử dụng lại biểu hiện khác nhau, tùy theo từng phạm trù, từng loại và từng hành vi ở lời cụ thể. [6] 1.1.2.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ theo Searle Searle liệt kê 12 điểm khác biệt giữa các hành vi ngôn ngữ có thể được sử dụng làm tiêu chí phân loại như sau: a. Đích ở lời Ví dụ: (6) Mẹ giúp con trông nhà trong thời gian con đi vắng nhé! Ví dụ trên là một thỉnh cầu, lời thỉnh cầu đó hướng tới việc đưa Sp2 đến việc thực hiện một điều gì đó. b. Hướng khớp ghép với lời hiện thực mà có thể đề cập đến Ví dụ, trần thuật có hướng khớp ghép lời – hiện thực. Vì giá trị đúng - sai mà nó đưa ra được xác định trên cơ sở lời miêu tả có phù hợp hay không với sự vật được nói đến. c. Trạng thái tâm lí được thể hiện Ví dụ: (7) Anh hứa từ nay anh sẽ không hút thuốc lá nữa. 11 Trong ví dụ trên, lời hứa thể hiện ý định của Sp1 thực hiện điều gì đó. d. Sức mạnh và đích được bày ra Ví dụ: (8) Tôi nhấn mạnh rằng mức độ mạnh hơn là Tôi xin gợi ý rằng. e. Tính quan yếu của mối quan hệ liên cá nhân giữa Sp1 và Sp2 f. Định hướng Ví dụ: (9) Tớ mua cái áo khoác này hết hai triệu. Ví dụ: (10) Đừng khóc nữa, chuyện gì rồi cũng sẽ có cách giải quyết mà! Trong hai ví dụ trên, ta thấy ở ví dụ (9) hướng vào Sp1 (khoe, than vãn), ở ví dụ (10) hướng vào Sp2 (lời động viên, an ủi). g. Câu hỏi và trả lời là hai thành phần của một cặp kế cận còn sai bảo thì không Ví dụ: (11) Sp1: Anh đã đọc “Cuốn theo chiều gió” chưa? Sp2: Tôi đọc rồi. h. Nội dung mệnh đề Sp2 thực hiện A (tức là một hành vi nào đó) là đặc trưng của nội dung mệnh đề sai bảo, còn Sp1 thực hiện A là hứa hẹn. i. Hứa hẹn chỉ có thể thực hiện bằng lời Điều này khác với xin lỗi hoặc cảm ơn, có thể thực hiện bằng cả những hành vi ngoài lời. k. Đặt tên thánh và rút phép thông công Đặt tên thánh và rút phép thông công đòi hỏi phải có thể chế xã hội mới có hiệu lực, nhưng trần thuật thì không đòi hỏi như vậy. m. Không phải tất cả các tác động từ gọi tên hành vi ở lời đều là động từ ngữ vi. Ví dụ: (12) Việc khoe và dọa không phải là động từ ngữ vi. Ví dụ: (13) Công bố và thổ lộ khác nhau ở phong cách thực hiện. Searle đã dùng bốn trong 12 tiêu chí trên để phân lập 5 loại hành vi ở lời. Đó là, dựa vào các tiêu chí đích ở lời, tiêu chí khớp – ghép, trạng thái tâm lí và tiêu chí nội dung mệnh đề, Searle phân lập 5 loại hành vi ở lời như: tái hiện, điều khiển, biểu cảm, tuyên bố. 12 1.1.3. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp 1.1.3.1. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp Trong các hành vi ngôn ngữ chân thực (hành vi ở lời), ta thấy những hành vi ngôn ngữ được thực hiện đúng với đích ở lời, đúng với điều kiện sử dụng của chúng. Đây là hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp hướng phát ngôn tới một mục đích duy nhất. Ví dụ: (14) Khi ta nói: Mai đi họp lớp. Như vậy, ta thực hiện một hành vi thông báo là mai đi họp lớp mà ta không có mục đích gì khác ngoài đích thông báo nội dung trên. Hay như : Ví dụ : (15) Hôm nay là ngày mùng mấy âm lịch nhỉ? Khi hỏi câu hỏi này, người hỏi muốn biết thông tin về thời gian cụ thể là hôm nay là mùng mấy âm lịch. Hành vi ở lời là hành vi được thực hiện ngay trong lời nói và bằng việc sử dụng ngôn ngữ, phát ngôn. Hiệu quả ngôn ngữ có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. Chúng thường có những động từ ngữ vi tương ứng để gọi tên (hỏi, mời, chào, chúc, khuyên, ra lệnh, khẳng định,...) 1.1.3.2. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp Trong thực tế giao tiếp, một phát ngôn không phải chỉ có một đích ở lời mà “đại bộ phận các phát ngôn được xem như là một hiện thực đồng thời một số hành vi... Trong hội thoại, những người tham gia sử dụng ngôn ngữ để thuyết giải cho nhau ý nghĩa của các sự kiện hiện hữu hay tiềm ẩn, vây bọc chung quanh họ, từ đó rút ra những hệ quả cho những hành vi đã qua hoặc sẽ tới của họ”. Hiện tượng người giao tiếp sử dụng trên bề mặt hành vi ở lời này nhưng lại nhằm hiệu quả của một hành vi ở lời khác được gọi là hiện tượng sử dụng hành vi ngôn ngữ theo lối gián tiếp. Một hành vi được sử dụng gián tiếp là một hành vi trong đó người nói thực hiện hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người nghe dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai người, suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất