PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây ngành Nuôi trồng thủy sản không ngừng phát triển,
diện tích mặt nước đưa vào Nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng, đối tượng nuôi
ngày càng được đa dạng hóa và kỹ thuật nuôi không ngừng được cải tiến. Nó đã
thúc đẩy kỹ thuật sản xuất giống phát triển tạo ra nhiều con giống hơn, đảm bảo
nhu cầu cho ngành Nuôi trồng thủy sản phát triển.
Nhắc đến ngành thủy sản tỉnh Quảng Trị, người ta thường đề cập đến các trại
sản xuất giống cá nước ngọt (mè trắng, mè hoa, trắm và chép). Sản xuất giống cá
nước ngọt ở Quảng Trị được phân bố khá rộng và ngày càng nâng cao thu nhập
cho người dân.
Huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị là một vùng có đông dân cư nhưng đất đai
nhiều và khá màu mỡ, nhiều vùng đất có khả năng khai hoang đưa vào sản xuất
giống cá nước ngọt lâu năm. Thực tế cho thấy sau nhiều năm đưa vào sản xuất
giống cá nước ngọt rất phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng nơi đây và
nó đã mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân. Và là một trong những nhân tố
quan trọng giúp người dân làm giàu và thay đổi bộ mặt nông thôn.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải làm sao có được nguồn giống tốt đảm bảo
chất lượng, là yêu cầu phát triển của nghề nuôi. Chủ động tạo nguồn cá giống
góp phần cải thiện tỷ lệ sống và năng suất nuôi, cũng như nâng cao thu nhập cho
người dân là hoạt động nghiên cứu rất cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu đó tôi chọn đề tài “Tìm hiểu thực trạng sản xuất giống cá
nước ngọt huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.” Để làm đề tài tốt nghiệp của mình
Mục tiêu đề tài
Tìm hiểu thực trạng sản xuất giống cá nước trên địa bàn nghiên cứu từ đó đưa
ra các định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, mở rộng quy mô
sản xuất giống cá nước ngọt trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
1
PHẦN 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình sản xuất giống cá trên thế giới và Việt Nam
1.1.1 Thế giới
Lịch sử của nghề sản xuất giống cá nuôi có thể tóm tắt sơ lược như sau:
Từ khi nghề nuôi cá ao, hồ, ruộng xuất hiện, vấn đề sản xuất giống cá nuôi cũng
được đặc biệt quan tâm ở hầu hết các nước có nghề nuôi cá. Những nước có
nghề nuôi cá lớn nhất phải kể đến là: Ai Cập, Trung Quốc, Nga... Một trong số
đối tượng được đưa vào nuôi sớm nhất là cá chép. Cá chép đã được đưa vào nuôi
cách đây 3600 năm TCN ở Trung Quốc (Kỹ thuật nuôi cá ao của Trung Quốc,
1992). Các nước Châu Âu phát triển nghề nuôi cá tương đối mạnh vào thế kỷ XII
và XIII. Đặc biệt năm 1258 phát triển mạnh ở Pháp và năm 1660 phát triển mạnh
ở Đức và Đan Mạch.
Vào thời điểm này, nghề nuôi cá nước ngọt trên thế giới chủ yếu dựa vào nguồn
giống thu gom từ tự nhiên như ở Trung Quốc cá giống được vớt từ sông Trường
Giang, ở Campuchia cá giống được vớt từ Biển Hồ, ở Việt Nam từ Sông Hồng,
sông Mê Kông…
Tuy vậy, khi nghề nuôi cá phát triển mạnh thì nguồn giống thu từ tự nhiên đã
không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn sản xuất. Hoạt động nuôi cá ngày
càng được phát triển đa dạng về hình thức nuôi, đối tượng nuôi và mức độ thâm
canh. Sự phát triển của các ngành khoa học khác như: thuỷ điện, thuỷ lợi, công
nghiệp hoá học v.v.. đã tác động nhất định và ngăn cản các loài cá di cư sinh sản,
môi trường cho cá đẻ không phù hợp, do vậy ảnh hưởng nhiều đến số lượng, chất
lượng giống cá ngoài tự nhiên. Do vậy, việc tạo ra đàn cá giống nhân tạo là đòi hỏi
cấp thiết của thực tiển sản xuất.
Sản xuất cá giống bằng con đường sinh sản nhân tạo là sự tác động của con
người vào quá trình sinh sản của cá, hướng quá trình sinh sản của cá theo ý
muốn của con người và theo một mục tiêu nhất định. Thông qua đặc điểm sinh
học sinh sản của nhiều loài cá, con người đã nghiên cứu và tác động vào quá
trình sinh sản của cá, tiến đến xây dựng và hoàn thiện quy trình sinh sản nhân tạo
một số loài cá có giá trị kinh tế, đáp ứng đòi hỏi thực tế.
2
Thời kỳ đầu, người ta bắt cá đã thành thục ngoài tự nhiên đưa vào ao để
cho cá đẻ. Hơn 2400 năm về trước, Phạm Nãi - đại thần của Việt Nam, sau khi đi
sứ sang Trung Quốc đã viết cuốn “Phép nuôi cá”, trong đó mô tả cách kỹ thuật
cho cá Chép đẻ tự nhiên trong ao ở Trung Quốc, cụ thể: “ao rộng 6 mẫu (1mẫu =
1/15ha) được chia thành 9 ô, cho cỏ vào từng ô. Thả 20 cá cái mang trứng có
chiều dài 60 cm và 4 cá chép đực vào các ô, để nước yên tĩnh sau mấy ngày thì
cá đẻ”. Đây là hình thức cho cá đẻ tự nhiên, phỏng theo hiện tượng sinh sản của
cá trong tự nhiên, điều khiển môi trường, để chúng phải đẻ trứng theo ý muốn
của con người. Tuy nhiên, hình thức cho cá đẻ như thế này mang lại hiệu quả sản
xuất không cao.
C.L.Jacobi (1711 - 1784) qua nghiên cứu nhiều năm và đã thu được nhiều
kết quả trong lĩnh vực sinh sản nhân tạo cá, đặc biệt là việc thụ tinh nhân tạo cho
cá. Trước thời Jacobi, nhiều nhà khoa học cho rằng, cá cũng giống như các loài
động vật khác, trứng được thụ tinh bên trong cơ thể bằng cách: con đực phóng
tinh trùng vào nước và con cái thu lấy tinh ấy để tiến hành thụ tinh bên trong cơ
thể của nó. Qua kết quả nghiên cứu cá Hồi, Jacobi đã chứng minh trứng cá được
thụ tinh bên ngoài cơ thể, trứng và tinh trùng gặp nhau trong môi trường nước.
Qua thí nghiệm này, ông đã xây dựng phương pháp thụ tinh ướt cho trứng cá.
Cùng với Jacobi, Zanvictor Kost - một nhà nghiên cứu phôi thai học, đã
thiết lập công cụ ấp trứng cá và được gọi là công cụ của Kost. Cho đến năm
1852, ở Pháp đã xây dựng trại sản xuất giống cá và ở đó đã trang bị công cụ ấp
trứng của Kost - dụng cụ ấp trứng này đã mang lại hiệu quả cao hơn.
Vrassky (1829 - 1862) lần đầu tiên tiến hành thụ tinh nhân tạo trứng cá
Hồi, loài Lota lota theo phương pháp thụ tinh ướt, nghiên cứu cấu tạo của trứng
cá, của tinh trùng, đặc điểm của tinh trùng trước và sau khi vào môi trường nước,
cấu trúc và sự phát triển của phôi trứng cá. Qua quan sát bằng kính hiển vi,
Vrassky đã nhận thấy việc thụ tinh bằng phương pháp ướt hiệu quả không cao
chỉ đạt 10 - 20% và chính ông đã đề xuất phương pháp thụ tinh khô cho cá. Đây
là phương pháp có kết quả tốt, tỷ lệ thụ tinh đạt 90%. Ngoài ra Vrassky còn
nghiên cứu các khâu kỹ thuật khác trong sinh sản nhân tạo như: nuôi cá bố mẹ,
bảo quản tinh trùng, ấp nở trứng cá, ương nuôi cá giống, kỹ thuật vận chuyển
trứng cá thụ tinh... Kết quả nghiên cứu của Vrassky đã bắt đầu một thời đại kinh
3
điển trong nghề nuôi cá, sản xuất cá giống, kéo dài trong nửa cuối thế kỷ XIX
đến đầu thế kỷ XX.
Năm 1855, tại Mỹ đã xây dựng trại nuôi cá bố mẹ và lưu giữ tinh trùng của
cá cho mục đích chọn giống. Cũng từ đây kỹ thuật sản xuất giống cá bằng
phương pháp sinh sản nhân tạo được hình thành.
Đầu thế kỷ XX, ngành thú y đã thu được thành tựu đáng kể khi sử dụng kích dục
tố (Gonadotropin) kích thích cho động vật có vú sinh sản nhân tạo thành công, đã
mở ra việc sử dụng kích dục tố trong sản xuất cá giống nhân tạo cá. Năm 1935, ở
Brazil, Ihering đã cùng cộng tác viên tiến hành tiêm dịch chiết từ não thùy giàu kích
dục tố cho loài cá Astina bimaculatus. Kết quả nghiên cứu của tác giả này cho thấy,
cá đã đẻ nhân tạo thành công.
Năm 1936, ở Liên Xô (cũ) Gherbitsky đã thí nghiệm tiêm dịch chiết não thuỳ
vào sọ não của cá Tầm, giống Acipenser. Kết quả thí nghiệm cho thấy cá đã rụng
trứng. Tuy thí nghiệm thành công, nhưng còn một số hạn chế khi tác giả của
nghiên cứu này cho rằng: Kích dục tố khi đưa vào cơ thể cá được dẫn đến tuyến
sinh dục không bằng đường máu, mà đi vào xương sọ. Ngoài ra ông còn xác định
sai vị trí não thùy. Nhưng sau khi Ihering công bố kết quả tại hội nghị sinh lí học
tại Leningrad, thì Gherbilsky chuyển hướng tiêm kích dục tố vào cơ. Từ đó kỹ
thuật này được áp dụng trong các xí nghiệp sản xuất giống cá Tầm ở Liên Xô cũ.
Từ năm 1935, nghề nuôi cá nước ngọt đã bước vào một thời kì mới. Con
người có thể chủ động sản xuất giống cho một số loài cá theo yêu cầu và ý muốn
của mình bằng cách sử dụng kích dục tố. Lúc này lại nảy sinh ra một vấn đề cấp
bách là việc cung cấp chất kích thích sinh sản nhân tạo cho nghề nuôi cá, vì qui
mô sản xuất giống ngày càng mở rộng thì não thùy ngày càng khan hiếm. Và
thực tế cho thấy, để có đủ lượng kích dục tố tiêm cho một khối lượng cá bố mẹ
lớn thì cần một khối lượng không nhỏ cá dùng để lấy não thùy. Do đó, yêu cầu của
thực tiển đặt ra là tìm một chất khác thay thế cho não thuỳ.
Morozova, 1936 đã thành công trong việc đã kích thích cho cá Perca rụng
trứng bằng nước tiểu của phụ nữa có thai, trong đó có chứa hocmon HCG, chất này
có thể kích thích cho cá rụng trứng và sinh sản.
Ở Trung Quốc, vào năm 1958, người ta đã cho cá mè trắng và mè hoa sinh sản
thành công bằng kích dục tố HCG. Sau này loại kích dục tố được dùng phổ biến
4
trong sản xuất giống cá là GnRH. Bên cạnh đó người ta còn dùng một số
hocmon Steroid để kích thích cho cá đẻ.
Ngoài các thành tựu nghiên cứu về chất kích thích sinh sản, các công trình
nghiên cứu về sản xuất nhân tạo giống cá còn đạt được các kết quả khác như:
điều khiển giới tính; mẫu sinh nhân tạo; đa bội thể nhân tạo [9].
1.1.2 Việt Nam
Ở Việt Nam, từ lâu nhân dân ta đã biết thả cá, nhưng cho đến đầu năm
1963 nguồn giống đưa vào nuôi thương phẩm các loài cá nước ngọt vẫn phải lấy
ngoài tự nhiên. Hàng năm, vào tháng 5 - 6 người dân ven sông Hồng thường vớt
cá bột mè trắng, cá trôi và các loại cá khác để đưa vào nuôi. Ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long, hàng năm vào tháng 4 - tháng 6, người nuôi cá thường vớt cá
tra, ba sa giống trên hệ thống sông Tiền và sông Hậu, phục vụ cho nghề nuôi cá
nước ngọt tại địa phương.
Tại Việt Nam, cá chép là đối tượng được nuôi từ lâu đời, đặc biệt là ở
những vùng miền núi, vùng dân tộc ít người, một số loài khác cũng được đưa
vào ao nuôi như cá trắm cỏ, cá trôi, cá trê... Ngoài việc đưa các đối tượng cá mới
vào nuôi trong ao với diện tích ngày càng tăng, năng xuất sản lượng ngày càng
cao, vấn đề sản xuất nhân tạo cá giống cũng được đặt ra cụ thể hơn.
Đến cuối năm 1963, cùng sự giúp đỡ của chuyên gia Trung Quốc, sự phối hợp
các giáo viên Trường Đại học Thủy sản, Trạm Nuôi cá Nước ngọt Đình Bảng đã
nuôi vỗ và cho đẻ thành công cá mè hoa bằng cách tiêm kích dục tố. Lần lượt
sau đó là cá trắm cỏ, mè trắng, cá trôi, cá trê…cũng được cho đẻ nhân tạo thành
công, cung cấp con giống cho nghề nuôi cá thương phẩm ở Việt Nam. Đây là
bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển nghề cá ở Việt Nam nói chung và công
tác sinh sản nhân tạo cá nói riêng.
Ở miền Nam, vào thập niên 90 của thế kỷ XX, các loài cá có giá trị kinh tế
như, cá tra, cá ba sa, cá sặc rằn, cá bống tượng, cá rô đồng và một số loài cá bản
địa ở Đồng bằng sông Cửu Long đã được nghiên cứu và cho sinh sản nhân tạo
thành công.
Trong những năm gần đây, công tác nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo các loài
cá có giá trị kinh tế, cá bản địa đang phát triển một cách nhanh chóng. Các nghiên
cứu đã tập trung vào ứng dụng công nghệ sinh học vào công tác lai tạo giống.
5
Theo chiến lược phát triển nuôi trồng thuỷ sản của Bộ thuỷ sản (1996
- 2010), để có giống thuỷ sản thả nuôi trên 1.700.000 ha diện tích mặt nước ao,
đầm, hồ chứa, ruộng trũng, kênh rạch… đến năm 2010, Việt Nam cần sản xuất
được 37,161 tỷ con giống các loại, trong đó giống cá nước ngọt là 9,2 tỷ con.
Để đạt được mục tiêu đặt ra, cần cải tạo nâng cấp, xây dựng các trại giống cấp
1, trong đó có nâng cấp các trại giống cá nước ngọt ở các tỉnh trọng điểm thành
trại giống cấp 1 của quốc gia, nơi đây tập trung nghiên cứu và cho đẻ nhân tạo
các loài cá mới có giá trị kinh tế cao, theo các quy trình kỹ thuật hiện đại, nâng
cao số lượng và chất lượng con giống cung cấp cho nghề nuôi cá đang phát
triển ở Việt Nam.
Số lượng cá giống đang được sản xuất hiện nay chủ yếu là các đối
tượng truyền thống có sản lượng cao như: cá mè trắng, cá tra, cá chép... Ngoài ra
cũng có nhiều loại cá được nhập nội có giá trị kinh tế như: cá trắm cỏ, các loài cá
chép Ấn Độ, cá chim trắng... và những loài này đã được nghiên cứu và cho sinh
sản nhân tạo thành công.
Trong những năm gần đây, để đáp ứng nhu cầu con giống phục vụ cho
nghề nuôi cá nước ngọt theo phương châm đa dạng hóa đối tượng, có nhiều loài
cá có giá trị kinh tế khác đã được nghiên cứu và cho đẻ thành công như: cá Bống
tượng, cá sặc rằn, cá rô đồng, cá ba sa ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Những thành công của công nghệ sản xuất giống cá nước ngọt đã và
đang là cơ sở quan trọng, thúc đẩy sự phát triển không ngừng của nghề nuôi cá
nước ngọt theo hướng công nghiệp ở Việt Nam [9].
1.2 Tình hình sản xuất giống cá nước ngọt huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị
Nhu cầu cá giống và các loại giống mới khác khoảng 10,6 triệu. Các trại giống
trong tỉnh cung cấp đủ 100% nhu cầu các giống truyền thống, 20% các loài
giống mới được điều về từ các tỉnh khác.
Năm 2006, đã tiến hành kiểm dịch được 30% số lượng cá giống sản xuất ở
trong tỉnh, giúp cho người nuôi yên tâm hơn khi mua cá giống về nuôi.
Chất lượng cá giống một số trại chưa tốt, cá giống đưa về nuôi tăng trưởng
chậm, có nhiều cá còi, ảnh hưởng đến hiệu quả đời nuôi
6
Bảng 1.1: Kết quả sản xuất giống cá nước ngọt tỉnh Quảng Trị giai đoạn
2006 – 2010
Các chỉ tiêu đạt được
Nội dung
(1)
Kế
Năm
hoạch
2010 so
đến
với năm
năm
2006
2015
(%)
Đơn vị
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Ước
thực
hiện
năm
2010
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
trại
6
6
6
6
7
9
130
120
140
100
150
180
1,5
1,3
1,4
1,2
1,6
1,8
(8)
(9)
Sản xuất
giống
thuỷ sản
nước ngọt
a. Số trại
sản xuất
cá giống
b. Số lượng Triệu
cá bột
con
c. Sản
lượng
cá giống
Triệu
con
Hiện nay toàn huyện Hải Lăng có 3 trại sản xuất giống cá nhân tạo (Hải
Thượng, Hải Phú),
7
Hình 1: Các trại sản xuất giống cá nước ngọt ở Hải Lăng
– Quảng Trị
3 trại này chỉ sản xuất được một số loài cá giống như: cá trắm cỏ, mè, trôi và
chép. Hàng năm sản xuất được 40 – 70 triệu cá bột đây là nguồn cung cấp giống
chủ yếu trên địa bàn toàn huyện và một phần cho nhân dân trong toàn tỉnh và các
tỉnh lân cận [10],[11].
1.3 Điều kiện tự nhiên và vị trí của Hải Lăng – Quảng Trị
Quảng Trị là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ - Việt Nam; kéo dài từ 16018’ 17010’vĩ Bắc và 106 độ 32’-107 độ 24’ kinh độ Đông.
Đi từ Bắc vào Nam Quảng Trị nằm ở đoạn thắt, có thể được ví như điểm tỳ
vai của chiếc đòn gánh trĩu nặng hai đầu của một giang san hùng vĩ hình chữ S.
Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Bình, với địa danh nỗi tiếng Động Phong Nha- Kẽ
Bàng, phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên- Huế với những lăng tẩm và di tích của
một thời cố đô nhà Nguyễn. Phía Tây giáp các tỉnh Savannakhet, Saravan của
nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào và phía Đông giáp biển Đông.
Hình thể Quảng Trị tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra biển lớn.
1.3.1 Điều kiện tự nhiên
Tổng diện tích tự nhiên Quảng Trị (theo điều tra năm 2005) là 474.414,87 ha;
được phân bố đa dạng theo không gian và có sự đan xen giữa vùng gò đồi, thung
lũng, miền nội đồng và cồn cát ven biển với 5 vùng đặc trưng, đó là: Vùng núi,
vùng gò đồi và núi thấp, vùng đồng bằng, vùng thung lũng và vùng cát ven biển.
8
Tài nguyên khoáng sản Quảng Trị tương đối đa dạng; đến cuối năm 2000 đã
đánh giá, thống kê được trên 74 mỏ, đới quặng, điểm khoáng sản.
Khí hậu Quảng Trị nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa và là vùng
chuyển tiếp giữa hai miền khí hậu Bắc- Nam, có sự phân hoá của địa hình
nghiêng dần từ Tây sang Đông cùng với vị trí địa lý và quy định đặc thù khí hậu
Quảng Trị.
Quảng Trị có 12 con sông lớn tập trung thành 3 hệ thống chính, đó là: Sông
Bến Hải, sông Thạch Hãn và sông Ô Lâu với trên 60 phụ lưu khác có chiều dài
trên 10 km. Theo tính toán lý thuyết mạng lưới sông ngòi Quảng Trị có thể cung
cấp nguồn điện năng khoảng 3 tỷ kw/h. Trong đó có công trình thuỷ điện, thuỷ
lợi Quảng Trị nằm trên sông Rào Quán đang xây dựng dự định sẽ phát điện vào
cuối năm 2007.
Quảng Trị có quốc lộ 1A và đường xe lửa xuyên Việt đi qua; có Quốc lộ 9
xuyên Á, có cảng Cửa Việt (Gio Linh); bãi tắm Mỹ Thuỷ (Hải Lăng), bãi tắm
Cửa Tùng, trong đó, bãi tắm Cửa Tùng được mệnh danh là "Nữ hoàng của
những bãi tắm"; có Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, La Lay. Đặc biệt từ năm 1999,
Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo được đầu tư xây dựng thành Trung tâm Kinh tế
Thương mại, đặc biệt.
Cách bờ biển Mũi Lay (Vĩnh Linh) khoảng 30 km là Đảo Cồn Cỏ rộng 4
km2, được coi là hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc với những chiến công oai hùng,
nay là Huyện đảo đang chuyển mình để trong tương lai gần trở thành huyện đảo
du lịch.
1.3.2 Về xã hội
Quảng Trị là một vùng đất có bề dày lịch sử, văn hoá. Những bằng chứng
khảo cổ học đã chứng tỏ người Quảng Trị đã tồn tại với tộc người Việt Nam từ
thời cổ đại, khi Vua Hùng lập quốc. Quảng Trị thuộc đất Bộ Việt Thường, một
trong 15 bộ của nước Văn Lang, Âu Lạc. Dư địa chí Nguyễn Trãi đã ghi "Xưa là
Bộ Việt Thường Thị, đây là phên dậu thứ tư về phương Nam"
9
Tên Quảng Trị xuất hiện từ năm 1801 (thời Gia Long). Dưới thời Minh Mạng
dinh Quảng Trị đổi thành tỉnh Quảng Trị [13].
Cuối tháng 7/1954, theo Hiệp định Giơnevơ, sông Hiền Lương được chọn
làm giới tuyến quân sự tạm thời. Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, nước
nhà thống nhất, năm 1976, tỉnh Quảng Trị và khu vực Vĩnh Linh được sáp nhập
với tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên Huế thành tỉnh Bình Trị Thiên. Tháng 7/1989,
tỉnh Quảng Trị trở về với tên gọi chính mình. Hiện nay, tỉnh Quảng Trị có 10
đơn vị hành chính cấp huyện. Đông Hà là thị xã trung tâm tỉnh lỵ. Tổng số dân
tỉnh Quảng Trị vào cuối năm 2005 vào khoảng 63 vạn; trong đó, người Kinh
chiếm trên 90% dân số, tiếp đến là người Vân Kiều, Pa Cô và một số dân tộc
khác như: Hoa, Mường, Tày, Thái, Cà Tu, Ba Na, Ê Đê, Nùng, Stiêng, Xêđăng,
Dao (8). Dân số Quảng Trị thuộc lọai trẻ. Quảng Trị có nguồn nhân lực khá dồi
dào; trình độ tay nghề, chất lượng đào tạo được nâng lên một bước.
Quá trình hội nhập, Quảng Trị có lợi thế nằm ở vị trí đầu cầu về phía Việt
Nam trên tuyến Hành lang kinh tế Đông-Tây nối với các nước Lào, Thái Lan,
Myanma... qua cửa khẩu Lao Bảo; là điểm giữa của "Con đường di sản miền
Trung" và "Con đường huyền thoại". Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, con
người trên mảnh đất này với truyền thống lao động, cần cù, chịu khó, truyền
thống đấu tranh anh dũng kiên cường đã làm nên những kỳ tích hào hùng, để lại
nhiều di tích lịch sử vô cùng quý giá như: Địa đạo Vịnh Mốc, chiến khu Ba
Lòng, Thành Cổ Quảng Trị, Sân bay Tà Cơn, nhà đày Lao Bảo... Quảng Trị còn
có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như: Trằm Trà Lộc, Rú Lịnh, suối nước nóng
Klu, thác Ồ Ồ....
Chính các yếu tố này là điều kiện thuận lợi mời gọi du khách trong nước
cũng như ngoài nước đến với những điểm du lịch đặc sắc, hấp dẫn và kỳ bí trên
dải đất miền Trung huyền thoại.
10
1.3.3 Về Khí hậu
Quảng Trị nằm ở phía nam của Bắc Trung Bộ, trọn vẹn trong khu vực nhiệt
đới ẩm gió mùa, là vùng chuyển tiếp giữa hai 2 miền khí hậu. Miền khí hậu phía
bắc có mùa đông lạnh và phía nam nóng ẩm quanh năm. ở vùng này khí hậu
khắc nghiệt, chịu hậu quả nặng nề của gió tây nam khô nóng, bão, mưa lớn, khí
hậu biến động mạnh, thời tiết diễn biến thất thường, vì vậy trong sản xuất và đời
sống nhân dân gặp không ít khó khăn. Do nằm trọn vẹn trong nội chí tuyến bắc
bán cầu, hàng năm có hai lần mặt trời đi qua đỉnh (tháng 5 và tháng 8), nền bức
xạ cao (Cực đại vào tháng 5, cực tiểu vào tháng 12). Tổng lượng cán cân bức xạ
cả năm ở Quảng Trị dao động trong khoảng 70-80 Kcalo/cm2 năm), những tháng
mùa hè gấp 2-3 lần những tháng mùa đông. Tổng số giờ nắng trung bình năm ở
Quảng Trị dao động từ 1700-1800 giờ. Số giờ nắng nhất vào tháng 7 (240-250
giờ). Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 20-250C, tháng 7 cao nhất còn
tháng 1 thấp nhất. Nhiệt độ tối cao trong năm vào các tháng nóng, ở vùng đồng
bằng trên 400C và ở vùng núi thấp 34-350C. Nhiệt độ thấp nhất trong năm có thể
xuống tới 8-100C ở vùng đồng bằng và 3-50C ở vùng núi cao. Lượng mưa: Mùa
mưa diễn ra từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, lượng mưa khoảng 75-85% tổng
lượng mưa cả năm. Các tháng mưa kéo dài, lớn là tháng 9-11 (khoảng 600 mm).
Tháng ít mưa nhất là tháng 2- tháng 7 (thấp nhất là 40mm/tháng). Tổng lượng
mưa cả năm dao động khoảng 2000-2700 mm, số ngày mưa 130-180 ngày. Độ
ẩm: Độ ẩm tương đối trung bình, tháng ẩm 85-90%, còn tháng khô thường dưới
50%, có khi xuống tới 30%. Thành phố Đông Hà vào mùa hè bị khô cạn hơn cả,
vùng Khe Sanh (Hướng Hóa) có khí hậu quanh năm ẩm.Khí hậu đặc trưng của
Quảng Trị là gió tây nam khô nóng thường gọi là "gió Lào", hiện tượng thời tiết
đặc biệt khô nóng thổi từ Lào qua, thường những ngày có gió Lào là ngày có
nhiệt độ cao nhất trên 350C, độ ẩm tương đối thấp dưới 50%. Mùa gió khô nóng
vào tháng 3-9 và gay gắt nhất tháng 4-5 đến tháng 8. Hàng năm có 40-60 ngày
khô nóng. Bão: Mùa bão ở Quảng Trị diễn ra từ tháng 7 đến tháng 11, trong đó
tháng 9-10 nhiều bão nhất. Theo số liệu thống kê trong 98 năm có 75 cơn bão đổ
11
bộ vào khu vực Bình Trị Thiên, bình quân 0,8 cơn bão/năm ảnh hưởng trực tiếp
đến Quảng Trị, có năm không có bão, nhưng lại có năm liên tiếp 2-3 cơn bão đổ
bộ trực tiếp. ảnh hưởng tai hại nhất là bão gây ra gió xoáy giật kèm theo mưa to
dài ngày (2-5 ngày) gây ra lũ lụt nghiêm trọng. Tỷ lệ mưa do bão và áp thấp
nhiệt đới ngây ra chiếm tới 40-50% tổng lượng mưa trong các tháng 7-10,.
Lượng mưa do một cơn bão gây ra khoảng 300 – 400 mm, có khi 1000mm [13].
1.4 Tình hình nuôi trồng thủy sản
Năm 2006, diện tích nuôi cá nước ngọt toàn tỉnh là 1.443 ha, sản lượng thu
hoạch 2.145 tấn, năng suất bình quân xấp xỉ 1,5 tấn/ha. Các huyện có diện tích
nuôi lớn đó là: Vĩnh Linh 380 ha, sản lượng thu hoạch 650 tấn; Hải Lăng 312 ha,
sản lượng thu hoạch 500 tấn; thi xã Đông Hà 88 ha, sản lượng thu hoạch 254 tấn.
Đồng thời nuôi chủ yếu là các loại cá truyền thống như: cá mè, cá chép, cá
trắm… các đối tượng nuôi mới như: cá rô phi đơn tính, cá chình, cá chim trắng
đạt sản lượng khá và có giá trị kinh tế cao.
Năm 2006, Phong trào nuôi cá chình lồng phát triển mạnh, số lồng nuôi trên
50 lồng trong đó: huyện Triệu Phong 30 lồng, Gio Linh 8 lồng, Hải lăng 9 lồng.
Thể tích mổi lồng là 100m3, cở cá giống khi thả 20 – 25 con/kg, sản lượng thu
hoạch ước tính 0,4 – 0,5 tấn/lồng. Cá chình lồng được nuôi ở vùng đầu nguồn
sông Thạch Hãn, hồ chứa nam Thạch Hãn, hồ chứa Hà Thượng… Nuôi cá chình
lồng mang lại hiều quả kinh tế cao, có lợi nhuận tính từ 20 – 30 triệu đồng/lồng.
Hiện nay đang được tiếp tục triển khai nhân rộng.
Nuôi cá ruộng lúa phát triển mạnh ở một số huyện như: Vĩnh Linh 40 ha, Gio
Linh 25 ha, thị xã Đồng Hà 16 ha, Hải Lăng 54 ha, Triệu Phong 60 ha, đối tượng
nuôi chủ yếu là cá mè, cá chép, cá rôi phi đơn tính …. mang lại hiệu quả kinh tế
cao. Người nông dân vừa một lúc thu hoạch được lúa vừa thu hoạch được cá.
Một khó khăn mà người nông dân gặp phải đó là khi nuôi cá đối tượng cá
truyền thống có giá trị kinh tế thấp, cá trắm thường bị bệnh đốm đỏ chết hàng
loạt. Vì vậy, khi nuôi cá trắm cỏ phải giữ cho môi trường trong sạch, trấn tình
trạng để nước quá bẩn, cá dể mắc bệnh
12
Bảng 1.2: Kết quả nuôi trồng thủy sản nước ngọt tỉnh Quảng Trị giai
đoạn 2006 – 2010
Các chỉ tiêu đạt được
Nội dung
(1)
I. DIỆN TÍCH
NTTS
1. Diện tích
nuôi thuỷ sản
nước ngọt
a. Nuôi ao hồ
nhỏ
b. Nuôi cá – lúa
c. Số lồng bè
nuôi thuỷ sản
trên sông,
hồ chứa
Trong đó
- Nuôi cá
trắm cỏ
- Nuôi cá chình
II. SẢN
LƯỢNG NTTS
1. Sản lượng
nuôi thuỷ sản
nước ngọt
Trong đó
- Cá
III. NHU CẦU
THỨC ĂN
NUÔI THUỶ
SẢN
1. Thức ăn
nuôi cá
Năm
Đơn vị
2006
(2)
Năm
2007
Năm 2010 Kế hoạch
Ước thực
đến năm
Năm Năm
so với
hiện năm
2015
2008 2009
năm 2006
2010
(%)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
Ha
1.577
1.672
1.679 1.814
1.890
Ha
1.492
1.562
1.564 1.564
1.618
8
Ha
85
110
272
76,9
(9)
Ha
115
250
Lồng
99
Lồng
24
Lồng
75
2.240
Tấn
Ha
2.060
2.686
2.998 2.857
3.213
2.060
2.686
2.998 2.857
3.213
3.000
4.000
4.500 4.300
4.800
4.500
Tấn
33,6
Tấn
Tấn
13
6.700
Trong những năm qua UBND huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị đã có chính
sách khuyến khích, phát triển nuôi trồng thủy sản và đã được sự đồng tình hưởng
ứng của nhân dân về việc đào hồ nuôi cá, chuyển đổi diện tích lúa bấp bênh, giá
trị thu nhập sang nuôi trồng thủy sản, đắp đập đào hồ nuôi cá ở vùng gò đồi,
chuyển đổi một số diện tích sang nuôi cá – lúa nên diện tích nuôi cá tăng đáng
kể. Đến nay toàn huyện đả có hơn 362 ha diện tích mặt nước ao, hồ nuôi cá, tăng
hơn 68 ha so với năm 2005. Chủ yếu tập trung phát triển ở các xã vùng cao, sản
lượng nuôi là 523 tấn
Nghề nuôi cá lồng: Ngày càng phát triển đến nay toàn huyện có 82 lồng cá.
Trong đó có 22 lồng nuôi cá chình, tập trung chủ yếu ở các sông Ô Lâu, Ô
Giang, Vĩnh Định, lòng hồ Nam Thạch Hãn và hiệu quả kinh tế khá cao.
Phát triển mô hình nuôi mới như: Mô hình nuôi cá rô phi bán thâm canh mật
độ 2 con/m2; mô hình nuôi cá tăng sản kết hợp với nuôi lợn; mô hình nuôi cá –
lúa; mô hình nuôi cá - lúa kết hợp lớn; nuôi cá trê lại ở trong ao, bể, nuôi cá rô
đồng, nuôi cá chim trắng trong lồng và nuôi cá chình lồng ở sông Ô Lâu, mô
hình nuôi Ếch, mô hình nuôi BaBa cho sản lượng khá cao. Tuy nhiên thị trường
đầu ra chưa ổn định, nên gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Song song với việc tăng nhanh về diện tích nuôi trồng thủy sản, trong những
năm qua huyện đã gửi người đi học sinh sản nhân tạo giống cá rô phi đơn tính ở
Cần Thơ, Tổ chức nhiều lớp tập huấn nuôi cá nước ngọt cho nhân dân, với hơn
1300 lượt người tham gia. Tuy thế nhưng năng suấy nuôi vẩn còn thấp, bình
quanh đạt 1,6 – 1,8 tấn/ha/năm.
Nguyên nhân chủ yếu là do:
Nguồn vốn đầu tư còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu nuôi cá tăng sản
thâm canh, bán thâm canh.
Còn một số loài cá do chưa sản xuất giống được tại địa phương mà phải vận
chuyển từ các nơi khác đến như; cá rô phi đơn tính, chim trắng, trê lai, trôi ấn
độ…nên chất lượng con giống không đảm bảo, tỷ lệ hao hụt trong quá trình nuôi
lớn, tốc độ phát triển chậm giá thành cao. Mặt khác không đáp ứng được con
giống kịp thời theo yêu cầu, mùa vụ nuôi.
Người nuôi chưa nắm bắt, áp dụng tốt quy trình kỹ thuật nuôi thâm canh, bán
thâm canh vào trong quá trình nuôi.
14
Nuôi với mật độ thưa, tận dụng thức ăn dư thừa có ở địa phương là chủ yếu
nhưng số lượng ít không đủ để cá sử dụng trong ngày, chưa mạnh giạn bổ sung
các loại thức ăn khác có hàm lượng dinh dưởng cao hơn (thức ăn công nghiệp
dạng viên, thức ăn tổng hợp tự chế biến,..) vào nuôi cá. Việc chọn giống, phòng
và trị bệnh chưa tốt nên còn để xảy ra một số bệnh như: bệnh xuất huyết ruột ở
cá trắm cỏ làm ảnh hưởng đến năng suất cá bột.
Chuyển đổi các mô hình, con nuôi mới cá giá trị kinh tế, hiệu quả cá còn chậm
như: mô hình nuôi cá kết hợp với ruộng lúa, mô hình nuôi cá – lúa kết hợp nuôi
lợn, nuôi cá rô phi đơn tính bán thâm canh….
Phấn đấu từ nay đến năm 2015 diện tích đưa vào nuôi thủy, hải sản là 545 ha.
Trong đó nuôi nước ngọt 460 ha ( diện tích có khả năng nuôi thâm canh nuôi cá
là 120 ha), nuôi nước lợ (nuôi trên cát) 85 ha. Sản lượng nuôi đạt 1730 tấn ( thủy
sản nước ngọt là: 700 tấn, nước lợ 1030 tấn) [10],[11].
15
PHẦN 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: 20/1/2011 đến 20/5/2011
Địa Điểm: Tại các trại sản xuất giống cá thuộc huyện Hải Lăng – tỉnh Quảng trị.
2.2 Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Đối tượng
Các loại cá nước ngọt hiện đang được sản xuất giống tại huyện Hải Lăng –
tỉnh Quảng Trị
2.2.2 Nội dung nghiên cứu
a. Các chỉ tiêu về sinh học sinh sản
- Số lượng cá bố mẹ đưa vào nuôi vỗ
- Tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu
- Thời gian đưa vào nuôi vỗ
b. Quy trình kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ
- Kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ
+ Chuẩn bị ao nuôi vỗ
+ Tuyển chọn cá bố mẹ
+ Mật độ
+ Kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ
c. Quy trình sản xuất giống
- Bể đẻ
- Chọn cá cho đẻ
- Tiêm kích dục tố
- Kết quả, hiệu quả sản xuất giống cá nước ngọt.
- Tình hình tiêu thụ
d. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất giống cá
nước ngọt trên địa bàn nghiên cứu
- Định hướng
+ Định hướng phát triển cho cả vùng
+ Định hướng phát triển của địa bàn nghiên cứu
- Giải pháp
16
+ Giải pháp về đất đai
+ Giải pháp về lao động
+ Giải pháp về giống – khoa học kỹ thuật
+ Giải pháp về vốn đầu tư
+ Giải pháp về chính sách
+Giải pháp về thị trường tiêu thụ
2.2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.2.3.1 Phương pháp thu thập thông tin
- Số liệu thứ cấp
Thu thập số liệu từ Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn của huyện,
Phòng Kinh tế và các tài liệu đã được công bố có liên quan đến vấn đề cần
nghiên cứu, nội dung nghiên cứu tập trung vào các vấn đề sau:
+ Điều kiện tự nhiên
+ Điều kiện kinh tế xã hội
+ Dữ liệu về tình hình sản xuất giống cá nước ngọt
- Số liệu sơ cấp
Thông tin được thu thập qua quan sát thực tế, qua quá trình phỏng vấn trực
tiếp các hộ sản xuất giống và các cán bộ trong huyện qua phiếu điều tra
+ Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 3 trại sản xuất giống cá nước ngọt
thuộc huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị.
STT
Xã
Chủ trại sản xuất
Diện tích (ha)
1
Hải Thượng
Nguyển Hữu Cương
3,5
2
Hải Phú
Nguyễn Văn Quang
1,2
Phan Thanh Búa
0,75
- Chúng tôi thực hiện phương pháp “phỏng vấn trực tiếp’ sử dụng các bảng
hỏi về các thông tin cần điều tra và sử dụng các câu hỏi với nội dung trọng tâm,
đồng thời ghị chép thêm những thông tin nếu như không có trong bảng hỏi.
2.2.3.2 Phương pháp xử lí số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel
17
PHẦN 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Các chỉ tiêu về sinh học sinh sản
3.1.1 Số cá bố mẹ đưa vào nuôi vỗ
Dựa vào hình dạng, biểu hiện bên ngoài để tuyển chọn cá bố mẹ đưa vào nuôi
vỗ nhằm đảm bảo tỷ lệ đực: cái cũng như chất lượng đàn cá bố mẹ được đảm
bảo.
Tại 3 trại sản xuất giống ở Hải Lăng – Quảng Trị đều cho sinh sản 4 loại cá
trắm, cá chép, cá mè trắng và cá mè hoa. Số lượng từng loài cá ở từng trại được
thể hiện qua bảng 3.1.
Bảng 3.1: Số lượng cá đưa vào nuôi vỗ
Loại cá
Trắm cỏ (cặp) Chép (cặp)
Trại cá
Mè trắng (cặp)
Mè hoa (cặp)
Hữu Cương
26
31
16
15
Văn Quang
35
30
21
18
Thanh Búa
29
20
12
11
Tổng
90
81
49
44
Quả bảng 3 cho thấy: cá trắm cỏ và cá chép là hai loại cá cho sinh sản với số
lượng lớn nhất tiếp đến cá mè trắng, mè hoa. Kết quả này cho thấy nhu cầu nuôi
cá trắm cỏ và cá chép là nhiều hơn so với 2 đối tượng còn lại.
3.1.2 Tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu
Tuổi và trọng lượng cá bố mẹ là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong sinh sản
nhân tạo để có thể lựa chọn cá đưa vào nuôi. Mặt khác tuổi và trọng lượng đàn
cá ảnh hưởng đến chất lượng con giống do đó cần thiết phải xác định tuổi và
trọng lượng đàn cá.
18
Bảng 3.2: Tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu cá trắm, cá chép
Cá trắm
Các chỉ tiêu
Giới tính
Cá chép
Trọng lượng
thành thục lần
đầu(kg)
Trọng lượng
Tuổi
thành thục lần
Số
Số
thành
đầu(kg)
lượng
lượng
thục
(con) Nhỏ Lớn Trung
(con) Nhỏ Lớn Trung
lần đầu
nhất nhất Bình
nhất nhất bình
Tuổi
thành
thục
lần
đầu
1+
Cá đực
18
1,9
3,1
2,4
2+
25
0,22 0,7
Cá cái
16
2,5
3,3
2,8
2+ - 3+
24
0,2 0,66
0,41
0,39
1+
Bảng 3.3: Tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu cá mè trắng, cá mè hoa
Cá mè hoa
Các chỉ tiêu
Giới tính
Cá mè trắng
Trọng lượng
Trọng lượng thành Tuổi
Tuổi
thành thục lần
Số
Số
thục lần đầu(kg) thành
thành
đầu(kg)
lượng
lượng
thục
thục
(con) Nhỏ Lớn Trung
(con) Nhỏ Lớn Trung
lần đầu
lần đầu
nhất nhất bình
nhất nhất bình
Cá đực
7
1,7
2,9
2,3
2+
9
1,5
2,8
2,15
2+
Cá cái
5
2,2
3,1
2,3
2+ - 3+
11
2
3
2,5
2+ - 3+
Theo bảng 3.2 và 3.3 cho ta thấy tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu của cá
trắm, cá chép, cá mè trắng và mè hoa tương đối sớm. Nguyên nhân chủ yếu của
hiện tượng này có thể do Hải Lăng – Quảng Tri có lượng nhiệt khá cao. Đa số cá
đực có tuổi thành thục sớm hơn cá cái, theo nhiều tài liệu cho rằng cá mè và cá
trắm có tuổi thành thục biến thiên từ 1 đến 11 tuổi và cá có tuổi thành thục sớm
hơn cá cái một năm. Đối với cá chép cá đực và cái sau 1+ đã thành thục. Chúng
tôi kiểm tra cả 4 loài cá vào đầu mùa vụ thấy cá đực có tỷ lệ thành thục cao hơn
so với cá cái.
19
3.1.3 Thời gian đưa vào nuôi vỗ
Thời gian thả cá nuôi vỗ có liên quan chặt chẽ tới mùa vụ sinh sản của cá. Ở
Việt Nam vào tháng 9 – 10 đa số cá tuyến sinh dục ở giai đoạn II, hoặc giai đoạn
VI thoái hóa. Cơ thể cá đả trải qua một mùa vụ sinh sản nên cơ thể gầy yếu cần
được nuôi vỗ lại [4].
Hầu hết các trại sản xuất giống cá nước ngọt ở Hải lăng – Quảng Trị bắt đầu
nuôi vỗ cá bố mẹ váo tháng 10 dương lịch hàng năm và đầu tháng 2 dương lịch
năm sau tiến hành sinh sản nhân tạo.
3.2 Quy trình kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ
Để có hiệu quả cao trong sản xuất giống cá nước ngọt đòi hỏi có tính quyết
định chính là kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ thích hợp với đặc điểm, sinh lý của đàn
cá để sản sinh ra nguồn giống nhân tạo cá chất lượng tốt. Chúng tôi tiến hành
điều tra kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ ở 3 trại sản xuất giống cá nước ngọt Hải Lăng
– Quảng Trị.
Bảng 3.4: Các chỉ tiêu ao nuôi vỗ cá bố mẹ ở 3 trại
Trại cá
Hữu Cương
Văn Quang
Chỉ tiêu ao
Diện tích ao (m2)
Thanh Búa
5.500
6.250
3.540
Độ sâu (m)
1,5 – 1,8
1,4 – 1,6
1,5 – 1,7
Nền đáy
Bùn – sét
Bùn – sét
Bùn – sét
Nước thủy lợi
tự chảy
Nước thủy lợi
tự chảy
Nước thủy lợi
tự chảy
Nguồn nước
Qua bảng 3.4 cho thấy điều kiện ao nuôi vỗ khá phù hợp cho sự phát triển
tuyến sinh dục của cá mè, cá trắm và cá chép. Đặc biệt ở đây có nguồn nước
trong sạch có thể tự chảy là điều kiện thuận lợi để kích thích cho sự thành thục
của cá bố mẹ trong giai đoạn nuôi vỗ chuyển hóa.
Theo các chủ trại sản xuất giống cá cho biết, các yếu tố môi trường trong vụ
này như: DO dao động từ 4,0 đến 6,0 mgO2/l, pH 6,8 - 8,0 nằm trong khoảng
thích hợp để nuôi vỗ cá bố mẹ. Yếu tố nhiệt độ cao nhất 27,5 0C trong suốt quá
trình nuôi vỗ là điều kiện tốt cho cá có tuyến sinh dục thành thục sớm. Trong
năm nay nhiệt độ tương đối thấp so với năm trước, có lúc thấp đến 18,50C. Tuy
20
- Xem thêm -