Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tìm hiều sắc thái dục tính trong truyền kỳ mạn lục...

Tài liệu Tìm hiều sắc thái dục tính trong truyền kỳ mạn lục

.PDF
110
263
142

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ HOÀI THU TÌM HIỂU SẮC THÁI DỤC TÍNH TRONG “TRUYỀN KỲ MẠN LỤC” Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Trần Ngọc Vƣơng Hà Nội - 2014 1 LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là những thầy cô giáo trong khoa Văn học đã tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập tại trường và tạo rất nhiều điều kiện tốt để em có thể hoàn thành chương trình cao học này. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến thầy giáo, GS.TS Trần Ngọc Vương – người đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Đồng thời, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình và bạn bè đã luôn tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn. . Hà Nội, ngày 17 tháng 11 năm 2014 Tác giả luận văn Lê Thị Hoài Thu 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Giáo sư- Tiến sĩ Trần Ngọc Vương. Luận văn được trình bày theo yêu cầu, quy định của khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đề ra. Tác giả luận văn Lê Thị Hoài Thu 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 5 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU VẤN ĐỀ SẮC THÁI DỤC TÍNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC .............. 17 1.1. Khái niệm dục tính và dục tính trong văn hóa cổ trung đại ...........................17 1.1.1. Khái niệm dục tính ...................................................................................17 1.1.2 Dục tính trong văn hóa cổ trung đại .........................................................20 1.2. Vấn đề dục tính trong văn học........................................................................24 1.2.1. Dục tính trong văn học thế giới................................................................24 1.1.2. Vấn đề dục tính trong văn học trung đại Việt Nam ..................................30 1.3. Một số nét khái quát về tác giả Nguyễn Dữ và Truyền kỳ mạn lục ...............38 1.3.1. Tác giả Nguyễn Dữ...................................................................................38 1.3.2. Vài nét về Truyền kỳ mạn lục..................................................................41 1.4. Tiểu kết ...........................................................................................................45 CHƢƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA SẮC THÁI DỤC TÍNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ ...................................................................... 47 2.1. Dục tính biểu hiện qua đề tài ..........................................................................47 2.2. Dục tính biểu hiện qua các nhân vật...............................................................59 2.3. Dục tính biểu hiện qua những biểu tượng dục tính ........................................70 2.4. Tiểu kết ...........................................................................................................74 CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN SẮC THÁI DỤC TÍNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ .................................................... 76 3.1. Yếu tố kỳ ảo....................................................................................................76 3.2 Ngôn ngữ nhân vật ..........................................................................................83 3.3. Ngôn ngữ thơ ..................................................................................................86 3.3. Không gian nghệ thuật ...................................................................................94 3.4. Thời gian nghệ thuật .......................................................................................98 3.5. Tiểu kết .........................................................................................................100 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................105 4 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Chỉ với một tác phẩm Truyền kỳ mạn lục cũng đã đủ khẳng định tên tuổi của Nguyễn Dữ trong lịch sử văn học Việt Nam. Tác phẩm được coi là mẫu mực của thể truyền kỳ, là “thiên cổ kỳ bút”, là “áng văn hay của bậc đại gia”, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục từ khi ra đời đến nay đã chiếm được bao cảm tình của người đọc. Đó là tác phẩm có giá trị châu lục. Nhiều những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã định giá tác phẩm này trên các phương diện cả về nội dung và nghệ thuật, coi tác phẩm là một biểu hiện vinh dự cho nền văn học nước nhà. Truyền kỳ mạn lục vừa có giá trị hiện thực vừa là một tác phẩm có giá trị nhân đạo. Tác phẩm còn thể hiện tinh thần táo bạo, phóng túng của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Tất cả những điều đó được chuyển tải qua hình thức nghệ thuật có nhiều thành tựu của tác phẩm. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và ca kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi văn biến ngẫu và thơ ca. Sử dụng các yếu tố kì ảo, lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục ra đời vào thế kỷ XVI, thuộc thời kỳ văn học trung đại Việt Nam. Đó là nền văn học mang đậm nét ảnh hưởng của Nho giáo. Con người bị đặt trong các mối quan hệ luân thường, bị ràng buộc bởi những điều cấm kỵ của Nho giáo. Trong xã hội đó, người phụ nữ phải tuân theo những qui định chặt chẽ của Nho giáo như tam tòng, tứ đức. Họ còn bị coi như nguồn gốc của sự cám dỗ, đe dọa đạo đức. Những tư tưởng của nho giáo đối với người phụ nữ thực chất là sự tước đoạt quyền lợi của nữ giới và tạo nên một xã hội vận hành theo kiểu nam quyền. Người đàn ông thống ngự nữ giới và áp đặt các chuẩn mực của họ về cái đẹp, về đức hạnh.Vấn đề dục tính được coi là bản năng vốn có, một phần quan trọng trong đời sống con người lại bị xem như một trong những điều cấm kỵ. Vì vậy trong các sáng tác thơ văn của các nhà nho rất hiếm có hình ảnh người phụ nữ và vấn đề 5 tình dục xuất hiện. Nhưng trong tác phẩm của mình, Nguyễn Dữ đã đề cập đến vấn đề này. Là một nhà Nho, Nguyễn Dữ vẫn đứng trên lập trường đạo đức của Nho gia để nhìn nhận, đánh giá con người, những vấn đề của con người trên quan điểm đạo đức. Tuy nhiên, một tác giả văn học lớn luôn có tinh thần nhân đạo cao cả, Nguyễn Dữ trong không ít trường hợp, dù là vô thức hay có ý thức đã đưa những dòng ngợi ca vẻ đẹp, tình yêu, hạnh phúc cá nhân, đề cao những khát vọng, nhu cầu của người phụ nữ. Những câu chuyện tình trong tác phẩm đã làm “xôn xao cả cõi trần thế, cả chốn thủy cung, cả nơi thiên giới. Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây là một bài ca đầy huyền ảo về tình yêu nhục cảm”[26 ]. Quan niệm chính thống xem văn chương dùng để thể hiện “tâm, chí, đạo” dường như không còn nữa khi Nguyễn Dữ miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục công khai quyền sống của người phụ nữ về thân xác. Như vậy, chúng ta thấy văn hóa nhà nho là văn hóa thanh giáo, tiết dục thế mà Truyền kỳ mạn lục lại là tập truyện có nhiều chất dục tính. Hơn nữa Truyền kỳ mạn lục là một trường hợp đặc biệt ở chỗ tác giả nhà Nho vừa tuân thủ những nguyên lý đạo đức Nho gia, lại vừa có thể phá vỡ những nguyên lý ấy ở mức độ nhất định để đến với vấn đề dục tính trong phạm vi mà thời đại cho phép. Vấn đề này đã được người nhiều người quan tâm nhưng đánh giá vai trò, ý nghĩa giải thích cho hệ thống, có lí luận về hiện tượng này vẫn còn là điều cần tiếp tục bàn luận. Chính vì vậy việc nghiên cứu hệ thống đề tài này là một việc làm hết sức cần thiết. Điều đó sẽ giúp người đọc có một cái nhìn đầy đủ hơn, toàn diện hơn về tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy được vai trò, vị trí của việc thể hiện dục tính trong thể loại truyền kì nói riêng và văn xuôi tự sự trung đại nói chung. Từ đó thấy được những đóng góp của Nguyễn Dữ khi thể hiện vấn đề này. Đó cũng là nguyên nhân chính khiến chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Là tác phẩm có giá trị về nội dung tư tưởng và nghệ thuật nên Truyền kỳ mạn lục từ khi ra đời đến nay đã chiếm được bao cảm tình của người đọc trong và ngoài 6 nước. Trong bề dày lịch sử nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục, nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau về những vấn đề đặt ra trong tác phẩm và những vấn đề có liên quan đến tác giả, tác phẩm đã xuất hiện. Ý kiến đánh giá sớm nhất về tác phẩm Truyền kỳ mạn lục phải kể đến lời tựa Truyền kỳ mạn lục do Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định sơ niên ( tháng 7 năm 1547). Trong lời tựa đó, ông có giới thiệu về tác giả, tác phẩm như sau : Tập lục này là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là người con trai cả của cụ Tiến sỹ triều trước Tường Phiêu. Cụ này đỗ Tiến sỹ khoa Bính Thìn, năm Hồng Đức hai mươi bảy; 1496, làm quan đến chức Thượng thư. Thủa nhỏ (Nguyễn Dữ) học hành chăm chỉ, học rộng nhớ dai, muốn lấy văn chương nối nghiệp nhà, vượt đỗ hương tiến, nhiều lần trúng thi Hội, làm tri huyện Thanh Tuyền. Nhưng mới được một năm thì ông từ bỏ huyện đường (về nhà) nuôi mẹ để làm tròn đạo hiếu, chân không bén mảng tới chốn thành thị đã ngoài mấy sương. Thế rồi ông viết sách Truyền kỳ mạn lục này để gửi gắm tâm sự. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu Tông Cát (Cù Tông Cát có soạn cuốn Tiễn Đăng tân thoại), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu!” [4]. Lời tựa này đã nhận định Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ít nhiều ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại và cũng thể hiện mục đích sáng tác riêng của Nguyễn Dữ. Đến thế kỷ XVIII- XIX, nhiều học giả nổi tiếng đã từng ca ngợi Truyền kỳ mạn lục.Vũ Khâm Lân trong Bạch Vân am cư sĩ phả kí đã đánh giá Truyền kỳ mạn lục là một “thiên cổ kì bút”, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí thì khen tác phẩm là “áng văn hay của bậc đại gia”[8 ], Lê Quí Đôn trong Kiến văn tiểu lục ca ngợi văn chương Truyền kỳ mạn lục với “ lời lẽ thanh tao,tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”[16]. Những lời nhận định đó đã khẳng định vị trí, vai trò của Truyền kỳ mạn lục trong nền văn học Việt Nam. Nhiều công trình nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục theo thời gian dần tăng lên. Từ những năm sáu mươi của thế kỷ XX, Truyền kỳ mạn lục đã được dịch ra 7 tiếng Nga và các nhà nghiên cứu khoa học nước ngoài như Nhật Bản, Korea, Đài Bắc… và các nhà nghiên cứu trong nước quan tâm nghiên cứu tác phẩm này. Có những bài viết, công trình nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục chủ yếu đi vào tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của tác giả, về văn bản, về những bản dịch bởi đây là tác phẩm văn học trung đại, tài liệu ghi chép lưu truyền phần nhiều bị thất lạc. Có thể kể đến là: Bài viết “Vấn đề tên tác giả Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Quang Hồng “Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự ?”[23]; “Bàn thêm tên tác giả - tác phẩm Truyền kỳ mạn lục”[24] của Lại Văn Hùng; “Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền kì mạn lục”[25] của Nguyễn Phạm Hùng”; “Bàn thêm cách gọi tên tác giả và tác phẩm Truyền kì mạn lục”[41] của Phạm Luận … Có những bài viết, công trình nghiên cứu chủ yếu đi vào tìm hiểu các nguồn ảnh hưởng đến Truyền kỳ mạn lục. Nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về mối quan hệ giữa Truyền kỳ mạn lục với các tác phẩm của Trung Quốc, Hàn Quốc như Ca tỳ tử (Otogiboko)và Vũ nguyệt vật ngữ (Ugetsumonogatan) với Truyền kì mạn lục[58] của Nguyễn Thị Oanh; “Đề tài tình yêu trong Kim ngao tân thoại của Hàn Quốc (So sánh với Truyền kì mạn lục của Việt Nam)” [65] của Kim Seona; “Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong khu vực”[57] của Trần Nghĩa; “Quá trình truyền nhập và lưu hành Tiễn đăng tân thoại ở Việt Nam”[49] của Nguyễn Nam; “Nghiên cứu,so sánh một tiểu thuyết truyền kì trong Kim ngân tân thoại, Truyền kì mạn lục và Tiễn đăng tân thoại”[33] của Toàn Huệ Khanh; “Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ so sánh” [47] của Nguyễn Đăng Na; So sánh chuyện tình giữa Người và Hồn ma trong "Tiễn đăng tân thoại" và "Truyền kỳ mạn lục"[35] của PGS.TS Đinh Thị Khang; Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kì Hàn Quốc - Trung Quốc- Việt Nam[25] của Toàn Huệ Khanh; “Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục” [7] của Phạm Tú Châu. Ở những công trình này, đa số các nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu giữa mối quan hệ giữa Truyền kỳ mạn lục với Tiễn đăng tân thoại. Họ nhận định Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng nhiều từ sáng tác của Cù Hựu– một tác giả Trung Quốc đời nhà Minh (do tiếp thu tình tiết, mô típ và bút pháp thể loại). Nhưng tập truyện truyền kỳ này vẫn 8 thể hiện sức sáng tạo nghệ thuật của nhà văn tài năng họ Nguyễn. Đặc biệt có hai công trình nghiên cứu so sánh quan trọng nhất là học giả Đài Loan Trần Ích Nguyên với Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục[55] và Tiến sỹ Nguyễn Nam với Luận án tiến sỹ Writing as Response and Translation – Jiandeng Xinhua and the Evolution of the Chuanqui Genre in East Asia, Particularly in Vietnam [50]. Trong công trình nghiên cứu của mình, Trần Ích Nguyên khảo sát về các truyện của Cù Hựu và của Nguyễn Dữ và cho rằng cần phải lý giải “cảm giác quen quen nhưng nếu muốn chỉ ra xem nó giống truyện nào của Tiễn đăng tân thoại thì không thật dễ”[55]. Nhà nghiên cứu còn chỉ ra các nguồn văn bản ảnh hưởng đến Truyền kỳ mạn lục: chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại, cải biến từ thần thoại và chí quái Việt Nam, chép lại truyền thuyết dân gian địa phương. Đặc biệt nhà nghiên cứu cho rằng ngay cả Tiễn đăng tân thoại cũng mô phỏng chí quái truyền kỳ và ghi chép truyền thuyết dân gian địa phương, một quy trình tương tự như sự sáng tạo Truyền kỳ mạn lục. Không phải chỉ cho rằng Nguyễn Dữ đã chịu ảnh hưởng nhiều từ sáng tác của Cù Hựu (do tiếp thu tình tiết, mô típ và bút pháp thể loại…), nhưng vẫn thể hiện sức sáng tạo khéo léo và tài năng nghệ thuật của mình mà còn phải quan tâm đến một hiện tượng có tính quy luật của văn học trung đại. Đó là nhiều mô típ folklore, các type truyện dân gian của Việt Nam, Trung Quốc khá gần gũi nhau. Đó cũng là hiện tượng tồn tại trong nhiều nền văn học thế giới . Về vấn đề dục tính trong Truyền kỳ mạn lục qua tìm hiểu tư liệu, chúng tôi thấy đã được một số nhà nghiên cứu như Bùi Kỷ, Bùi Duy Tân, Trần Đình Sử, Phạm Tú Châu, Trần Thị Băng Thanh, Nguyễn Phạm Hùng, Trần Nho Thìn, Trần Ích Nguyên… bàn đến trong các bài viết và công trình nghiên cứu của mình. Các nhà nghiên cứu đã cho rằng Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm có yếu tố dục tính, việc thể hiện dục tính trong tác phẩm của Nguyễn Dữ mang tính chất lưỡng phân và bày tỏ nhận định khác nhau về vấn đề này. Có những nhà nghiên cứu đứng trên quan điểm đạo đức để bày tỏ thái độ không đồng tình về vấn đề dục tính trong Truyền kỳ mạn lục. Nhà nghiên cứu Bùi Kỷ trong Truyền kỳ mạn lục với Lời giới thiệu Truyền kỳ mạn lục (bản dịch của 9 Trúc Khê Ngô Văn Triện xuất bản năm 1940) đứng trên lập trường nhà Nho để nhìn nhận nhân vật đã bàn về vấn đề dục tính trong truyện. Ông cho rằng: “Truyện 3 (Chuyện cây gạo), cũng như truyện 5 (Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây), truyện 11 (Chuyện yêu quái ở Xương Giang) có ý bài xích những thói đắm đuối trong vòng tình dục của bọn thiếu niên” [82,tr.234]. “Bọn thiếu niên” mà ông muốn nói đến ở đây là nhân vật nam và nữ. Những tác phẩm có màu sắc dục tính đó là để phê phán chứ không đồng tình với dục tính. Giáo sư Bùi Duy Tân trong bài nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán cũng cho rằng những hành động táo bạo và phóng túng của kiểu người phụ nữ như Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, Đào Hồng Nương, Liễu Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây là “thật xa lạ với quan niệm lành mạnh về cuộc sống, về tình yêu nam nữ trong truyện Nôm bình dân, trong văn nghệ dân gian. Đối với những truyện này, Nguyễn Dữ đã có lời bình để phê phán những quan niệm đồi trụy và khẳng định lại những giáo điều về đức hạnh, tiết nghĩa. Sự phê phán và khẳng định đó xuất phát từ thái độ bảo thủ của Nho giáo, nhưng xét về mặt khách quan thì cũng phù hợp với cuộc đấu tranh để giữ gìn phẩm giá con người” [66,tr.519]. Như vậy ông vẫn đứng trên lập trường Nho gia để thể hiện thái độ phê phán những người phụ nữ dám chủ động đi tìm tình yêu và hạnh phúc ái ân, không sống theo chuẩn mực của đạo đức Nho gia. Có những nhà nghiên cứu thì cho rằng việc thể hiện vấn đề dục tính trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã thể hiện quan niệm mới về con người của ông và đem đến cho tác phẩm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam đã nhận định: Nếu nói con người trong thơ thiền Lý- Trần, thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, bên cạnh lý tưởng cao thượng là lý tưởng thoát tục, diệt dục, thuần khiết, trong sáng, thì với Truyền kỳ mạn lục đã gặp một thế giới những con người sống trong bể dục, tình dục”[63,tr.161]. Đánh giá của Trần Đình Sử nghiêng về phía ngợi ca khi ông cho rằng: “Khuynh hướng của tác giả là khuyến thiện, trừng ác, đề cao công đức, lên án vật dục, tình dục, theo tư tưởng Tống Nho: 10 diệt nhân dục, tồn thiên lý. Nhưng mặt khác, cái “dục” của cá nhân tự do trong tình yêu nam nữ, tuy không được thừa nhận trong các lời bình, nhưng lại được miêu tả như những cuộc tình kỳ ngộ lãng mạn đáng nhớ và như thế Truyền kỳ mạn lục là một cái mốc mới trong quan niệm về tự do cá nhân khi thể hiện “tình dục”, “vật dục” này”[63,tr.162]. Trong Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam, t.2, NXBĐHSP, 2007, các nhà viết sách nhận định: Chính Nguyễn Tự là “cha đẻ của dòng thơ sexy Việt Nam” [51,tr.51]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phạm Hùng trong bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cho rằng chỉ có Truyền kỳ mạn lục mới viết nên "những câu chuyện tình đã làm xôn xao cả cõi trần thế, cả chốn thuỷ cung, và cả nơi thiên giới" [26,tr.117].Ông đã đưa ra một số nhận định về vấn đề dục tính: Một quan niệm mới về việc phản ánh con người đã xuất hiện. Truyền kỳ mạn lục là như vậy. Nó ca ngợi vẻ đẹp của con người, cả về vật chất và tinh thần. Những hình ảnh da thịt hồng hào, tươi tốt, hở hang rất dễ gặp trong tác phẩm này. Những dục vọng, ước muốn thoát ra ngoài sự tỏa chiết của tư tưởng Nho gia về “tu, tề, trị, bình” với người quân tử, “công, dung, ngôn, hạnh” đối với người phụ nữ phong kiến cũng rất dễ gặp ở đây. Con người, đó không phải là những tấm gương chói lòa về các anh hùng, liệt nữ lưu danh sử sách mà là những con người của đời sống thực tế sôi động, cay nghiệt”[26,tr.501]. Nhận định này của ông thiên về ca ngợi mà không thấy hạn chế nhất định trong những hình tượng này cũng như trong tư tưởng Nguyễn Dữ. Nhận định này có phần cực đoan, bởi lẽ, tuy Nguyễn Dữ đã có nhiều điểm nhân văn tiến bộ hơn so với nhà Nho đương thời nhưng những nhân vật của ông ở một chừng mực nhất định vẫn được khen, chê theo tiêu chí Nho gia, những khát vọng mang hơi hướng vật chất trong truyện không được Nguyễn Dữ công khai ca ngợi, thậm chí ít nhiều còn bị ông phê phán. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại chỉ ra rằng: Trong thế giới truyền kỳ, người đọc được tiếp xúc với các nhân vật chỉ xuất hiện trong tưởng tượng…Đó là thế giới vừa hư vừa thực, có cả cái thấp 11 hèn và cái cao thượng, có cả ma và thánh, quỷ và tiên… Đồng thời có cả những sinh hoạt thường ngày có ái ân, tình dục, ghen tuông, đố kỵ, lọc lừa”[46]. Ông khẳng định giá trị độc đáo riêng biệt của Truyền kỳ mạn lục: “Nếu Lê Thánh Tông hướng văn học vào việc phản ánh con người, lấy con người làm đối tượng và trung tâm phản ánh thì Nguyễn Tự đi xa hơn một bước: phản ánh số phận con người, chủ yếu là số phận mang tính chất bi kịch của người phụ nữ. Nhờ đó mà Nguyễn Tự đã mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học Việt Nam thời trung đại. Thông qua số phận các nhân vật, Nguyễn Tự đi tìm giải pháp xã hội: Con người phải sống ra sao để vươn tới hạnh phúc, để nắm bắt được hạnh phúc? Hạnh phúc tồn tại ở đâu: trên trần gian này hay miền tiên giới, cõi thiên tào hay nơi thủy cung…? Đối với người đàn ông, hạnh phúc là gì và đối với người phụ nữ, như thế nào là hạnh phúc? Nguyễn Tự đưa ra nhiều giả thiết bằng những cuộc thử nghiệm, nhưng tất cả đều bế tắc. Đó là thông điệp cuối cùng ông để lại cho người đọc…” [46, tr.216]. PGS.TS Đinh Thị Khang trong bài So sánh chuyện tình giữa Người và Hồn ma trong “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kỳ mạn lục” đánh giá chất dục tính trong Truyền kì mạn lục với thái độ ngợi ca: Không thể không nói rằng: nhà văn họ Nguyễn đã thể hiện trong sáng tác của mình một sự đồng cảm, ngợi ca tình yêu – hạnh phúc trần thế, tự nhiên của con người, của tuổi trẻ vượt qua khỏi sự ràng buộc của quan niệm, tập tục, đạo đức, lễ nghi phong kiến…, phản ánh một góc nhìn mang tư tưởng nhân văn”[35]. Cùng với quan điểm đó, trong bài viết Ngôn ngữ sắc dục trong một số tác phẩm văn chương trung đại, tác giả Trần Thanh Thủy viết “Từ thế kỉ XVI trong tập thiên cổ kì bút Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ đã không ít lần tỏ ra táo bạo và phóng túng khi thể hiện quan hệ yêu đương không lành mạnh giữa trình Trung Ngộ và Nhị Khanh (Chuyện cây gạo) giữa Hà Nhân và hai nàng Đào Liễu (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây), giữa sư Vô Kỷ và Đào Hàn Than (Nghiệp oan của Đào Thị)” [81]. Một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra tính chất lưỡng phân trong việc thể hiện vấn đề dục tính của Nguyễn Dữ trong tác phẩm và những hạn chế nhất định trong việc thể hiện vấn đề này. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Về con người cá nhân 12 trong văn học cổ Việt Nam đã chỉ rõ tính lưỡng tính của Nguyễn Dữ khi thể hiện vấn đề này trong tác phẩm: Có thể nói, cùng với Hà Ô Lôi trong Lĩnh Nam chích quái, yếu tố tình dục lần đầu tiên được đưa vào văn học dưới dạng lưỡng tính – vừa phủ định vừa khẳng định. Đặc biệt nhất là tình yêu tự do cá nhân không gắn liền với giá thú, nghĩa vụ được khẳng định dưới hình thái tội lỗi, cấm kỵ chỉ có ở loài yêu quái nhưng lại khiến cho người ta thích thú như được ăn trái cấm [63,tr.163]. Nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu trong Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ Hán của Việt Nam cũng đã chỉ ra những dấu hiệu của việc miêu tả tình dục trong Truyền kỳ mạn lục và cho rằng với điều đó đã đánh dấu bước tiến của văn chương nhà nho trong quan niệm mới về con người nhưng bà vẫn nhận thấy những hạn chế của Nguyễn Dữ khi thể hiện vấn đề này: “Tuy nhiên phần miêu tả "xuân khuê tình trạng" bằng những "diễm từ tuyệt cú, khúc tận kì diệu" ấy chỉ được ông khuôn trong cuộc mây mưa giữa kẻ "thất phu đa dục". Trình Trung Ngộ, kẻ "đồng tâm đa dục" Hà Nhân với những dâm quỉ, hoa yêu để rồi sau đó lời cảnh giới, qui châm có lợi cho thế giáo mới có dịp phát biểu ở phần lời bình cuối truyện. Do vậy nếu có tình tiết "sex" ở "Truyền kì mạn lục, thì đó cũng thuộc loại "cổ điển": chất "sex" chưa đi vào cuộc tình ân ái gối chăn của vợ chồng có cưới hỏi hẳn hoi” [6] Nhận định về vấn đề dục tính trong Truyền kỳ mạn lục, PGS – TS Trần Nho Thìn cũng đã chỉ ra hai mặt của việc thể hiện vấn đề dục tính trong tư tưởng Nguyễn Dữ : “Một mặt, tác giả say sưa tả mối tính lãng mạn, sức mạnh mê hồn của sắc đẹp và tài thơ của Hàn Than, nhưng mặt khác lại có ý phê phán gay gắt sự nguy hại của sắc đẹp phụ nữ đối với nam giới”.“Phải chăng lời bình là cách tác giả che giấu ý đồ thực của mình nhằm ca ngợi tình yêu nam nữ. Phải chẳng tác giả không lên án người phụ nữ trong những cuộc tình này? Thật khó trả lời một chiều, đơn giản. Nhưng chỉ biết, nhân chuyện kể về sự gian dâm của những người đàn ông mà tác giả có cố chuyển vào truyện những diễn ngôn táo bạo về tình dục nam nữ [80, tr.398 – 399]. Bên cạnh những công trình của các nhà nghiên cứu, phê bình, còn có rất nhiều các khóa luận tốt nghiệp, công trình luận văn, của sinh viên và học viên cao 13 học tìm hiểu về Truyền kỳ mạn lục. Tiêu biểu là một số công trình Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý, khắc họa tính cách nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục của Phạm Thị Hường( Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 2001); Những triết lí nổi bật trong của Nguyễn Dữ của tác giả Phạm Thị Thu Hằng (Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 2005); Nhân vật phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ quan điểm giới của tác giả Trần Thị Nhung (Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư Phạm Thái Nguyên, 2014); Hệ thống lời bình ở Truyền kỳ mạn lục- Nguyễn Dữ trong mối quan hệ với phần chính văn của tác giả Mai Thị Thu Huyền (Luận văn thạc sĩ Ngữ văn , học Khoa học xã hội và Nhân văn, 2014)… Như vậy, tìm hiểu về vấn đề dục tính trong Truyền kỳ mạn lục các bài viết, công trình nghiên cứu đã bàn về vấn đề này với những quan điểm khác nhau. Đó là những gợi dẫn quan trọng cho chúng tôi nghiên cứu một cách có hệ thống về sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục. 3. Mục đích nghiên cứu Lựa chọn đề tài này, chúng tôi hướng đến hai mục đích sau: Thứ nhất, chỉ ra biểu hiện của sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục, đồng thời nêu lên ý nghĩa của sắc thái dục tính trong tác phẩm này. Thứ hai, nêu rõ nghệ thuật biểu hiện sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu Trong luận văn này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là toàn bộ những yếu tố thể hiện sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục, cụ thể trong 20 truyện, chúng tôi chọn được 10 truyện có sắc thái dục tính trong tác phẩm làm đối tượng nghiên cứu chính. Đó là những truyện: - Chuyện nàng Tuý Tiêu - Chuyện Lệ Nương - Chuyện cây gạo - Chuyện nghiệp oan của Đào Thị - Chuyện yêu quái ở Xương Giang 14 - Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây - Chuyện đối tụng ở Long đình - Chuyện Từ Thức gặp tiên - Chuyện người con gái Nam Xương - Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu Ngoài ra chúng tôi sẽ khảo sát yếu tố thể hiện sắc thái dục tính trong một số tác phẩm khác của các nhà thơ, nhà văn khác trong nền văn học trung đại để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp, thao tác sau: - Phương pháp lịch sử- xã hội: Chúng tôi tìm hiểu Truyền kỳ mạn lục và tác giả trong bối cảnh thời đại của Nguyễn Dữ để thấy ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội tới tác phẩm. - Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Chúng tôi vận dụng phương pháp tiếp cận văn hoá học để nhìn nhận vấn đề dục tính thể hiện trong tác phẩm bởi những quan điểm văn hoá của một quốc gia, một thời đại chi phối nhiều việc thể hiện sắc thái dục tính trong tác phẩm. - Thao tác thống kê, phân loại: thống kê, phân loại những yếu tố biểu hiện sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục. - Thao tác so sánh: so sánh biểu hiện của sắc thái dục tính, nghệ thuật thể hiện sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục với một số tác phẩm của các tác giả cùng thời để rút ra những điểm tương đồng và khác biệt. - Thao tác phân tích - tổng hợp: dựa trên những cứ liệu thu thập được, tiến hành phân tích những yếu tố, những biện pháp nghệ thuật thể hiện sắc thái dục tính trong tác phẩm. 6. Đóng góp mới của luận văn Đây là luận văn đầu tiên đi sâu tìm hiểu sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục một cách hệ thống và toàn diện. Đề tài góp phần làm rõ hơn một vấn đề 15 mới của chủ nghĩa nhân đạo: vấn đề dục tính và sự thức tỉnh ý thức cá nhân của con người trong văn học trung đại. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến tác phẩm Truyền kỳ mạn lục và văn học trung đại Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, chúng tôi dự kiến luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tìm hiểu vấn đề sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục. Chương 2: Sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Chương 3: Nghệ thuật thể hiện sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. 16 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU VẤN ĐỀ SẮC THÁI DỤC TÍNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC 1.1. Khái niệm dục tính và dục tính trong văn hóa cổ trung đại 1.1.1. Khái niệm dục tính Vấn đề dục tính của con người là một vấn đề đang thu hút sự chú ý, quan tâm không chỉ của lĩnh vực sinh học, tâm lý học mà còn của nhiều ngành khoa học và lĩnh vực khác trong đó có văn học.Vậy dục tính là gì mà lại thu hút sự quan tâm của nhiều lĩnh vực như vậy? Dục tính theo Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm trong Từ điển tiếng Việt định nghĩa là: “thú vui xác thịt giữa nam và nữ”[70]. Còn Nguyễn Như Ý trong Đại từ điển tiếng Việt thì cho rằng dục tính là những “đòi hỏi về quan hệ tính giao” [89, tr.1593]. Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê nhà xuất bản Đà Nẵng, 2011 có định nghĩa: “Tính dục đồng nghĩa với dục tính là sự đòi hỏi sinh lý về quan hệ tính giao, hiểu biết về tính dục, thỏa mãn tính dục” [60]. Từ những năm 1970, Ủy ban giáo dục và thông tin về tình dục ở Mỹ đã đưa ra định nghĩa hiện đại về tính dục như sau: Tính dục là tổng thể con người, bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của con trai hoặc con gái, đàn ông hoặc đàn bà và biến động suốt đời. Tính dục phản ánh tính cách con người, không phải chỉ là bản chất sinh dục. Vì là một biểu đạt tổng thể của nhân cách, tính dục liên quan tới yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tinh thần và văn hóa của đời sống. Những yếu tố này ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách và mối quan hệ giữa người với người và do đó tác động trở lại xã hội. Như vậy, qua những quan niệm, định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy dục tính xét về mặt hoạt động là khái niệm chỉ hoạt động tính giao, còn gọi là giao hợp hay giao cấu là đưa bộ phận sinh thực khí người nam vào bộ phận sinh dục người nữ. Hoạt động này là thuộc tính của một sinh thể sống, một nhu cầu thiết yếu, là mặt sinh vật tự nhiên thuộc bản năng của con người. 17 Nói đến dục tính chính là nói đến phần “thân” của con người trong quan hệ với “tâm” theo quan niệm về con người thời xưa. “Thân” của con người là thân xác. Để tồn tại trước hết cần nhu cầu ăn, mặc, ở…sau đó là vấn đề bản năng tình dục và biểu tượng phồn thực để thờ cúng tổ tiên. Dục tính thuộc về cái tục. “Cái tục, theo nghĩa rộng nhất chính là cái đời thường, cái hàng ngày, tồn tại trong mối quan hệ vừa đối lập, vừa gián cách lại vừa bị thống trị bởi cái thiêng, cái linh thánh, nghĩa là luôn luôn bị xác định là cái không mẫu mực, không chính thống, cũng có nghĩa là ít hoặc không có giá trị”[87,tr.276]. Xét trong khái niệm với tình dục thì dục tính có ý nghĩa tổng quát hơn. Tình dục: (Sexual desire): “ham muốn về nhục dục, về xác thịt” là nhu cầu tự nhiên của con người về quan hệ tính giao. Còn dục tính: (Sexual intercourse): “điều dục ở giữa giống đực và giống cái, về điều dục ở giữa trai gái”, là thú vui xác thịt giữa nam và nữ. Dục tính không đơn thuần là một khái niệm nói về bản chất sinh dục mà còn thể hiện tính cách con người. Dục tính người là toàn bộ con người đó và những yếu tố tạo nên dục tính cũng là những thành phần làm nên nhân cách - tổng thể những phẩm chất tâm lý đặc trưng ở một con người. Ẩn tàng trong sâu thẳm của tiềm thức mỗi con người chính là dục tính, cơn hứng trỗi lên ngay giữa hai phái, một sợi giây liên lạc vô hình, là sự quyến rũ vô biên. Dục tính vừa cho xác thịt vừa cho tinh thần. Do đó người ta không còn sợ phải che giấu mà cần phải phơi bày để thấy trọn vẹn chức năng của nó và ngợi ca nó. Đó là nguồn cơn tự sự của tình yêu, là đề tài hứng khởi giữa con người với con người, là ngọn lửa luyến ái luôn thắp sáng để hai nửa thế giới tìm đến nhau. Thời xa xưa, ở những vùng sinh sống bằng nghề nông cần phải có nguồn nhân lực dồi dào, mùa màng mới tươi tốt, con người cần duy trì nòi giống để phát triển. Trần Ngọc Thêm cho rằng: Để duy trì cuộc sống, cần cho mùa màng tươi tốt. Để cho phát triển cuộc sống cần cho con người sinh sôi. Trí tuệ của người bình dân nhìn thấy thực tiễn đó ở một sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà sùng bái nó như thần thánh và kết quả là xuất hiện tín ngưỡng phồn thực – tín ngưỡng cầu mong sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người (phồn = nhiều, thực = nảy nở). Tín ngưỡng 18 phồn thực ở Việt Nam từng tồn tại theo suốt chiều dài lịch sử, và có tới hai dạng: thờ cơ quan sinh dục và thờ bản thân hành vi giao phối. [76,tr.234]. Tín ngưỡng phồn thực là một hiện tượng tôn giáo phổ biến trong đời sống nhân loại từ xa xưa. Biểu hiện chủ yếu của tín ngưỡng phồn thực này là thờ sinh thực khí nam nữ. Những phong tục, lễ hội, nghệ thuật dân gian, trong vốn văn hóa dân tộc còn biểu hiện những dấu vết của tín ngưỡng này... Ở Ấn độ vẫn còn có những lễ hội sùng bái dương vật, được ngắm nhìn, vuốt ve “cây-nhân-sinh” và đề cao xác thịt để thụ hưởng hơn là hành xác, nhận thức được xác thịt đưa tới tồn lưu của nhân loại và nhìn nhận nơi phát sinh ra nguồn gốc tồn lại của nòi giống. Champa và các nước cận bang vẫn còn thờ thần dương vật Linga và thờ thần âm vật Yoni được xem như một thần linh đã in sâu vào văn hoá của dân tộc họ và là một nghệ thuật cao qúi trong dân gian. Ấn Độ, Trung Quốc, tín ngưỡng phồn thực còn phát triển lên thành triết học, văn hóa tính dục. Phương Đông cổ đại lấy lý thuyết âm dương và ngũ hành làm cơ sở để giải thích mọi hiện tượng trong đời sống tính dục. Theo đó nam là dương, nữ là âm. Nếu âm dương không cân bằng, không hoà hợp thì con người sẽ phát sinh bệnh tật và tổn thọ. Ở Hy Lạp, La Mã trong các buổi lễ Tửu thần, người ta cúng Phallus –sinh thực khí nam.Cổ La Hy có nhiều tượng trần truồng của nam và nữ, phần lớn được tô điểm lên nét vẽ và được nhìn nhận là tuyệt tác phẩm nghệ thuật. Theo Mác bản chất con người vừa là con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên vừa là một thực thể xã hội “con người là tổng hoà của các quan hệ xã hội”. Con người và con vật đều có những nhu cầu như ăn uống, tình dục nhưng con người khác con vật ở chỗ con vật hoạt động theo bản năng, con người hành động theo ý thức. Chính mặt xã hội của con người đã làm cho sinh vật trong con người phát triển ở trình độ cao hơn những động vật khác. Hoạt động dục tính của con người không chỉ để thỏa mãn nhu cầu dục tính ở con người mà còn gắn liền với đạo đức, văn hóa, xã hội, đặc biệt là gắn liền với tình yêu. Tình yêu làm cho khát vọng dục tính thăng hoa và khát vọng thỏa mãn nhu cầu dục tính làm cho tình yêu sâu sắc hơn. Dục tính không chỉ đem đến cho hai cá thể sự thỏa mãn về thể xác mà còn là 19 thỏa mãn về tinh thần. Sự bồi đắp cho nhau trong những giây vẫy gọi mang đến bản tình ca và vẻ đẹp viên mãn. Dục tính chính là sự thăng hoa của những xúc cảm thẩm mỹ, đầy nhân tính: tình yêu, khát vọng, cội nguồn của sự sống, một hành vi bản năng, được nhìn nhận như là sự khơi nguồn, khởi đầu cho tình yêu và những cảm xúc nhân tính của con người. Dục tính là bản năng sinh lý tự nhiên của con người, là một trong tứ khoái của người bình dân. Mạnh Tử cũng đã từng khẳng định: “Thực sắc, tính dã” (Ham ăn uống và sắc đẹp là bản tính của con người). Tuy nhiên, không phải bao giờ nhu cầu dục tính của con người cũng được thỏa mãn. Khi những tiết chế về đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội không cho phép con người được đáp ứng nhu cầu dục tính thì lúc đó xuất hiện những ẩn ức dồn nén trong tâm thức con người. Theo Freud: bản năng con người không thể mất, không thể bị tiêu diệt dù bị áp lực của môi trường văn hoá, lễ giáo đạo đức… Chúng chỉ bị dồn nén vào tiềm thức, đến khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ bùng phát. Nghĩa là chúng không thể bị triệt tiêu, chỉ ẩn náu dưới một hình thức. Xã hội phong kiến quá nhấn mạnh kìm hãm, bó buộc, ẩn dấu dục tính cho nên dẫn đến nhiều sai lầm. Cấm đoán và dục vọng đều tồn tại song song trong con người. Khi nào sự cấm đoán mạnh xuất hiện thì dục vọng chỉ bị lấn lướt chứ không bị gạt bỏ hoàn toàn. Kết quả của sự cấm đoán chỉ trấn áp dục vọng và đẩy nó xuống vô thức. Và lúc gặp điều kiện thuận lợi nó lại “đâm trồi nảy lộc”.Và một trong những cách để con người giải thoát khỏi ẩn ức dục tính chính là việc con người hướng tới sáng tạo nghệ thuật.Vì thế trong nhiều tác phẩm nghệ thuật hội họa, điêu khắc, văn học… chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy trong đó những ẩn ức dục tính được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau. 1.1.2 Dục tính trong văn hóa cổ trung đại Khi nói về dục tính, tình dục, người ta thường nghĩ đến đó là chuyện xác thịt, chuyện thuộc về mặt sinh học của con người. Tuy nhiên, theo các nhà xã hội học thì tình dục cũng mang tính xã hội và tâm lý, thay đổi tùy theo do sự kiến tạo xã hội và trải nghiệm cá nhân. Tình dục chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các giá trị văn hóa và truyền thống. Ở mỗi cộng đồng, quốc gia, mỗi nhóm xã hội, mỗi con người ở những 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan