Tiểu luận –Luật Tục người Mường
TIỂU LUẬN LUẬT TỤC
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU MỘT VÀI LUẬT TỤC CỦA
NGƯỜI MƯỜNG
1
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
MỤC LỤC
I.Vài nét sơ lược về cuộc sống người Mường
Lời mở đầu
1. Dân số
2. Cư trú
3. Đặc điểm kinh tế
4. Hôn nhân gia đình
5. Văn hóa
6.Nhà cửa
7. Trang phục
II .Một Số tục lệ cơ bản của người Mường
1.Phong tục cưới hỏi
2.Tang lễ ma chay
3.Phong Tục lễ tế của người mường
4.Tục hát Xec-Bùa của người Mường
III. Kết luận
Lời mở đầu
2
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
Mường là một dân tộc khá đông ở đất nước ta.
Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như
ngày nay. Và đương nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng
danh từ này làm tên gọi cho dân tộc mình. Theo Trần Từ (tức Nguyễn
Đức Từ Chi), Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của đồng bào bao
gồm nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà Lang.
Qua sự tiếp xúc giao lưu giữa người Mường và người Kinh, người Kinh
đã sử dụng từ Mường để gọi dân tộc này. Cho đến tận bây giờ, Người
Mường vẫn từ gọi mình là mol, moăn như ở Hoà Bình, Mon, mwanl như
ở Thanh Hoá. Còn ở Phú Thọ, đặc biệt là ở Thanh Sơn, nơi Người
Mường tập trung đông đảo nhất cũng như Người Mường ở huyện Yên
Lập và một số xã thuộc huyện Thanh Thuỷ đồng bào tự gọi mình là Mol,
Monl. Mặc dù những từ này có biến âm hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa
phương nhưng đều quan niệm giống nhau về mặt nghĩa. Tất cả những từ
mà đồng bào dùng để chỉ dân tộc mình có nghĩa là người. Vì lẽ đó mà
người Mường thường tự xưng mình là con Mol hoặc là con monl: con
người. Còn từ Mường vốn là từ mương đồng bào dùng để chỉ nơi cư trú
chứ không liên quan gì đến tộc danh ngày nay của mình. Mặc dù vậy
cùng sự biến động của lịch sử cũng như quá trình giao lưu kinh tế, văn
hoá với các dân tộc anh em khác cho đến nay “Mường” đã được đồng bào
chấp nhận và coi đó là tộc danh của mình, và hiển nhiên, họ tự nhận mình
là người Mường như ngày nay. Do đó, Mường đã trở thành tên gọi chính
thức và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác.
Tộc danh Mường đã được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu và
nhân dân dùng khi tìm hiểu, nghiên cứu gọi dân tộc này: Người Mường.
Người Mường còn có tên gọi khác là:Mol, Mual, Moi, Moi bi, Au tá, Ao
tá. Thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường.
3
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
I.Vài nét sơ lược về cuộc sống người Mường
1. Dân số
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê công bố năm 1989,
dân tộc Mường ở Việt Nam mới chỉ có 914.396 người nhưng 10
năm sau, tức năm 1999, vẫn theo kết quả điều tra dân số của Tổng
cục Thống kê công bố, người Mường đã tăng lên 1.137.515 người,
chỉ sau các dân tộc Kinh, Tày, Thái, Hoa, Khơme.
2. Cư trú
Dân tộc này cư trú ở nhiều tỉnh phía Bắc, nhưng tập trung đông
nhất ở Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.
3. Đặc điểm kinh tế
Đồng bào Mường
4
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
sống định canh định cư ở miền núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần
đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mường làm
ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Trước đây,
đồng bào trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực
ăn hàng ngày.
Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mường là khai thác
lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật
ong, gỗ, tre, nứa, mây, song... Nghề thủ công tiêu biểu của người
Mường là dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ
công với kỹ nghệ khá tinh xảo.
4. Văn hóa
Đồng bào Mường có nhiều ngày hội quanh năm: Hội xuống đồng
5
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
(Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng7, 8 âm
lịch) lễ cơm mới...
(Hội xuống đồng)
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khà phong phú, có
các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ.
Người Mường còn có hát ru em, đồng giao, hát đập hoa, hát đố, hát
trẻ con chơi... Cồng là nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Mường, ngoài
ra còn nhị, sáo trống, khèn lù. Người Mường ở Vĩnh Phú còn dùng
ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm
thanh để thưởng thức gọi là "đâm đuống".
5. Nhà cửa
Nhà người Mường có những
đặc điểm riêng :nhà thường
6
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
ba gian hai chái. Bộ khung với vì kèo kết cấu đơn giản. Đặc trưng ở cái
kèo có pà wặc (cái cựa) đè lên cây đòn tay cái để đỡ kèo khỏi bị tụt. Nhà
có chái nhưng không có vì kèo chái như nhà người Việt. Chỗ dựa của bộ
xương mái là nhờ vào hai cây pắp cal và một cây léo hè, đầu gác lên
thanh giằng hai kèo gần chỏm kèo.
Mặt bằng sinh hoạt có điểm giống nhà người Việt: nhà cũng có qui định
có tính ước lệ: Nếu chia nhà theo chiều ngang: phần nhà dành cho sinh
hoạt của nữ gọi là "bên trong". Phần dành cho sinh hoạt của nam giới gọi
là "bên ngoài". Và, nếu chia nhà theo chiều dọc, nửa nhà phía sau (nơi đặt
bàn thờ tổ tiên) gọi là "bên trên".
Còn nửa kia gọi là "bên dưới". Một
đặc trưng nữa là hình thức cấu tạo
của bếp: bếp được đặt trong một
cái khung gỗ hình chữ nhật. Bống
góc của cái khung này dựng bốn
cột làm giá đỡ các dàn (dựa) bếp.
một trong hai cột giáp vách bao giờ cũng buộc một cái chum nhỏ để đựng
mẻ (người Mường rất ưa các món ăn có vị chua). Ghế đặt xung quanh nhà
bếp là ghế dài thấp chân. Trong khuôn viên thường có một miếu thổ thần,
quy mô nhỏ như một cái lều.
7
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
5. Trang phục
Mỗi dân tộc đềucó đặc trưng riêng trang phuc về tạo hình và phong
cách thẩm mỹ trên trang phục. trang phuc của người Mường cũng
có những nét độc đáo riêng của nó
+ Trang phục nam
Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc
thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông.
Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng
khăn thắt giữa bụng còn gọi là "khăn quần". Xưa có tục để tóc dài
búi tóc. Trong lễ hội
dùng áo lụa tím hoặc tơ
vàng, khăn màu tím
than, ngoài khoác đôi
áo chúng đen dài tới
gối, cái cúc nách và
sườn phải.
+ Trang phục nữ
áo mặc thường ngày có
tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân
ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc
trắng (về sau có thêm các màu khác không phải loại vải cổ truyền).
Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo
ngắn. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với phong cách không cầu
kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn
bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa
văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể. Đây là một phong cách trang trí
và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn ngữ và khu vực
láng giềng (Trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng văn
hóa Mường mà mặc thường ngày tương tự như họ) Nhóm Mường
8
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
Thanh Hóa có loại áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào
trong cạp váy và cao lên đến ngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp
váy gồm các bộ phận: rang trên, rang dưới, và cao. Trong dịp lễ,
Tết họ mang chiếc áo dài xẻ ngực thường không cài khoác ngoài
bộ trang phục thường nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được
hoa văn cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ
ngực thường mang theo chiếc yếm bên trong. Về cơ bản giống yếm
của phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn.
II .Một Số tục lệ cơ bản của người Mường
1.Phong tục cưới hỏi
Mỗi dân tộc có một phong tục, một nét văn hóa riêng trong nghi lễ hỏi –
cưới. Đám cưới của người Mường ở Ao Luông (Văn Chấn, Yên Bái)
cũng có những điểm độc đáo khác biệt, mang đậm nét văn hóa đặc trưng
của họ. Người Mường rất tôn trọng sự tự nguyện trong việc dựng vợ gả
chồng cho con cái.
Trước đây người Mường Ao Luông có phong tục cưới xin rất phức tạp,
nhiều nghi lễ. Việc hôn nhân của con cái được quan niệm là do “cha mẹ
đặt đâu, con ngồi đấy”, bố mẹ ưng ý thì con cái phải thuận theo bố mẹ.
Ngày nay, việc cưới hỏi của người Mường đã giảm bớt phép tắc, đã được
tự do yêu đương, tự do tìm hiểu.
Lễ hội Nàng Han tổ chức hàng năm từ ngày
5/5 đến hết tháng 3 âm lịch cũng là dịp để
trai gái tìm hiểu lẫn nhau. Khi đã tìm hiểu
9
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
kỹ thì báo với hai bên cha mẹ để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho một
đám cưới. Lúc này, nhà trai sẽ tìm một ông mối, nhà gái tìm một bà mối
đến để đôi bên gia đình nói chuyện, đối đáp với nhau. Người Mường Ao
Luông cũng có quan niệm giống người Kinh về những điều kiêng kỵ
trong hôn nhân, đó là những người cùng họ tộc không được lấy nhau,
phải cách nhau ít nhất là 3 đời.
Khi sang nhà gái dạm hỏi, ông mối phải mang theo 12 chiếc bánh sừng
bò (bánh gói bằng lá cây chít), một chai rượu gạo nếp, đặt trước với bố
mẹ cô gái để thưa chuyện. Bố mẹ cô gái nếu đồng ý thì nhận và làm một
bữa cơm chiêu đãi ông mối rồi nhà gái treo 12 chiếc bánh lên cột nhà gần
khu bếp 3 ngày 3 đêm.
Trong khoảng thời gian 3 ngày 3 đêm đó nếu có con chim cú mèo kêu thì
đó là điềm báo không tốt, trai gái hai nhà không nên lấy nhau. Ngược lại,
nếu không có cú mèo kêu thì là điềm tốt, sau 3 ngày nhà gái sẽ gọi ông
mối nhà trai đến, mang rượu ra uống và đồng ý gả con gái.
Lễ dạm hỏi của người Mường Ao Luông trước kia thông thường phải trải
qua 5 lần đi lại:
Lần 1: Nhà trai mang 1 chai rượu, buồng cau, lá trầu, chè khô.
Lần 2: Khi nhà gái nhận lời thì mang bánh chưng, rượu, chè khô.
Lần 3: Mang theo bánh dày, 2 chai rượu, 1 buồng cau, chè khô.
Lần 4: Nhà trai mang đến bánh dày và rượu.
Lần 5: Nhà trai mang đến cau, trầu, bánh dày và rượu và đây là lần
nhà trai chính thức xin ngày ăn hỏi.
Theo thời gian, việc cưới xin của người Mường đã đơn giản hơn rất
nhiều, nhà trai sau khi đến nhà gái thưa chuyện nếu được nhà gái đồng ý
thì về chuẩn bị lễ ăn hỏi với các lễ vật thông thường như: rượu, thịt, tiền
mặt sau đó chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức đám cưới.
Cô dâu khi về nhà chồng thường có một số của hồi môn do chính tay
mình làm như: chăn, chiếu, gối, đệm tặng những người già, bố, mẹ, anh,
10
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
chị, em ruột bên nhà trai. Cô dâu mới được gia đình nhà chồng nhận xét
đánh giá là đảm đang, ngoan hiền hay không phụ thuộc vào số của hồi
môn mà cô mang theo, bởi vì để làm được số của hồi môn trên thì từ lúc
12 – 13 tuổi cô dâu đã phải chuẩn bị các vật dụng để làm.
Tục hôn nhân của dân tộc Mường xưa nay tồn tại hai hình thức là đón dâu
về ở hẳn nhà chồng và tục lấy rể (tục lấy rể thường là ở những gia đình
thiếu con trai). Tục ở rể thì trước đây nhà trai phải chủ động sắm lễ để ra
mắt chàng rể tại bên nhà gái. Theo quy ước thì lễ ra mắt gồm có các lễ vật
đó là: 4 thúng gạo nếp, 1 buồng cau, 40 chai rượu, một bó trầu, 2 tạ lợn,
chọn khoảng 20 – 30 người thanh niên chưa vợ để khiêng các đồ lễ vật
sang nhà gái.
Đồng bào Mường có tục chăng dây khi nhà trai đến cổng nhà gái hoặc có
hai người canh cửa không mở, bao giờ nhà trai cho tiền họ mới mở cửa.
Khi cửa mở đi đầu sẽ là một cô gái đại diện cho họ nhà trai đội 1 mâm
xôi có hai con gà trống thiến đã mổ và luộc chín. Gà trên mâm phải có
cựa nếu không con gà đó sẽ không có ý nghĩa gì và nhà gái căn cứ vào đó
sẽ không đón tiếp nhà trai.
Cho đến khi ông mối đưa được chàng rể vào trong nhà sàn là mọi thử
thách nhà gái đặt ra với chàng rể đã hết. Ông mối hết trách nhiệm và giao
quyền cho ông bố rể mượn (nhà trai nhờ một người đàn ông khoảng 55
tuổi trở lên làm bố rể mượn để nói chuyện với nhà gái). Lúc này, ông bố
rể mượn giữ vai trò quan trọng trong việc giao tiếp chính với nhà gái và
dắt chàng rể đến bàn thờ tổ tiên để lạy.
Tiếp đến ông bố rể mượn dắt chú rể đi giới thiệu với từng người bên họ
nhà gái, tuỳ theo họ gần hay họ xa mà chú rể phải lạy như thế nào, việc đi
lạy từng người có ý nghĩa là chú rể cảm ơn đã nuôi nàng dâu trưởng
thành, thông minh, khoẻ mạnh, chăm chỉ làm ăn, hiếu thảo với cha mẹ.
Khi chú rể đi lạy mọi người xong, các mâm cỗ cũng được bày ra, mọi
người ngồi vào mâm ổn định. Ông bố rể lại dắt con rể đi chào từng mâm
11
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
một sau đó mới được ngồi vào ăn. Trước kia ở nhà gái còn có tục chuẩn
bị 2 hũ rượu cần, ông mối xin phép nhà gái làm lễ khấn rượu, khi ông mối
làm lệ này nhà gái đứng một bên, nhà trai đứng một bên để đáp lời. Sau
đó, mọi người chung vui và uống rượu mừng cho cô dâu, chú rể sống
hạnh phúc, đông con và mừng cho 2 gia đình đã có thêm được dâu hiền,
rể thảo.
Khi đoàn đón dâu về đến nhà trai, dừng ở cách chân cầu thang khoảng 3
mét, tại đó đã đặt sẵn một chiếc nồi đồng đựng nước sạch, kê nhiều hòn
đá hoặc đặt thanh ván sạch nối đến chân cầu thang, sau khi rửa sạch chân
mọi người mới được bước lên nhà sàn. Lúc này, bà mối bên nhà gái dẫn
dâu đến lạy trước bàn thờ tổ tiên, lạy họ hàng nhà trai, tất cả khách đều
được mời lên nhà và ngồi theo thứ tự. Khi làm hết mọi thủ tục, mọi người
cùng ngồi vào ăn cơm, uống rượu. Trong cỗ cưới của người Mường tuyệt
đối không có tiết canh, đó là điều tối kỵ.
Đêm đó, tại nhà trai sẽ diễn ra tiệc hát đối, hát ví, họ dành cho nhau
những lời chúc tụng rất vui vẻ. Trong đêm đó còn diễn ra tục lệ cô dâu
mới vái lạy vua bếp để cầu vua bếp phù hộ cho mình trong công việc nội
trợ phục vụ gia đình nhà chồng được chu đáo.
Người Mường ở Ao Luông cũng có tục lại mặt giống như dân tộc Kinh,
sau 3 ngày 3 đêm chú rể đưa cô dâu về nhà mẹ đẻ để làm lễ lại mặt. Lễ
vật gồm có 1 đôi gà, 1 coóng cơm nếp, 2 chai rượu, trầu cau. Sau đó, buổi
chiều chú rể lại đưa cô dâu trở lại nhà mình, vào đêm thứ 4 ở nhà trai đôi
trai gái mới cưới đó mới chính thức động phòng.
Hiện nay đám cưới chỉ diễn ra đơn giản theo các bước: dạm hỏi, lễ ăn hỏi
và lễ cưới đón dâu. Nhiều gia đình đã tổ chức đám cưới theo nếp sống
mới, đơn giản, ít rườm rà nhưng vẫn lưu giữ được một số phong tục
truyền thống của dân tộc Mường, góp phần làm giàu vốn văn hóa của đất
nước ta.
12
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
2.Tang lễ ma chay
Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung
cửa sổ gian thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết
được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo
phong tục rồi để vào trong quan tài làm
bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ
áo
vẩy
rồng
bằng
vải.
Tang lễ do thày mo chủ trì. Hình thức
chịu tang của con cái trong nhà không
khác so với người Kinh, tuy nhiên con dâu, cháu dâu chịu tang ông bà,
cha mẹ còn có bộ trang phục riêng gọi là bộ quạt ma.
Khi người con trai trong gia đình ấy chống gậy tre thì gia đình ấy có bố
chết, nếu chống gậy gỗ thì gia đình có mẹ mất.
Tang lễ cổ truyền của người Mường Bi có thể là một hệ thống các nghi lễ
diễn ra trong 12 ngày đêm. Tất cả các nghi lễ đó nhằm mục đích làm cho
linh hồn người quá cố đoạn tuyệt với thế giới người sống và gia nhập với
thế giới người chết.
Mường Bi là một trong bốn vùng lớn của tỉnh Hòa Bình, Bi – Vang –
Thàng – Động. Cũng như người Mường ở nhiều nơi khác, người mường
Bi trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc đã xây
dựng, bồi tích một nền văn hóa cổ truyền đồ sộ rất đáng tự hào.
Trong đó, Nghi lễ Mo là một trong những sinh hoạt và hiện tượng văn
hóa có tính đặc sắc trong đời sống tinh thần của người Mường. Hội tụ
nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian, nhiều nghi lễ, phong tục tập
quán và qua đó phản ánh tín ngưỡng dân gian của người Mường. Đến
nay, nghi lễ Mo vẫn chiếm một vị trí và đóng vai trò quan trọng trong đời
sống tinh thần của người Mường
13
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
Ở mường Bi, nghi lễ tang ma là một nghi lễ tối quan trọng của một đời
người. Phải làm hàng loạt các thủ tục để đoạn tuyệt với thế giới người
sống và gia nhập vào thế giới người chết. Mo kiện trong tang lễ cổ truyền
cũng là một điển hình về sự sáng tạo trong mo Mường. Mo kiện là một
áng mo quan trọng của hệ thống nghi lễ tang ma Mường cổ truyền
Tang lễ cổ truyền của người mường Bi có thể nói là một hệ thống các
nghi lễ diễn ra trong 12 ngày đêm. Tất cả các nghi lễ đó nhằm mục đích
làm cho linh hồn người quá cố đoạn tuyệt với thế giới người sống và gia
nhập với thế giới người chết. Lí do chỉ đơn giản vậy thôi nhưng bao gồm
nhiều lễ thức chứa đựng trong đó nhiều sinh hoạt văn hóa có giá trị tinh
thần cao, có lẽ vì vậy mà nhà nghiên cứu văn hóa dân gian – cố Thạc sĩ
Tô Đông Hải đã nhận xét: “Đám hiếu ở mường Bi – điểm hội tụ của văn
hóa dân gian mang tính nhân bản sâu sắc”.
Một việc quan trọng nhất của tang lễ ở mường Bi là phải dẫn dắt điều
khiển được linh hồn người quá cố thực hiện các thủ tục của tang lễ.
Người mường Bi có quan niệm rằng: khi con người mất đi, lúc chưa làm
đám tang và trong lúc làm đám tang họ không còn là người trần và cũng
chưa phải là ma; tuy nhiên, họ có những sức mạnh linh thiêng mà người
trần không thể điều khiển hay cầu xin nổi. Việc làm cho linh hồn người
quá cố làm sao phải nghe theo để thực hiện những nghi lễ của tang ma chỉ
có thể là ông mo cậy nhờ vào quyền năng của “nổ” mới có thể làm được
việc đó, vì vậy ông Mo được coi là linh hồn của đám tang ở mường Bi.
Một nghi lễ quan trọng để bắt linh hồn nghe theo ông Mo gọi là lễ Đạp
ma hay còn gọi là lễ Dậm bước. Lễ Đạp ma được tiến hành như sau: Sau
khi mo bài mo Thiển Thẳn (Bài mo kể về sức mạnh của ông mo và sức
mạnh của túi Khót), ông mo không dừng lại mà mo tiếp đoạn mo Đạp ma.
Hành động đạp như sau: Ông Mo mo đoạn mo trên ở vị trí cạnh chỗ nằm
của người quá cố trong tư thế tay phải giữ chiếc gươm vác trên vai, tay
trái cầm quạt phe phẩy ngang trên bụng mình, chân đứng như bình
14
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
thường nhưng ngón chân cái của bàn chân phải đeo một chiếc vòng chuôi
dao. Khi chấm dứt đoạn mo trên ông hú một tiếng, gọi tên người quá cố
một lần rồi co chân phải lên dậm mạnh xuống sàn nhà rồi lấy gót chân
phải làm tâm điểm, xoay bàn chân phải chếch sang khoảng 60º – 70º.
Sau lễ đạp ma thì linh hồn người quá cố tuân thủ theo sự dẫn dắt điều
khiển của ông Mo để thụ lễ
Trong mười hai ngày đêm của nghi lễ, mỗi một bữa trưa và bữa chiều của
từng ngày đều có lễ dâng ăn uống
Việc mo trong tang lễ thực chất là nhằm thuyết phục, hướng dẫn linh hồn
người chết “thực thi” các nghi lễ như vừa kể trên hoàn toàn bằng lời mo.
Nếu như mo sai, thì hồn không thể “thực thi” được nghi lễ, như thế sẽ
không hoàn tất được các thủ tục, sẽ rơi vào tình trạng luẩn quẩn. Hồn
không thể đoạn tuyệt với thế giới người sống mà cũng không thể gia nhập
vào thế giới người chết. Người ta sợ trong hoàn cảnh dở dang ấy linh hồn
người chết sẽ quay về quấy phá hành tội con cháu trong nhà
Và điểm nổi bật nhất trong nghi thức tang ma người Mường là qua những
nghi thức đó, người Mường muốn những thế hệ tiếp nối của cộng đồng
vượt qua những tổn thất do một thành viên của cộng đồng đã phải ra đi
vĩnh viễn thêm gắn bó với quê hương đất nước và gìn giữ những kỉ
cương, tập tục đã giúp cộng đồng trường tồn và phát triển
3.Phong Tục lễ tế của người mường
Người Mường rất coi trọng đền thờ Thành Hoàng làng. Việc đầu tiên mà
các cụ già trong làng nhắc con cháu phải làm trước Tết là ra đền để dọn
dẹp, lau rửa sạch sẽ đồ thờ cúng. Giáp Tết, nhà nào cũng tất bật làm bánh
dầy, bánh chưng, đóng oản và trang trí nhà cửa Người Mường xưa, đặc
biệt là người Mường Kỳ Lão, không ăn Tết ông Công, ông Táo như
người Việt, vì thế Tết bắt đầu từ ngày 27, 28. Đêm 30, tức ngày "chín cối
tháng ba" theo lịch của người Mường, tất cả con cháu sẽ tụ tập ở đền thờ
15
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
để làm lễ "khai sáng". Lễ này được cúng cả bằng lễ chay và bằng lễ mặn.
Lễ chay gồm các loại hoa quả trong vườn, càng nhiều càng tốt, để tổ tiên,
thánh thần phù hộ cho
mùa xuân mới nhiều
lộc, hoa, trái. Lễ mặn
gồm oản, gà, thịt, bánh
dầy, bánh chưng. Trước
đây, ngày Tết người
Mường chỉ ăn thịt lợn,
thịt gà chứ không có
giò,chả, mọc như người
Kinh. Đến thời điểm sang canh thì con cháu tất cả phải ở phía ngoài đền,
chỉ có ông Trùm, ông Seo và những người già trong bản mới được vào
đền làm lễ. Sau khi lễ ở đền, mọi người ai về nhà nấy đón giao thừa. Một
thủ tục không thể thiếu trong đêm giao thừa của người Mường đó là một
lễ cúng ngoài trời gồm một con cá diếc và một cái bánh chay. Sáng ra, lễ
này được mang cho con trâu ăn trước, vì họ cũng quan niệm như người
Kinh - "con trâu là đầu cơ nghiệp", cho con trâu ăn trước để con trâu đi
làm
Với người Mường, việc thờ cúng ngoài trời rất quan trọng nên trong
những ngày Tết nhà ai cũng chuẩn bị cho mỗi thành viên trong gia đình
một cây hương để cúng bản mệnh ngoài trời. Món ăn trong ngày Tết của
người Mường từ xưa đến nay không bao giờ thiếu bánh chưng và bánh
dầy để biểu hiện trời tròn, đất vuông và cũng là để tưởng nhớ đến ông vua
của người Mường là Vua Lang. Gia đình nhà nào thờ cúng bao nhiêu
người thì làm bao nhiêu cái bánh chưng. Trong ba ngày Tết, người ta chỉ
tết cha, tết mẹ và tết thầy cúng - những người quan trọng nhất trong quan
niệm của họTrong những ngày Tết, nếu chưa được sự cho phép của ông
Trùm thì không ai được phép ra đồng làm việc. Đến ngày 7 tháng Giêng
16
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
là ngày lễ lớn nhất của người Mường, đây là lễ hội "mở mắt cồng, mắt
lệnh", lễ hội "xuống đồng". Từ 5 giờ sáng, người dân trong bản tập trung
tại phủ thờ Thành Hoàng. Theo phong tục của người Mường thì trước khi
mở hội Cồng Chiêng, làng phải có một thủ tục làm mâm lễ trình với các
vị Thánh trong làng. Mâm lễ bắt buộc phải có một con lợn "non 5 già 3"
để làm cỗ vành 3-5-7-9 tính từ trong ra. Mở đầu lễ hội Cồng Chiêng, ông
Trùm sẽ có lời trình báo với dân làng rằng: "Lang co le chao khoan". Sau
đó ông Trùm sẽ đánh ba hồi chiêng đầu, sau đó con chá mới được bước
vào phủ để làm lễ, và tiếng chiêng kết thúc cũng là lúc kết thúc phần lễ
ngày hôm đó... Trong những ngày Tết, nếu chưa được sự cho phép của
ông Trùm thì không ai được phép ra đồng làm việc. Đến ngày 7 tháng
Giêng là ngày lễ lớn nhất của người Mường, đây là lễ hội "mở mắt cồng,
mắt lệnh", lễ hội "xuống đồng". Từ 5 giờ sáng, người dân trong bản tập
trung tại phủ thờ Thành Hoàng. Theo phong tục của người Mường thì
trước khi mở hội Cồng Chiêng, làng phải có một thủ tục làm mâm lễ trình
với các vị Thánh trong làng. Mâm lễ bắt buộc phải có một con lợn "non 5
già 3" để làm cỗ vành 3-5-7-9 tính từ trong ra. Mở đầu lễ hội Cồng
Chiêng, ông Trùm sẽ có lời trình báo với dân làng rằng: "Lang co le chao
khoan". Sau đó ông Trùm sẽ đánh ba hồi chiêng đầu, sau đó con chá mới
được bước vào phủ để làm lễ, và tiếng chiêng kết thúc cũng là lúc kết
thúc phần lễ ngày hôm đó... Ngày nay, phong tục lễ của người Mường
cũng có nhiều thay đổi. Ở nhiều nơi họ cũng bắt đầu ăn Tết 23 tháng
Chạp, cũng mua cá về nhà để thả, việc thờ cúng cũng gọn nhẹ hơn. Nhiều
trò chơi dân gian vẫn được tổ chức nhưng cũng có thêm các trò chơi hiện
đại thu hút nhiều người tham gia. Ngày nay, phong tục lễ của người
Mường cũng có nhiều thay đổi. Ở nhiều nơi họ cũng bắt đầu ăn Tết 23
tháng Chạp, cũng mua cá về nhà để thả, việc thờ cúng cũng gọn nhẹ hơn.
Nhiều trò chơi dân gian vẫn được tổ chức nhưng cũng có thêm các trò
chơi hiện đại thu hút nhiều người tham gia.
17
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
Tục hát Xec-Bùa của người Mường
Tục hát này thường được hát vào các dịp lễ, tết. tuy cũng thuộc
phạm trù những bài ca nghi lễ - phong tục nhưng những bài hát chúc
mừng (trong đó có tục hát Xéc Bùa( của người Mường có những nét
riêng cả về chức năng sinh hoạt cũng như phong cách nghệ thuật rất
đáng chú ý.
Các bài hát chúc mừng nói chung và hát Xéc Bùa nói riêng thường đóng
vai trò cầu chúc, chào mừng đúng như tên gọi của nó. Và vì thế, những
bài ca như thế này thường mang phong cách ngợi ca với những giọng
điệu, ngôn từ chứa đựng nhiều nét lạc quan, vui tươi.
Tục hát Xéc Bùa của người Mường phần lớn được hát trong không khí
hội hè vui chơi, nhất là dịp lễ, tết. Cả phường bùa, ít thì năm - sáu người,
nhiều thì có đến vài chục người, tay xách cồng vừa đi vừa đánh, kéo đến
một gia chủ nào đó hát mừng. Người hát chúc mừng chủ nhà giàu sang:
"Cột hiên chạm đuôi con phượng
Má vòng chạm đuôi con gà
Cửa con chạm ra hình da kỳ lân"
Đồng thời, họ cũng ngợi ca cả cảnh làm ăn giàu có, sung túc của gia chủ:
"Gió đánh xào xạc nhường áo lụa phơi trước nhà
Thấy trâu cùng bò buộc đầy sân
Đàn vịt, đàn gà râm ran dưới khướng"
hay:
18
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
"Đụn lúa nếp nhà ông ăn đến tháng năm
Đụn lúa cham nhà ông ăn đến tháng mười”
Người hát xéc bùa thường xuất hiện như những nhân vật trực tiếp đóng
góp phần vui của mình vào ngày hội mùa xuân. Có khi lời ca được mô
phỏng theo âm thanh của nhạc cồng mà họ đang đệm nhịp:
“Tam... tam… từ đâu tam đến
Tam từ bên suối tam sang…"
Cái vui chạy suốt cả bãi Xéc Bùa, cho đến khi những lời hát kết thúc vui
vẻ; hoặc thông qua nội dung lời ca mà phản ánh những tục lệ ngày tết như
tục mời trầu:
"Miếng trầu thon thon
Bày lên đĩa tròn đặt lên mâm thau vàng chạm
Đem sang mời
Đám bùa chúng tôi đón lấy
Ăn miếng trầu đỏ môi”
Bây giờ, tục hát Xéc Bùa không chỉ dành cho ngày xuân, ngày tết mà còn
trong những ngày hội vui. Tục hát Xéc Bùa được đồng bào Mường thể
hiện với những nét vẻ văn hoá độc đáo. Hát Xéc Bùa bộc lộ tâm lý tình
cảm vui tươi sôi nổi, hồn nhiên của những người nghệ sĩ dân gian. Những
yếu tố trữ tình, tự sự và diễn xướng nghi lễ đan cài vào nhau khá linh hoạt
tạo nên sắc thái đa dạng đầy hấp dẫn
KẾT LUẬN
19
Tiểu luận –Luật Tục người Mường
Luật tục của người Mường thể hiện rõ nét qua đời sống, lao động sản
xuất, mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên
nhiên và trong các lễ nghi tôn giáo. Người Mường rất coi trọng các mối
quan hệ này. Vậy nên, mỗi thành viên phải thực hiện nghiêm chỉnh quy
tắc tồn tại trong cộng đồng.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng hương ước của
bản, khu dân cư, v.v... đã giúp cho luật tục của người Mường được bảo
tồn, phát triển cho thế hệ các con cháu về sau. Luật tục của người Mường
rất phong phú, ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, điển hình là các
vấn đề quan hệ làng xóm, cưới xin, ma chay...vv.
Trong cưới xin được quy định rất cụ thể các bước cần thực hiện. Trước
khi cưới nam nữ phải đủ tuổi trưởng thành (nam phải 20 tuổi, nữ phải 18
tuổi), không được cùng dòng họ, đến với nhau hoàn toàn tự nguyện.
Người Mường rất tôn trọng sự tự nguyện trong việc dựng vợ gả chồng
cho con cái. Việc người con trai đến tuổi lập gia đình đi tìm hiểu bạn đời
của mình có thể đến nhà cô gái mà anh ta mến. Họ ngồi tâm sự ngay bên
bếp lửa nhà sàn cô gái (vào mùa đông) hoặc ngoài “chan” (một khoảng
sàn trước của nhà dùng vào việc phơi nông sản hoặc quần áo...v.v). Tuy
nhiên nếu chàng trai rủ cô gái ra khỏi nhà vào ban đêm lại là điều cấm kỵ,
bị coi là xấu. Ngoài ra người Mường ở Đá Đỏ, nơi bao quanh bởi lòng hồ
sông Đà còn có tục “táy dôông” (ngủ lại nhà bạn gái). Theo quan niệm
của người dân trong vùng thì đó là một điều bình thường khi đôi bạn đã
phải lòng nhau và đương nhiên gia đình cô gái cũng sẽ không ngăn cấm.
Tuy nhiên, trong hương ước mới của các bản trong vùng đã xoá bỏ tục lệ
này để phù hợp với xu thế hiện nay. Cưới xin của người Mường được
chia làm 3 lễ: lễ “ăn nòm” (giống chạm ngõ ở người Kinh), “ăn nàm cá”
(giống lễ ăn hỏi) và “xớc du” (đón dâu). Trước đây còn có thêm lễ “lai
nhaa”, tức con dâu ra mắt gia đình bố mẹ chồng chính thức. Trong cưới
20
- Xem thêm -