Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tìm hiểu công tác quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân tại xã tân tr...

Tài liệu Tìm hiểu công tác quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân tại xã tân trạch huyện bố trạch tỉnh quảng bình

.PDF
55
298
72

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Thực tập tốt nghiệp là giai đoạn quan trọng trong tiến trình học tập của mọi sinh viên, nhằm đánh giá, tổng hợp những kiến thức đã được truyền đạt trong quá trình học tập trên ghế nhà trường, đồng thời là cơ hội để mỗi người bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất và quản lý. Qua đó củng cố nâng cao năng lực làm việc của bản thân, tạo hành trang trước khi ra trường để bước vào môi trường công tác. Xuất phát từ những quan điểm đó, được sự nhất trí của Trường đại học Quảng Bình, Khoa Nông – Lâm – Ngư và nguyện vọng của bản thân, tôi đã về thực tập tại xã Tân Trạch – huyện Bố Trạch – tỉnh Quảng Bình để tiến hành thực hiện đề tài. “Tìm hiểu công tác quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân tại xã Tân Trạch- huyện Bố Trạch - tỉnh Quảng Bình.” Để hoàn thành đề tài này, trong suốt thời gian thực hiện tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô giáo trong khoa, các bạn bè, đồng nhiệp, đặc biệt là sự chỉ bảo, hướng dẫn chu đáo của cô giáo Nguyễn Thị Quỳnh Phương, cùng sự quan tâm của cán bộ xã Tân Trạch và sự tham gia nhiệt tình của người dân địa phương. Nhân dịp này cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về tất cả những giúp đở quý báu đó. Do hạn chế về mặt chuyên môn và thời gian nghiên cứu, nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót trong khi thực hiện đề tài này, bản thân tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của các thầy, cô giáo và các bạn bè đồng nghiệp để khóa luận của tôi được đầy đủ và hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Quảng Bình, ngày tháng năm 2017 Tác giả Phan Thành Đạt MỤC LỤC PHẦN 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1 1.1. Đặt vấn đề..................................................................................................... 1 1.2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 3 PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU. .......................................................... 4 2.1. Tình hình quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia trên thế giới. ....................... 4 2.2. Thực trạng công tác bảo vệ rừng những năm qua trên Việt Nam. ............... 10 PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. ........................................................................................ 20 3.1.Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 20 3.2. Phạm vi nghiên cứu. ..................................................................................... 20 3.3.Nội dung nghiên cứu ..................................................................................... 20 3.4. Phương pháp nghiên cứu. ............................................................................. 20 3.4.1. Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp ...................................................... 20 3.4.2. Phương pháp thu thập tài liêu sơ cấp . ...................................................... 20 3.4.3. Phương pháp xữ lý số liệu. ........................................................................ 21 PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN. ................................. 22 4.1. Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Tân Trạch. ................. 22 4.1.1. Điều kiện tự nhiên. .................................................................................... 22 4.1.1.1. Vị trí đía lý. ............................................................................................ 22 4.1.1.2. . Khí hậu ................................................................................................. 22 4.1.1.3. Địa hình. ................................................................................................. 23 4.1.1.4. Thủy văn. ................................................................................................ 23 4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội. ......................................................................... 24 4.1.2.1. Tình hình kinh tế .................................................................................... 24 4.1.2.2. Tình hình văn hóa - xã hội. .................................................................... 25 4.2. Thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân tại xã Tân Trạch........................................................................................................ 26 4.2.1. Công tác quản lý bảo vệ rừng trước khi giao đất lâm nghiệp ................... 26 4.2.2. Công tác quản lý bảo vệ rừng sau khi giao đất lâm nghiệp ...................... 27 4.2.3. Vai trò của các bên liên quan trong công tác quản lý bảo vệ rừng. .......... 29 4.2.4. Cơ chế chia sẽ lợi ích của người dân khi tham gia quản lý bảo vệ rừng. ............................................................................................................................. 32 4.2.4.1. Quyền hưởng lợi từ rừng của cộng đồng .............................................. 33 4.2.4.2. Nghĩa vụ của cộng đồng ........................................................................ 33 4.2.5. Giới thiệu các hình thức và tổ chức tham gia bảo vệ rừng tại xã Tân Trạch. ............................................................................................................................. 34 4.2.5.1. Xây dựng quy ước, hướng ước mơ bảo vệ rừng xóm ............................ 34 4.2.5.2.Triển khai ký cam kết không vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng ............................................................................................................................. 36 4.2.5.3. Xây dựng nội dung quy chế phối hợp cho các tổ chức tham gia bảo vệ rừng trên địa bàn.................................................................................................. 36 4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo vệ rừng trên địa bàn. .................................. 39 4.3.1. Các yếu tố bên trong.................................................................................. 39 4.3.2. Các yếu tố bên ngoài. ................................................................................ 41 4.4. Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức trong công tác bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân................................................................................... 42 4.4.1. Thuận lợi. .................................................................................................. 42 4.4.2. Khó khăn. .................................................................................................. 42 4.4.3. Cơ hội. ....................................................................................................... 43 4.4.4. Thách thức. ................................................................................................ 43 4.5. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân. ............................................................................................... 43 4.5.2. Giải pháp về chính sách ............................................................................ 43 4.5.1. Giải pháp về nguồn vốn ............................................................................ 44 4.5.3. Giải pháp về kỹ thuật ................................................................................ 45 Chương V: KẾT LUẬN, TỒN TẠI, KIẾN NGHỊ ............................................. 47 5.1. Kết luận ........................................................................................................ 47 5.3. Kiến nghị ...................................................................................................... 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 49 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Thống kê diện tích rừng cộng đồng theo vùng kinh tế - sinh thái Bảng 2.2. Kết quả quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã, giao đất giao rừng cho cộng đồng Bảng 2.3. Hình thức quản lý rừng cộng đồng của một số đồng bào dân tộc ít người vùng Miền núi phía Bắc Bảng 2.4. Diện tích rừng giao cho người dân ở các vùng thí điểm Bảng 2.5. Quản lý rừng có sự tham gia của người dân tại Thôn Páng, xã Phú Thanh, huyện Quan Hóa, Thanh Hóa Bảng 3.1: Những thông tin cơ bản của đối tượng điều tra Bảng 4.1. Bảng thực trạng sử dụng đất đai xã Tân Trạch. Bảng 4.2. Bảng hiện trạng sử dụng đất Lâm nghiệp trên địa bàn xã Tân TrạchBảng 4.3: Số liệu về công tác bảo vệ rừng 5 năm 2012-2016 Bảng 4.4. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các bên liên quan vào công tác bảo vệ rừng: Bảng 4.5. Lịch tuần tra của các tổ bảo vệ rừng tại xã Tân Trạch. DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ. Biểu đồ 2.1: Diện tích rừng toàn quốc phân theo chủ thể quản lý Hình 4.1. Bản đồ vị trị xã Tân Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT FAO : Tổ chức lương thực của Liên Hợp Quốc CN : Chi nhánh BVR : Bảo vệ rừng QSD : Quyền sử dụng BQL : Ban quản lý BCH : Ban chỉ huy PCCC : Phòng cháy chữa cháy PCCN : Phòng chống cháy nỗ UBND : Ủy ban nhân dân QLRCĐ: Quản lý rừng cộng đồng CBCNV : Cán bộ công nhân viên QLBVR : Quản lý bảo vệ rừng PCCCR : Phòng cháy chữa cháy rừng NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn TCHC&QLBV : Tổ chức hành chính và quản lý bảo vệ. PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề. Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí. Vấn đề quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện nay được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Một trong những đòi hỏi để thực hiện thành công nhiệm vụ này là phải có những cơ chế thích hợp thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư cũng như nâng cao chuyên môn, trách nhiệm của các tổ chức quản lý đặc biệt là các lâm trường Quốc doanh vào công tác quản lý, sử dụng tài nguyên rừng có hiệu quả và bền vững. Hiện nay việc quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng theo hình thức quản lý lâm nghiệp truyền thống đã ngày càng thể hiện rõ sự bất cập và không còn phù hợp trong điều kiện thực tế xã hội. Hình thức quản lý lâm nghiệp truyền thống đó có xuất phát điểm và chỉ phù hợp trong bối cảnh rừng còn nhiều, dân số ít, nhu cầu của con người đòi hỏi về lâm sản còn thấp hơn nhiều so với khả năng cug cấp của tự nhiên lúc này tác động của con người đến rừng không để lại những ảnh hưởng lớn tới môi trường, xã hội cũng như cảnh quan du lịch. Trong cách quản lý lâm nghiệp truyền thống việc bảo vệ rừng chỉ dựa vào lực lượng Nhà nước với các biện pháp luật hành chính và xử phạt. Với cách quản lý bảo vệ đó hậu quả là trong một thời gian rừng không được bảo vệ, phát triển mà còn bị tàn phá nghiêm trọng. Theo tài liệu của P.Maurand năm 1943 diện tich rừng nước ta có khoảng 14.300.000 ha với độ che phủ 43,8% diện tích cả nước vậy mà trong những thập kỷ vừa qua diện tích rừng và đất rừng có sự thay đổi theo chiều hướng xấu đi một cách nghiêm trọng. Theo số liệu mới nhất, hiện nay diện tích rừng tính đến năm 1999 là 10.884.469 ha với độ che phủ tương ứng là 33,31%.[2]. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm rừng trên, ngoài phương thức quản lý rừng chưa hớp lý còn kể thêm một số nguyên nhân chính sau: Do sự bùng nổ về dân số làm tăng khả năng nhu cầu về lương thực, chất đốt người dân phải phá rừng để làm nương rẩy, lấy đất canh tác. Dó tập quán du canh du cư đốt nương 1 làm nương rẫy của một số đồng bào các dân tộc sống gần rừng. Cháy rừng do nguyên nhân xã hội như các hoạt động du lịch, các phong tập tập quán của đồng bào dân tộc, các hoạt động thờ cúng của người dân ở trong rừng. Khai thác nhiều nguồn tài nguyên rừng để xuất khẩu, khai thác không đúng kỷ thuật, chất lượng rừng ngày càng suy giảm. Xã Tân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình là một xã có diện tích rừng lớn trực thuốc hạt Kiểm lâm Bố Trạch, nằm trong vùng lỏi của Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, có diện tích rừng tự nhiên là 36.231,60ha chủ yếu là rừng đặc dụng có 30.697,30ha. Các hình thức quản lý rừng trực tiếp của người dân đã có từ lâu. Truyền thống quản lý rừng của họ được thể hiện ở những tục lệ giữ rừng, trồng cây, xây dựng hương ước, quy ước, luật tục bảo vệ rừng, bảo vệ cây cối của nhiều làng xã. Về mặt pháp lý, “Cộng đồng dân cư thôn là toàn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương” (Điều 2, Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004). Do đó, để quản lý tài nguyên rừng một cách hiệu quả và bền vững, không thể bỏ qua việc phát huy vai trò của cộng đồng người dân sống gần rừng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, công tác phòng cháy, chữa cháy rừng... Phát huy vai trò tham gia của các cộng đồng trong việc quản lý nguồn tài nguyên này vừa mang ý nghĩa phát huy truyền thống dân tộc vừa có thể tạo ra cách quản lý rừng có hiệu quả và bền vững hơn. Nhưng cho đến nay đang phải đối diện với thách thức trữ lượng rừng tự nhiên ngày càng suy giảm nghiêm trọng. Một số nguyên nhân chủ yếu như là lực lượng Kiểm lâm còn mỏng, ít, lâm tặc hoạt động rất tinh vi nên hiệu quả QLBVR chưa cao; Việc giao rừng cho cộng đồng trên địa bàn xã còn nhiều vấn đề tồn tại trong tiến trình giao và QLBVR. Trong những năm qua, nhiều chương trình và dự án về nền lâm nghiệp có sự tham gia của nhiều thành phần của chính phủ, các tổ chức Quốc tế được thực hiện ở nhiều nơi trên đất nước ta với nhiều hoạt động và đã mang được những kết quả nhất định. Từ thực tiễn về xu hướng mới trong công tác bảo vệ rừng, từ nhận thức cá nhân để góp phần bổ sung và hoàn thiện những cơ sở lý luận và thực tiễn từ đó đề xuất các giải pháp khuyến khích sự tham gia của người dân và cộng đồng vào công tác bảo vệ. Bản thân tôi đã tiến hành nghiên cứu, thực hiện đề tài: “Tìm hiểu công tác quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân tại xã Tân Trạch- huyện Bố Trạch - tỉnh Quảng Bình.” 2 1.2. Mục đích nghiên cứu - Đề xuất những giải pháp nhằm khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào bảo vệ rừng. - Nâng cao nhận thức cho người dân về hiện trạng của mình, các vấn đề gây trản trở, các tiềm năng và cơ hội phát triển. - Huy động khả năng và nguồn lực của cộng đồng tham gia vào các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng. 3 PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU. 2.1. Tình hình quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia trên thế giới. Khi nói tới phát triển lâm nghiệp hiện nay, người ta bàn nhiều tới lâm nghiệp xã hội hay lâm nghiệp cộng đồng, là nền lâm nghiệp có sự tham gia của người dân. Cuối những năm 1970, khi các dự án lâm nghiệp xã hội thế hệ đầu được xác định và thiết lập, đã có quan tâm lớn đến việc xây dựng các đám rừng trồng chung. Hơn nữa, sự hiện diện của cái gọi là “đất xã” đã làm điểm xuất phát cho những dự án trồng lại rừng cho cả cộng đồng hay một nhóm người. Tuy nhiên, nhiều dự án lâm nghiệp tập thể ban đầu đã ít thành công, từ đó người ta đã tập trung vào khả năng phát triển các hệ thống quản lý rừng có sự tham gia của người dân [2]. Nhiều ví dụ về hệ thống quản lý tài nguyên rừng bản địa hoặc được đề xướng tại địa phương có thể tìm thấy ở Châu Á, những dạng hình quản lý rừng có sự tham gia của người dân được tổng hợp gồm: Quản lý rừng theo phương thức nương rẫy-bỏ hoá được tìm thấy nhiều ở Đông Nam Á; Quản lý rừng tại môi trường miền núi ở Nam Á như các hình thức quản lý rừng cổ truyền ở Nêpan, các khu rừng cấm ở gần Mount Merapi của Inđônêxia hay ở dãy núi Himachal Pradesh tại Ấn Độ...; Quản lý rừng trong một môi trường bán khô hạn ở Nam Á, người ta có thể thấy nhiều kiểu quản lý tài nguyên công cộng về rừng và cây như kiểu quản lý đất Gauchar ở Gujurat của Ấn Độ; Quản lý rừng gắn với nguồn nước thôn bản như rừng ở vùng Ifugao ở Philipin với việc đảm bảo việc cung cấp nước cho canh tác, phương thức trồng cây bên các bờ ao để hạn chế xói mòn tại nhiều vùng thấp Terai ở Nêpan; và cuối cùng là Quản lý các lùm cây thiêng và các hệ tương tự, tại nhiều xã hội ở Ấn Độ, Philippin và Thái Lan, nhân dân địa phương theo cổ truyền vẫn bảo vệ những đám rừng nhỏ gọi là những “lùm cây thiêng” để có chỗ ở cho các vị thần linh và linh hồn của địa phương, hoặc là các khu rừng cấm dưới sự giám sán của các tu viện, lăng tẩm, nghĩa địa nhưng được coi như là tài sản chung của thôn bản...[2]. Theo tài liệu tổng kết của REFAS (2005) thì xu hướng cơ bản hiện nay của ngành lâm nghiệp trên thế giới là xã hội hóa ngành lâm nghiệp là khá phổ biến, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Việc giao đất giao rừng cho các tổ chức tư nhân, cộng đồng và người dân quản lý ngày càng được tiến hành mạnh mẽ và bước đầu cho thấy những hiệu quả rõ rệt so với việc quản lý tập trung của Nhà 4 nước. Để hiểu rõ hơn chúng ta đi vào tìm hiểu tình hình quản lý rừng cộng đồng một số quốc gia đại diện như sau: * Ấn Độ: Trong những năm 1920, các nhà chức trách thuộc địa tại Ấn Độ đã thử đưa ra các hệ thống quản lý rừng địa phương mới. Tại bang Uttar Pradesh, người ta đã thành lập các “hội đồng rừng” địa phương đặc biệt (van panchayat) nhằm mục đích tạo ra một lớp đệm giữa rừng của nhà nước và dân làng địa phương. Hội đồng này có quyền đưa ra những quy tắc giải quyết các vấn đề sử dụng rừng chung của địa phương dựa trên những luật lệ được chính phủ ban hành [12]. Sau đó với sự hỗ trợ của những nhà tài trợ trong và ngoài nước, nhiều chính phủ ở các bang ở Ấn Độ đã bắt đầu xúc tiến các kế hoạch xây dựng lâm nghiệp xã hội thông qua những kế hoạch quản lý tài nguyên rừng công cộng. Và Ấn Độ trở thành một trong những nước đầu tiên thử nghiệm “lâm nghiệp xã hội” trong những năm 1970, tuy nhiên mục tiêu là không để cho người dân kiểm soát quá lớn nguồn tài nguyên rừng. Thay vào đó, lâm nghiệp xã hội tập trung vào việc thiết lập rừng cho cộng đồng sử dụng trên đất chưa có rừng để giải phóng những khu rừng hiện có cho khai thác thương mại. Tuy nhiên, với việc thử nghiệm lâm nghiệp xã hội khá sớm đã dẫn đến các cuộc xung đột ngày càng tăng giữa các cơ quan lâm nghiệp và người dân địa phương, khiến chính phủ phải đưa ra một chính sách mới nhấn mạnh việc quản lý rừng cho bảo tồn và nhu cầu của người dân. Điều này dẫn đến sự ra đời của chương trình quản lý rừng có sự tham gia (JFM), đây là chương trình nổi tiếng nhất trên toàn cầu được biết đến với hệ thống quản lý rừng dựa trên sự chia sẻ trách nhiệm và lợi ích giữa nhà nước và người dân địa phương [13]. Việc sửa đổi hiến pháp 73 và đạo luật 1992 cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó phân cấp những quyền hạn khác nhau liên quan đến việc thực thi những kế hoạch phát triển kinh tế và công bằng xã hội cho các tổ chức (PRIs), hoặc những hội đồng làng, những tổ chức mà có chức năng ở huyện, khối hay ở thôn. Ở đây có hình thức quản lý rừng theo nhóm người sử dụng gọi là CFUG Ghorlas, CFUG đại diện cho một loạt các nhóm xã hội mà chủ yếu là những người có cuộc sống gắn bó với sản xuất nông nghiệp. Các chính sách lâm nghiệp (1998) c ũng đã hỗ trợ nhiều cho sự tham gia của cộng đồng vào lâm nghiệp tại Ấn Độ. 5 Ở bang Andhra Pradesh, Ấn Độ hơn 250 tổ chức phi chính phủ đã chính thức tham gia vào việc thực hiện Doanh nghiệp Quản lý rừng và đã cải thiện được sự giao tiếp giữa chính phủ và người dân địa phương. Chương trình Lâm nghiệp cộng đồng ở Andhra Pradesh, xuất hiện khá thuận lợi với sự giám sát được thực hiện bởi một số uỷ ban bao gồm kiểm lâm, tổ chức phi chính phủ, người đứng đầu các panchayat và hiệu trưởng các trường làng [13]. *Nêpan: Cũng như Ấn Độ, Nêpan cũng đã có những sai sót trong việc thiết kế các chương trình lâm nghiệp cộng đồng, tuy nhiên đất nước này cũng đã rút ra được những bài học từ những sai sót đó và đã thực hiện những cải cách lớn để cải thiện hiệu quả của lâm nghiệp cộng đồng. Và xem LNCD như một công cụ trong việc bảo tồn nguồn tài nguyên rừng và phát triển nông thôn. Vào những năm 1970, Nêpan đã bắt đầu xem xét các chính sách về LNCD. Một chương trình LNCD chính thức được thành lập và các vùng đất bị suy thoái đã được giao cho Panchayats (Panchayats là đơn vị cơ bản của chính quyền ở Nêpan, nó có 3 cấp huyện, khối và thôn). Tuy nhiên thực tế là Panchayats không phải là một phân cấp đầy đủ quyền để đại diện cho lợi ích của cho người dân địa phương, người dân vẫn là nhóm bất lợi bị tách riêng ra. Do đó các chương trình LNCD được chuyển đến đơn vị hoạt động thấp hơn – các nhóm sử dụng rừng cộng đồng – và trao cho các nhóm này những quyền lực lớn hơn để thiết kế, quản lý và hưởng lợi từ rừng cộng đồng. Các nhóm này có quy mô quản lý từ 10 đến hàng trăm hecta rừng và đất rừng không phụ thuộc vào ví trí quản lý hành chính. Qua nhiều thử nghiệm nhóm sử dụng rừng (FUG) được xem là có hiệu quả nhất. Sau 25 năm thực hiện quản lý rừng có sự tham gia của người dân đã có 1,1 triệu hecta rừng, chiếm 25% diện tích quốc gia đã được giao cho nhóm hộ quản lý (Kanel, 2004) [13]. * Campuchia: Luật đất đai (2001) đã cộng nhận quyền sở hữu tập thể của người dân bản địa như là một yêu cầu đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên. Và sau đó chính sách ngành Lâm nghiệp thông qua vào năm 2002 của Campuchia đã xác định sự tham gia của người dân địa phương trong việc bảo tồn và quản lý rừng bền vững là một phần quan trọng của việc cải cách chính sách. Việc phân cấp chính sách đã tạo điều kiện hỗ trợ nhà nước cho lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ). Luật Rừng 6 (2002) đã mô tả các nhà tài trợ lâm nghiệp phải làm thế nào để vận hành và cho phép cộng đồng được cấp quyền sở hữu tập thể. Một điểm nhấn trong cách tiếp cận là sự nhấn mạnh khi mà Dự án Nghiên cứu Lâm nghiệp cộng đồng đã đặt sự tham gia của người dân địa phương vào việc lập kế hoạch, việc bầu ra những đại diện và đưa ra quyết định. Các làng được bầu ra một uỷ ban quản lý lâm nghiệp cộng đồng và đóng góp cho dự thảo quy định LNCĐ và sự thoả thuận quản lý LNCĐ. Một khi hệ thống quản lý LNCĐ được triển khai, uỷ ban quản lý phải có trách nhiệm tìm kiếm những giải pháp cho những vấn đề phát sinh. Sau đó, người dân trong vùng dự án thiết lập cho riêng mình hệ thống chia sẻ lợi ích. Chum Kiri là nơi đầu tiên được chọn để thực hiện dự án nghiên cứu rừng cộng đồng của chính phủ. Năm 2000 dự án bắt đầu thiết lập với sự tham gia của 3 ngôi làng là Prey Yav, Damnakchoul và Tbeing Pouk với tổng diện tích là 922 hecta. Cục Lâm nghiệp đã xác định có hơn 200 khu rừng cộng đồng. Tổng cộng, có 19 tỉnh, thành phố, 76 quận, huyện, 157 xã, 615 làng nghề tham gia hoạt động lâm nghiệp cộng đồng. Có khoảng 60.000 hộ gia đình tham gia, quản lý về 180.000 ha rừng vừa bị xuống cấp [13]. * Philippin: Quản lý rừng cộng đồng (CBFM) được coi là chiến lược chính của quản lý rừng ở Philipin. Nhận thức rằng người dân ở vùng cao có thể là đối tác trong việc quản lý rừng, chính phủ đã chuyển hướng chiến lược của mình sang hình thức quản lý rừng dựa vào cộng đồng. CBFM phát triển từ các chương trình định hướng người dân trước đó vào những năm 1970 như các phòng quản lý rừng (FOM), gia đình tiếp cận phục hồi rừng (FAR)... được kết hợp dưới sự hợp nhất của chương trình lâm nghiệp xã hội (ISFP) thông qua các văn bản ban hành, các chỉ thị của tổng thống Marcos vào năm 1982. Sau đó có các chương trình tương tự được khởi xướng bởi chính phủ để thúc đẩy sự tham gia của người dân địa phương vào việc phát triển và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng. CBFM nhằm thúc đẩy trao quyền cho người dân, quản lý rừng bền vững, lành mạnh và cân bằng sinh thái, và công nhận quyền của người dân bản địa đối với những những khu vực của tổ tiên của họ. Quyền sử dụng được thể hiện trong thoả thuận quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFMA), mà phục vụ như sự bảo lãnh cho cộng đồng để tiếp cận và quản lý rừng trong 25 năm và gia hạn thêm 25 năm nữa (Pulhin 2003) [13]. 7 * Thái lan: Vào cuối những năm 1990, kế hoạch phát triển quốc gia của Thái lan đã kêu gọi sự tham gia của người dân địa phương trong việc quản lý tài nguyên thiên nhiên. Chính phủ Thái Lan đã chuyển mục tiêu quản lý rừng của mình từ tập trung sản xuất nhỏ hẹp đến cân bằng giữa bảo tồn, phục hồi chức năng và sản xuất bao gồm cả sự phát triển sinh kế địa phương. “Hiến pháp của người dân” được ban hành vào năm 1997 của Thái lan đưa đến cho cộng đồng quyền quản lý và duy trì sự sử dụng tài nguyên bền vững. Tuy nhiên theo Kaewmahanin và Fisher thì xuất hiện nhiều xung đột giữa cán bộ lâm nghiệp và người dân địa phương, họ đổ lỗi cho nạn phá rừng là do người dân địa phương thay vì làm việc với cộng đồng để tìm ra các giải pháp khắc phục. Cục Lâm nghiệp Hoàng gia đề xuất dự thảo đầu tiên về dự luật lâm nghiệp cộng đồng, trong đó phần lớn là một bộ quy tắc và quy định để cho phép người dân địa phương tham gia trong đề án tái trồng rừng của chính phủ (Makarabhirom 2000). Cộng đồng rừng ngập mặn Pred Nai được xem như một trường hợp nghiên cứu để minh họa cho khả năng tham gia của người dân trong lâm nghiệp, các làng Pred Nai đã thành công trong việc ngăn chặn việc đốn gỗ và tiến hành tham gia các hoạt động như trồng cây. Những tác động ngay lập tức bao gồm việc cải thiện sinh kế và điều kiện của các hệ sinh thái rừng ngập mặn, ngoài ra còn là xúc tác cho phong trào quản lý dựa vào cộng đồng ở Thái Lan [13]. * Trung quốc: Ở Trung Quốc rừng tiếp tục được quản lý theo tập thể, Trung Quốc là nơi mà tập thể làm chủ hơn một nửa đất lâm nghiệp của quốc gia. Theo thống kê chính thức của phòng thống kê, kể từ cuối những năm 1950, quyền sở hữu đất lâm nghiệp đã được giới hạn cho nhà nước hoặc cho các cơ quan tập thể, tổng diện tích rừng thuộc sở hữu của nhà nước chiếm 41,6% tổng số, còn lại là thuộc sở hữu của các cơ quan tập thể, cụ thể là, các đơn vị hành chính cơ bản, các thị trấn và làng mạc. Chiến lược quản lý rừng đầu tiên trên toàn quốc, là một chiến lược được triển khai từ năm 1950 và đến nay vẫn còn tiếp tục, là chiến lược có quy mô lớn đã vận động được sự tham gia của người dân địa phương vào quản lý và bảo vệ rừng. Đó là những khu rừng được người dân địa phương trồng dọc theo các dòng suối, con sông, đập để bảo vệ nguồn nước, chống xói mòn, những khu rừng trồng để bảo tồn nguồn nước sinh hoạt và cả những khu rừng trồng chắn gió và cát. Tỉnh Sơn Tây là 8 một ví dụ, vào giữa nhưng năm 1950, ngoài những khu rừng của làng, các hộ gia đình, rừng còn được quản lý theo tập thể như “rừng thanh niên”, “rừng của phụ nữ”, “ rừng của những người lính”, “rừng của trường”, “rừng nhà máy”... [13]. * Lào: Tại Lào, việc chính thức hóa quyền sử dụng đất thông qua LUP / LA (Land Allocation) đã được giải quyết và khởi tạo ở Lào thông qua các Hội nghị Nông nghiệp và lâm nghiệp quốc gia đầu tiên trong năm 1989. Để bắt đầu quá trình, 8000 làng mục tiêu đã được lựa chọn trên khắp đất nước nằm ở những khu vực ưu tiên, ví dụ như lưu vực sông, các khu vực bảo vệ và các địa điểm liên quan tới các chương trình ổn định du canh. Nhấn mạnh ban đầu đã được trao cho đất nông nghiệp. Trong thập kỷ qua khoảng 5400 làng, bằng khoảng 50% của tất cả các làng ở Lào, đã hoàn thành chương trình LUP / LA [1]. Khái niệm về Công ty quản lý rừng (JFM) đã được triển khai từ năm 1994 tại SPF Dong Khapo tỉnh Sanvannakhet được hỗ trợ bởi các LSFP / SIDA với các mục tiêu quản lý rừng tự nhiên dựa trên sản lượng gỗ bền vững và lâm sản ngoài gỗ để duy trì năng lực sản xuất của nó, để bảo tồn đa dạng sinh học và liên quan đến cộng đồng địa phương. Khái niệm này được dựa trên sự đồng quản lý rừng giữa cộng đồng và các cơ quan chính quyền địa phương. Theo đó một tổ chức dựa vào làng theo hình thức JFM Hội đồng đã được thành lập để tạo thuận lợi cho sự hợp tác giữa các làng có liên quan và chính quyền địa phương. Hình thức quản lý này đã cung cấp nhiều lợi ích hơn cho người dân, đặc biệt là khả năng phát triển tốt hơn của làng, mà kết quả là tạo ra động lực cao hơn, giảm nghèo và bảo vệ rừng tốt hơn. [13]. * Inđônêxia: Vào năm 1992, tại Ngawi, Java của Inđônêxia, người ta đã xây dựng một rừng làng 5 hecta theo sáng kiến của sở Lâm nghiệp trên đất rừng không thích hợp cho trồng trọt. Dân làng được phép thu hoạch gỗ để sử dụng tại địa phương và buôn bán. Việc chăn thả gia súc trong rừng bị nghiêm cấm. Chính phủ phải quản lý những khu rừng mà việc bảo vệ là rất cần thiết và các cộng đồng địa phương không thể quản lý được đầy đủ. Theo đó các khu rừng cấm để giữ nước, rừng sản xuất để xuất khẩu và cung cấp gỗ cho vùng do Sở lâm nghiệp quản lý, những khu rừng còn lại giao cho địa phương [13]. 9 2.2. Thực trạng công tác bảo vệ rừng những năm qua trên Việt Nam Hình thức quản lý rừng có sự tham gia của người dân đã tồn tại từ lâu đời ở nước ta, nhưng sau khi Luật đất đai 2003 và Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004 ra đời, người dân được cộng nhận là một chủ rừng thật sự, ngoài những diện tích rừng do người dân tự quản lý lâu đời, nhà nước còn giao thêm diện tích rừng cho cộng đồng quản lý. Theo Võ Đình Tuyên thì tính đến tháng 12 năm 2009, đã giao cho người dân quản lý trên toàn quốc là 191.383 hecta rừng chiếm 1,4%, trong đó cộng đồng quản lý 171.395 hecta rừng tự nhiên, chiếm 1,7% so với tổng diện tích rừng tự nhiên của cả nước [11]. Tỷ lệ diện tích rừng theo các chủ thể quản lý Tỷ lệ, Tổ chức khác, 5.0, 5% Ban QLR 18,3% 32,6% 1,4% Doanh nghiệp nhà nước Tổ chức KT khác 15,4% Tỷ lệ, Hộ gia đình, 24.8, 25% Đơn vị vũ trang Hộ gia đình 1,8% 0,7% Cộng đồng Tổ chức khác UBND các cấp Biểu đồ 2.1: Diện tích rừng toàn quốc phân theo chủ thể quản lý[11] Như vậy so với tổng diện tích rừng theo các chủ thể quản lý rừng khác như Ban quản lý rừng, doanh nghiệp nhà nước, hộ gia đình, ủy ban nhân dân các cấp, thì tỷ lệ diện tích rừng do cộng đồng quản lý thấp hơn rất nhiều. Trong khi đó thực tiễn cho thấy hiệu quả từ việc quản lý rừng của cộng đồng rất cao, nhiều khu rừng được cộng đồng quản lý bảo vệ rất tốt. Vì vậy nhà nước cần quan tâm nhiều hơn nữa đến công tác giao và quản lý rừng cộng đồng để góp phần quản lý rừng bền vững. Tại Hội thảo quốc gia về QLRCĐ diễn ra ở Hà Nội vào 6/5/2009, Nguyễn Bá Ngãi đã trình bày báo cáo của mình về thực trạng, vấn đề và giải pháp của QLRCĐ ở Việt Nam. Ông đã chỉ ra rằng tính đến 31/12/2007 cả nước có 10.006 cộng đồng dân cư thôn bản đang quản lý và sử dụng 2.792.946,3 ha rừng và đất 10 trống đồi núi trọc để xây dựng và phát triển rừng. Cộng đồng quản lý chủ yếu là rừng phòng hộ, đặc dụng (71%), rừng sản xuất chỉ chiếm 29%. Cộng đồng quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp nêu trên dưới 3 hình thức: Thứ nhất, rừng và đất rừng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định lâu dài với diện tích 1.643.251,2 ha tương đương 58,8% diện tích đất lâm nghiệp do cộng đồng quản lý và sử dụng. Thứ hai, rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý lâu đời nhưng chưa được nhà nước giao với diện tích 247.029,5 ha tương đương 8,9%. Thứ ba, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp của các tổ chức nhà nước được cộng đồng nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi và trồng mới theo hợp đồng khoán nhận rừng lâu năm (50 năm) với diện tích 902.662,7 tương đương 32,3% [6]. Cũng trong báo cáo của mình, Nguyễn Bá Ngãi đã đưa ra bảng số liệu tổng hợp về diện tích rừng cộng đồng được thống kê theo các vùng kinh tế - sinh thái (Bảng 2.1). Bảng 2.1. Thống kê diện tích rừng cộng đồng theo vùng kinh tế - sinh thái Đơn vị: Ha Diện tích đất Diện tích đất lâm nghiệp của người lâm nghiệp dân theo nguồn gốc hình thành Tên vùng tại các vùng Giao Chưa giao Khoán Toàn quốc 2.792.946,3 1.643.254,1 247.029,5 902.662,7 Tây Bắc 1.893.300,9 1.263.675,6 45.248,4 584.376,9 Đông Bắc 760.131,1 319.859,9 181.932,9 258.338,3 Bắc Trung Bộ 58.541,7 40.489,1 18.052,6 0 0 1.124,4 4.612,9 Nam Trung Bộ 5.373,3 Tây Nguyên 62.422,3 19.229,6 671,2 42.521,5 Đông Nam Bộ 0 0 0 0 12.813,1 0 0 12.813,1 Đồng SCL Bằng (Nguồn: Nguyễn Bá Ngãi, 2009) 11 Cũng tại hội thảo quốc gia về LNCĐ, Hà Nội 5/6/ 2009, Lê Thị Thưa, Điều phối viên Dự án LNCĐ - Bộ NN&PTNT, đã trình bày một số kết quả bước đầu hoạt động dự án chương trình thí điểm lâm nghiệp cộng đồng. Dự án Chương trình thí điểm Lâm nghiệp cộng đồng do Quỹ uỷ thác cho ngành lâm nghiệp (TFF) tài trợ với tổng kinh phí 1.463.000 Euro là một trong những chương trình thu hút được nhiều cộng đồng tham gia quản lý rừng và đã thực hiện với phạm vi rộng trên toàn quốc. Dự án bắt đầu từ tháng 9/2006 và kéo dài đến hết tháng 6/2009, tiến hành trên 10 tỉnh (bảng 1.2) [9] Bảng 2.2. Kết quả quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã, giao đất giao rừng cho cộng đồng STT Tỉnh Số xã được quy hoạch Số cộng Diện Đất lâm nghiệp đồng tích được quy được giao rừng đã hoạch (ha) rừng giao (ha) 1 Điện Biên 4 30.284,41 8 4.287,5 2 Sơn La 4 29.263,70 8 2.283,7 3 Cao Bằng 5 10.944,10 10 1.006,5 4 Lạng Sơn 2 14.914,00 4 551,5 5 Yên Bái 6 19.721,40 8 3.263,3 6 Nghệ An 4 29.407,11 3 369,0 7 Quảng Trị 4 31.583,90 8 1.032,2 8 TT - Huế 4 20.050,20 7 729,8 9 Gia Lai 4 37.883,50 6 1.374,5 10 Đắc Nông 2 17.881,10 2 1.900,2 39 241.933,42 64 16.798,1 Cộng 10 tỉnh (Nguồn: Lê Thị Thưa, 2009) Theo báo cáo này thì việc thí điểm mô hình lâm nghiệp cộng đồng tại các xã tham gia dự án bước đầu đã thực hiện tốt. Đã hoàn thành xây dựng quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng có sự tham gia của người dân của 39 xã tham gia Dự án (thuộc 18 huyện của 10 tỉnh), được UBND huyện phê duyệt với tổng diện 12 tích quy hoạch đất lâm nghiệp là 241.933,42 ha. Trong đó dự kiến diện tích rừng và đất lâm nghiệp sẽ giao cho các cộng đồng là 20.428,0 ha. Dự án đã giúp địa phương triển khai giao đất giao rừng (có sự tham gia của cộng đồng) được 16.798,1 ha, bàn giao và cắm mốc giới ngoài thực địa cho 64 cộng đồng. [9] * Một số tỉnh Miền núi phía Bắc Trong nghiên cứu về quản lý rừng cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc Việt nam, Nguyễn Bá Ngãi đã cho thấy tại Điện Biên, Hoà Bình có 4 hình thức QLRCĐ với nguồn gốc hình thành khác nhau, đó là rừng cộng đồng truyền thống do người dân tự công nhận từ lâu đời, rừng của thôn bản được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, rừng giao cho nhóm hộ đồng quản lý, rừng giao cho hộ nhưng các hộ tự liên kết cùng quản lý. Các hình thức QLRCĐ ở một số địa phương được tổng hợp trong Bảng 2.3 [6]. Bảng 2.3. Hình thức quản lý rừng cộng đồng của một số đồng bào dân tộc ít người vùng Miền núi phía Bắc STT Hình thức quản lý Nguồn gốc hình thành Hiên trạng và quy mô Mục đích quản lý, sử dụng Bản Huổi Cáy, xã Mùn Chung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên – người dân đồng bào H’Mông 1 Người dân Bản tự công Rừng tự Bảo vệ nguồn quản lý theo nhận từ lâu đời. nhiên, 81 ha nước. lấy gỗ làm truyền thống nhà, các lâm sản khác tiêu dùng hàng ngày. Thôn Cài, xã Vũ Lâm, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình- người dân đồng bào Mường 2 Nhóm hộ gia Xã hợp đồng sử Rừng tự Phủ xanh đất trống, đình dụng rừng. nhiên, rừng lấy gỗ, tre nứa bán trồng, 31 ha ra thị trường. (Nguồn: Nguyễn Bá Ngãi, 2009) Trong đó thì tại Điện Biên nhóm hộ được UBND huyện giao đất giao rừng, có quyết định kèm theo quyền lợi và nghĩa vụ của nhóm hộ. Trên thực tế, ở nhiều nơi, việc quản lý rừng có sự tham gia của người dân đã được hình thành do truyền thống lâu đời hoặc do Dự án EU thực hiện. Các khu rừng này chưa 13 được xã, huyện hoặc tỉnh thừa nhận trên văn bản nhưng lại được xã, các cơ quan đơn vị quản lý lâm nghiệp cấp huyện hoặc tỉnh, cấp địa bàn chấp nhận khi triển khai các hoạt động tại cộng đồng. Kết quả nghiên cứu ở Bản Huổi Cáy, xã Mùn Chung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên - Cộng đồng đồng bào H’Mông (Bảng 1.3) là một ví dụ phản ánh tình hình chung về sự tham gia quản lý rừng của người dân [6]. Tại Bắc Kạn mô hình cộng đồng tham gia quản lý rừng tại 4 thôn Bản Sàng, To Đoóc, Nà Mực và thôn Khuổi Liềng thuộc 2 xã Lạng San và Văn Minh của huyện Na Rì với tổng diện tích là 4.748.528m2 cũng là những ví dụ điển hình. Trên những diện tích đất lâm nghiệp chưa có chủ này sau khi giao cho người dân đã được quản lý bảo vệ tốt hơn, đã ngăn chặn và răn đe được những hành vi phá rừng làm nương rẫy, khai thác rừng trái phép. Bên cạnh đó cộng đồng người dân còn được tập huấn để xây dựng vườn ươm và những kỷ thuật về trồng rừng bổ sung và chăm sóc rừng cũng như phát triển các mô hình nông lâm kết hợp, cải thiện đời sống của người dân điạ phương [6]. Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Xuân Phương cùng với các tác giả khác năm 2003 và kết quả nghiên cứu điểm hiện nay tại tỉnh Sơn La đã cho thấy hộ gia đình, nhóm hộ, cộng đồng làng bản và các tổ trong bản ở một số địa phương đã được giao đất giao rừng lâu dài, được cấp sổ đỏ và được quyền hưởng lợi. Kết quả đã chỉ ra rằng các đối tượng trên đều thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng và phát triển rừng. Không có biểu hiện nào cho thấy cộng đồng, nhóm hộ yếu kém trong việc quản lý, thậm chí rừng còn được khôi phục và bảo vệ tốt hơn rừng của hộ gia đình như tại bản Nà Ngà của xã Chiên Hặc. [7] Về vấn đề xây dựng quy ước bảo vệ rừng thì Đỗ Đình Sâm, Hoàng Liên Sơn và Lê Quang Sơn trong nghiên cứu của mình về “Forest governance in VietNam” đã chỉ ra rằng, từ năm 2000 các cộng đồng người dân địa phương đã được khuyến khích lập hương ước quản lý bảo vệ của cộng đồng được chi cục hoặc cơ quan lâm nghiệp công nhận. Trong tỉnh Lai Châu có 1.791 ngôi làng của 145 xã có quy ước, và ở tỉnh Sơn La, Hòa Bình có 339 và 1.566 quy ước, tương ứng. Những quy ước được xây dựng dựa theo phong tục và truyền thống quản lý và bảo vệ rừng, đồng thời được sửa đổi và phát triển để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn hiện nay. Các mô hình quản lý đã chứng minh là có hiệu quả, được công nhận và được áp dụng rộng rãi. Các mô hình không chỉ củng cố vai trò của người dân trong quản lý và bảo vệ rừng, mà còn là củng cố vai trò của của phụ nữ (ví dụ: trên địa bàn tỉnh Sơn La) [12]. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan