Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Tìm hiểu các tranh chấp...

Tài liệu Tìm hiểu các tranh chấp

.PDF
197
146
95

Mô tả:

TÌM HIỂU CÁC TRANH CHẤP
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại TÌM HIỂU CÁC TRANH CHẤP TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC PHÁP LUẬT ĐỀ ÁN 2- CHƢƠNG TRÌNH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ 2008-2012 BỘ TƢ PHÁP NHÀ XUẤT BẢN TƢ PHÁP NĂM 2012 1 2 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN: Nguyễn Thúy Hiền Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Trưởng Ban chỉ đạo Đề án TỔ CHỨC BIÊN SOẠN: Nguyễn Duy Lãm Vụ trưởng Vụ PBGDPL, Bộ Tư pháp Phạm Thị Hòa Phó Vụ trưởng Vụ PBGDPL, Bộ Tư pháp THAM GIA BIÊN SOẠN: 1. TS. Lê Thu Hằng, Học viện Tư pháp 2. ThS. Vũ Thị Thu Hiền, Học viện Tư pháp 3. ThS. Nguyễn Thị Hạnh, Học viện Tư pháp 4. ThS. Nguyễn Thị Hằng Nga, Học viện Tư pháp 5. TS. Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Học viện Tư pháp 6. ThS. Tống Thị Thanh Thanh, Học viện Tư pháp 7. ThS. Ngô Ngọc Vân, Học viện Tư pháp. 3 4 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại LỜI GIỚI THIỆU Ngày 27/02/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 270/2009/QĐ-TTg phê duyệt Đề án: “Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước” thuộc Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2008 đến năm 2012. Một trong các hoạt động của Đề án là cung cấp, hỗ trợ tài liệu nghiệp vụ, tài liệu pháp luật cho các đối tượng của Đề án, góp phần nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ thực hiện công tác này trong thời kỳ mới. Ban chỉ đạo Đề án trân trọng cảm ơn sự tham gia nhiệt tình của tập thể tác giả và sự phối hợp tích cực của Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật - thường trực Ban chỉ đạo Đề án để hoàn thành cuốn sách này. Xin trân trọng giới thiệu và mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của bạn đọc về nội dung cuốn sách. BAN CHỈ ĐẠO ĐỀ ÁN Nhằm đáp ứng nhu cầu về bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật đối với những người trực tiếp thực hiện công tác này, đặc biệt là đội ngũ Báo cáo viên pháp luật, Ban chỉ đạo Đề án tổ chức biên soạn và phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản cuốn: “Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật”. Cuốn sách cung cấp cho báo cáo viên các vụ việc liên quan tới pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, hình sự, dân sự, hành chính, lao động,… đã diễn ra trên thực tế, quyết định của Tòa án và những bình luận pháp luật của các tác giả về những vụ việc trên. 5 6 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại I. BÌNH LUẬN MỘT SỐ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH Vụ việc số 1 Ngày 15 tháng 9 năm 2010, bà Th ký với Công ty CBTHSXK - Việt Ph, hai hợp đồng không số, tên gọi là “Hợp đồng vay vốn để sản xuất kinh doanh” cùng do ông Trần Văn K nguyên giám đốc đại diện ký, cho Công ty vay 20.000 USD/1 hợp đồng, lãi suất 4,5%/tháng, thời hạn 06 tháng và 12 tháng. Trong hợp đồng, bên cho vay có ghi là bà Nguyễn Thị Th, địa chỉ 35 Nguyễn An N, quận 1 - Thành phố H; bên đi vay là Công ty CBTHSXK - Việt Ph, do ông Trần Văn K Giám đốc, địa chỉ 57 Nguyễn T, quận 1, Thành phố H đại diện. Hợp đồng chỉ có chữ ký của ông K, không đóng dấu Công ty. Thực hiện hợp đồng, bà Th đã giao cho ông K 38.000 USD, ông K đã trả được 3.353 USD nên vốn gốc chỉ còn là 34.647 USD. Khi bà Th giao USD cho ông K không có biên lai ký nhận của Kế toán trưởng hay Thủ quỹ của Công ty CBTHSXK - Việt Ph. Công ty CBTHSXK- Việt Ph không có lưu hợp đồng hoặc các chứng từ liên quan trong hồ sơ tại Phòng tài vụ - kế toán của Công ty CBTHSXK - Việt Ph. Ông 7 Trần Văn K không báo việc ký kết, thực hiện hợp đồng với bà Th trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty CBTHSXK - Việt Ph. Hết hạn thanh toán, bà Th kiện Công ty CBTHSXK - Việt Ph; yêu cầu Công ty CBTHSXK - Việt Ph phải trả cho bà Th các khoản tiền sau: - Vốn gốc là 34.647 USD tương đương 557.123.760 đồng; - Lãi là 733.354.928 đồng. Tổng cộng tính tròn hai khoản là: 1.290.000.000 đồng. Bình luận - Thứ nhất: Về hình thức, hai “Hợp đồng vay vốn để kinh doanh” cùng ký ngày 15/9/2010 được xác lập giữa bà Th với Công ty CBTHSXK - Việt Ph. Tuy nhiên, thực tế thực hiện hợp đồng lại thể hiện đây là quan hệ cho vay giữa cá nhân với cá nhân (bà Th và ông K), với những tình tiết để chứng minh là việc giao tiền được thực hiện giữa cá nhân bà Th với ông K, không qua tài khoản Công ty, nội bộ Công ty không được biết về việc vay tiền này, hợp đồng không theo biểu mẫu hợp đồng của Công ty và không được đóng con dấu Công ty. Vì vậy, việc bà Th khởi kiện đề nghị Tòa án buộc chính Công ty CBTHSXK - Việt Ph trả nợ sẽ không được Tòa án chấp nhận. 8 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại Có quan điểm cho rằng, nếu hợp đồng được đóng dấu của Công ty, thì cho dù ông K đứng ra nhận tiền, không chuyển tiền cho Công ty, Công ty vẫn phải có nghĩa vụ trả nợ. Còn việc ông K sử dụng danh nghĩa của Công ty vay tiền, không trả được nợ, gây thiệt hại cho Công ty sẽ được xem xét ở quan hệ pháp luật khác. Quan điểm này cũng đã gây nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử. Vấn đề mấu chốt không phải là hợp đồng được đóng dấu Công ty hay không được đóng dấu Công ty vì xét cho cùng con dấu không làm thay đổi bản chất và hiệu lực của hợp đồng. Việc đóng dấu chỉ là sự xác thực về mặt hành chính chữ ký của người có thẩm quyền đại diện cho một tổ chức. Quan trọng là để làm rõ bản chất quan hệ cho vay được xác lập giữa bà Th với Công ty hay với cá nhân ông K, cần phải xác định: + Ý chí cho vay của bà Th là cho Công ty hay cá nhân ông K vay? Tại sao bà Th chuyển tiền cho cá nhân ông K mà không qua tài khoản, kế toán Công ty? dịch (hợp đồng sẽ vô hiệu do bị lừa dối nếu ý chí bà Th là cho Công ty vay nhưng ông K đã lừa dối bà Th để bà Th giao tiền trực tiếp cho ông K) và làm rõ lỗi trong việc ông K lợi dụng danh nghĩa của Công ty để vay tiền, từ đó xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ. - Thứ hai: Mặc dù khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, bà Th đã quy đổi giá trị đòi nợ bằng tiền Việt, tuy nhiên việc cho vay bằng USD là đã vi phạm pháp luật nên hợp đồng sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu. Theo quy định của Điều 22 Pháp lệnh Quản lý ngoại hối năm 2005 thì các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng tiền nội tệ. Vi phạm quy định này được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và là một trong những căn cứ để tuyên hợp đồng vô hiệu theo Điều 122 Bộ luật Dân sự. Điều 22 Pháp lệnh Quản lý ngoại hối quy định: + Ý chí của ông K là vay với danh nghĩa cá nhân hay dưới danh nghĩa đại diện cho Công ty? Tại sao ông K trực tiếp nhận tiền, trả tiền, không qua sổ sách kế toán Công ty, không thông báo việc vay nợ trong nội bộ Công ty? Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép. Việc làm rõ ý chí của các bên, một mặt để xác định rõ bản chất quan hệ hợp đồng, mặt khác còn làm rõ hiệu lực của giao Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch: 9 10 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại “1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.” Và Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.” Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, các giao dịch được xác lập bằng ngoại tệ khi giải quyết Tòa án sẽ tuyên giao dịch vô hiệu vì cho rằng nội dung của hợp đồng đã vi phạm điều cấm của pháp luật (không được phép giao dịch bằng ngoại hối). Tuy nhiên, cũng có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề giao dịch được xác lập bằng ngoại tệ. Có quan điểm cho rằng việc vi phạm quy định về quản lý ngoại hối chỉ là sự vi phạm về quản lý hành chính và vì vậy các chủ thể chỉ phải chịu chế tài xử phạt vi phạm hành chính mà không làm vô hiệu hợp đồng. Tác giả cho rằng cần thiết phải làm rõ đối tượng của hợp đồng là gì, nếu đối 11 tượng của hợp đồng là giao dịch cho vay thì lúc này nội dung của hợp đồng được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật, còn nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hóa mua bán, dịch vụ thuê, mượn... thì việc các bên thỏa thuận đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ chỉ làm vô hiệu điều khoản về thanh toán chứ không làm cho nội dung của hợp đồng bị vi phạm điều cấm như cách hiểu hiện nay. Vì vậy, đối với những hợp đồng mua bán, thuê... mà các bên thỏa thuận thanh toán bằng ngoại tệ thì Tòa án chỉ tuyên vô hiệu điều khoản này và buộc các bên phải khôi phục tình trạng đã thực hiện cho đúng quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối. Vụ việc số 2 Ngày 01/8/2010, Công ty điện máy, xe máy, xe đạp TTD (bên A - không có chức năng cho thuê nhà xưởng) và Công ty trách nhiệm hữu hạn T (bên B) có ký hợp đồng thuê nhà xưởng với nội dung: Bên A cho bên B thuê 01 nhà 02 tầng và 03 dãy nhà xưởng trên diện tích 2000 m2 đất tại số 42Q ngõ 67 phố Đ, quận L, thành phố H. Thời hạn thuê từ 01/9/2010 đến 30/8/2012. Giá cho thuê là 140.000.000 đồng/tháng. Bên B thanh toán cho bên A 03 tháng một lần. Nếu chậm thanh toán sẽ bị phạt với mức lãi suất 05%/tháng cho số tiền và thời gian chậm thanh toán. 12 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại Sau khi thanh lý hợp đồng, bên B phải giao lại cho bên A toàn bộ mặt bằng, tài sản của bên A và cả phần sửa chữa của bên B (được bên A cho phép). Ngoài ra, các bên còn thỏa thuận về trách nhiệm của các bên và chọn cơ quan tài phán. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty trách nhiệm hữu hạn T đã trả tiền thuê đến hết tháng 3/2011. Sau đó bị đơn không trả tiền thuê nhà nữa, mặc dù phía nguyên đơn đã có nhiều công văn nhắc nhở, bị đơn vẫn không thực hiện. Do đó đến ngày 11/6/2011, nguyên đơn đã có công văn số 71/ĐM-XĐXM thông báo cho bị đơn về việc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bị đơn trả lại toàn bộ diện tích nhà xưởng đang thuê. Đến ngày 24/8/2011, nguyên đơn có đơn khởi kiện yêu cầu: - Bị đơn trả lại toàn bộ diện tích thuê. - Hoàn trả số tiền thuê nhà còn thiếu là 308.000.000 đồng và lãi là 50.976.875 đồng. Khoản 1 Điều 9 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp: “Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.” Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng hợp đồng trên là hợp đồng cho thuê tài sản (là hợp đồng dân sự) nên Bên A không nhất thiết phải có chức năng kinh doanh trong việc cho thuê tài sản thuộc sở hữu của mình. Quan điểm này cũng gây nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử. - Thứ hai: Về việc xử lý hậu quả của hợp đồng nêu trên khi bị tuyên vô hiệu cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Theo quy định của Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì hợp đồng bị vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hai bên, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng tiền thì hoàn trả bằng hiện vật và bên nào có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Bình luận - Thứ nhất, Hợp đồng cho thuê nhà xưởng của các bên sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu do bên A không có chức năng cho thuê nhà xưởng để thực hiện hợp đồng, vi phạm Điều 9 Luật Doanh nghiệp năm 2005, Điều 122 và Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005. 13 “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu 14 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.” Thực tiễn xét xử cho thấy, khi hợp đồng cho thuê nhà xưởng bị vô hiệu thì các bên chấm dứt việc thực hiện hợp đồng và bên đi thuê phải thanh toán tiền thuê cho thời gian đã thuê (vì việc sử dụng không thể hoàn trả nên hoàn trả bằng tiền) vì không có quy định và giải thích cụ thể trường hợp nào thì “lợi tức, hoa lợi” thu được phải bị tịch thu sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu như vậy vô hình trung là đã thừa nhận hợp đồng, đặc biệt là trong trường hợp thời hạn hợp đồng thuê đã hết, các bên đã thực hiện xong hợp đồng và chỉ còn nợ tiền thuê. Theo quan điểm của tác giả, tiền thuê trong trường hợp mà bên cho thuê không có chức năng mà lại cho thuê là khoản lợi tức không hợp pháp và bên cho thuê không được hưởng mà phải sung quỹ Nhà nước. Mặt khác, quy định “bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường” cần phải thống nhất hiểu “lỗi” ở đây là lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu chứ không phải lỗi trong thực hiện hợp đồng vì khi hợp đồng bị vô hiệu thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Và tác giả cũng cho rằng, nếu đã là lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu thì chỉ có khả 15 năng cả hai bên cùng có lỗi (50/50) hoặc một bên có lỗi (100%) chứ không thể cân nhắc lỗi theo mức 70/30 hay 40/60 v.v… phù hợp với mức độ thiệt hại được. Tuy nhiên, thực tế xét xử hiện nay cho thấy việc xem xét lỗi trong việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu còn rất khác nhau. Vụ việc số 3 Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại TL và Công ty cổ phần đầu tư sản xuất động cơ phụ tùng và lắp ráp ô tô, xe máy T cùng thỏa thuận và ký kết một số hợp đồng kinh tế. Theo các hợp đồng kinh tế số 01/XNTL-L1/HĐKT ngày 01/10/2009, số 02/XNTL-L1/HĐKT ngày 12/7/2009, số 03/XNTL-L1/HĐKT ngày 01/10/2009, hai bên thỏa thuận: Công ty TL bán cho Công ty T vành xe máy gồm: vành trước là 60.000 cái, vành sau là 60.000 cái. Tổng giá trị cả 03 hợp đồng là 4.909.080.000 đồng, kèm theo thỏa thuận thanh toán theo từng hóa đơn xuất hàng trong vòng 30 ngày kể từ ngày Công ty TL giao hàng. Hợp đồng số 01/MTL-L1/HĐKT ngày 12/11/2009, Công ty TL bán cho Công ty T 15.000 mặt nạ nhựa, tổng giá trị hợp đồng là 67.500.000 đồng và thỏa thuận thanh toán trong vòng 20 ngày kể từ ngày giao nhận hàng. Việc giao nhận hàng và trả tiền giữa hai bên được thực hiện như sau: 16 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại - Về loại hàng vành xe máy tính đến thời điểm cuối cùng là ngày 24/10/2010, Công ty TL đã giao số lượng hàng trị giá 4.473.644.252 đồng, Công ty T đã trả 3.875.713.918 đồng, còn nợ là 597.930.334 đồng. lãi phát sinh trong thời gian chậm thanh toán là 208.947.323 đồng (theo thỏa thuận trong hợp đồng là 05%/tháng trên số tiền chậm trả, thời gian chậm trả và lãi được tính lũy tiến, cộng lãi vào gốc để tính). - Về loại hàng mặt nạ nhựa tính đến ngày 10/9/2010, Công ty TL đã giao trị giá 125.613.000 đồng, tính trừ một số hàng phải trả lại thì giá trị còn lại là 125.263.000 đồng, Công ty T chưa trả được đồng nào. Tòa án đã thụ lý vụ việc và nhận định cách tính lãi lũy tiến lấy lãi cộng gốc để tính và lãi suất 05%/tháng là không phù hợp với quy định về lãi suất cho vay được quy định tại Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005. Tại biên bản đối chiếu công nợ này 17/11/2010, hai bên xác nhận: Tổng số tiền Công ty T còn nợ của Công ty TL là 729.193.334 đồng, trong đó nợ tiền vành xe máy là 597.930.334 đồng; tiền mặt nạ nhựa là 125.263.000 đồng và 6.000.000 đồng tiền khuôn đúc phía Công ty TL đã ứng trả thay cho Công ty T. Bình luận - Thứ nhất: Sau ngày Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực thì không còn tồn tại khái niệm hợp đồng kinh tế. Vì vậy, việc các bên vẫn còn sử dụng thuật ngữ hợp đồng kinh tế trong giao kết hợp đồng là không chính xác. Sau khi chốt nhận nợ, Công ty TL đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nợ; ngày 02/4/2011 Công ty T trả tiếp 50.000.000 đồng. Ngày 17/10/2011 Công ty TL đã có công văn số 101/2011/CV gửi Công ty T yêu cầu trả nốt số nợ gốc 679.193.334 đồng trước ngày 25/10/2011; mặc dù đã nhận được văn bản nhưng Công ty T không trả lời và cũng không thanh toán nợ. Do vậy, ngày 06/12/2011 Công ty TL đã có đơn khởi kiện yêu cầu buộc Công ty T phải trả số nợ gốc là 679.193.334 đồng. - Thứ hai: Việc Tòa án áp dụng Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 để xem xét thỏa thuận của các bên về việc phạt lãi do vi phạm nghĩa vụ thanh toán gây nhiều băn khoăn bởi Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định về lãi suất của hợp đồng vay. Quy định này có đương nhiên được áp dụng cho việc thỏa thuận về lãi suất phạt chậm thanh toán trong các hợp đồng thương mại theo Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 hay không cũng chưa thực sự rõ ràng. Ngoài ra, Công ty TL còn yêu cầu Công ty T phải hoàn trả 17 Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: 18 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. 2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.” Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Có quan điểm cho rằng, trong tình huống này hai bên đã có thỏa thuận khác nên thỏa thuận phạt này hoàn toàn phù hợp Điều 306 Luật Thương mại năm 2005, cần phải được chấp nhận. Tuy nhiên có quan điểm khác cho rằng dù các bên có thỏa thuận khác thì mức lãi phạt cũng không được cao hơn mức 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định. Như đã đề cập ở trên, liệu Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 về lãi suất trong hợp đồng vay có đương nhiên áp dụng cho các hợp đồng khác hay 19 không? Quan điểm của tác giả là không áp dụng, bởi bản chất của thỏa thuận phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong các hợp đồng thương mại là một chế tài để răn đe và trừng phạt các chủ thể cố tình vi phạm nghĩa vụ, không thuộc phạm vi điều chỉnh về lãi suất cho vay để kiểm soát hoạt động cho vay, thực hiện chính sách về tiền tệ của Nhà nước. Do đó, không nhất thiết phải điều chỉnh bởi mức tỷ lệ do pháp luật quy định để tạo sự ổn định và cân bằng trong quản lý tiền tệ. Vậy nên, theo chúng tôi, trên thực tế xét xử các thẩm phán vẫn áp dụng Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 để xem xét về thỏa thuận phạt lãi trong các hợp đồng thương mại là không hợp lý. - Thứ ba: Theo hợp đồng thì việc thanh toán phải thực hiện không quá 20 ngày đối với mặt nạ nhựa, không quá 30 ngày đối với vành xe máy kể từ ngày bên A giao hàng theo từng hóa đơn; ngoài thời hạn trên được coi là chậm trả. Như vậy, hết thời hạn này mà bên có nghĩa vụ vẫn không thanh toán là đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu phía Công ty TL không có ý kiến gì; các văn bản đối chiếu nợ cũng chỉ ghi nhận khoản nợ gốc mà không đề cập đến lãi quá hạn thì coi như Công ty TL đã mặc nhiên chấp nhận việc vi phạm. Do vậy, thời điểm tính lãi suất chậm thanh toán được lấy mốc từ ngày đối chiếu xác nhận công nợ chứ không phải tính từ mốc vi phạm theo thỏa thuận trong hợp đồng. 20 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại Vụ việc số 4 Ngày 01/3/2011, Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ phần MT ký hợp đồng số 03/HĐ-CT liên doanh kinh tế với nội dung chính là: Hợp tác xã ĐT đồng ý liên doanh với Công ty cổ phần MT. Công ty cổ phần MT đồng ý đầu tư liên doanh của Hợp tác xã ĐT để chăn nuôi lợn siêu nạc xuất khẩu với hình thức góp vốn, khoán gọn, thu lợi nhuận (lãi suất 0,7%/tháng). Công ty cổ phần MT phải thanh toán lãi cho Hợp tác xã ĐT vào ngày cuối tháng hoặc cuối quý. Hợp tác xã ĐT chỉ đầu tư lượng tài chính để liên doanh là 500 triệu đồng trong thời gian 05 năm. Hết thời hạn, Công ty cổ phần MT phải thanh toán hết gốc và lãi cho Hợp tác xã ĐT. Tài sản Công ty cổ phần MT làm thế chấp cho Hợp tác xã ĐT là hệ thống cây xăng đang hoạt động với trị giá 1,4 tỷ đồng. Ngày 14/3/2011, Hợp tác xã ĐT đã chuyển cho Công ty cổ phần MT 150 triệu đồng (phiếu chi số 41) căn cứ vào văn bản đề nghị tạm ứng vốn số 01/VBĐN-CT ngày 06/3/2011 của Công ty cổ phần MT. Ngày 28/4/2011, Hợp tác xã ĐT đã chuyển cho Công ty cổ phần MT 100 triệu đồng (phiếu chi số 70). 21 Công ty cổ phần MT sau khi ký hợp đồng với Hợp tác xã ĐT đã ký 03 hợp đồng về lợn giống, thiết bị chuồng lợn với Xí nghiệp tập thể BH, Công ty cổ phần Hùng S, Công ty trách nhiệm hữu hạn CHAROEN P - Những hợp đồng này Công ty cổ phần MT không chuyển đúng tiền thanh toán trong hợp đồng nên đã bị phạt 221.323.550 đồng và các thiệt hại khác. Tổng thiệt hại hơn 300 triệu đồng. Công ty cổ phần MT đã chuyển Hợp tác xã ĐT tiền lợi nhuận khoán gọn hàng tháng (từ tháng 3/2011 đến tháng 11/2011, tổng số tiền lợi nhuận đã chuyển là 11.550.000 đồng). Từ tháng 11/2011, Công ty cổ phần MT ngừng chuyển tiền lãi cho Hợp tác xã ĐT. Phía Hợp tác xã ĐT, sau khi ký hợp đồng với Công ty cổ phần MT đã bị Ủy ban kiểm tra huyện C kiểm tra và kết luận việc ký và thực hiện hợp đồng liên doanh kinh tế giữa Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ phần MT là vi phạm điều lệ Hợp tác xã, Nghị quyết đại hội xã viên bất thường ngày 07/6/2011, không tìm hiểu kỹ đối tác kinh doanh mà huyện ủy C đã có thông báo số 151/TB-HU. Đại hội đại biểu xã viên Hợp tác xã ĐT ngày 29/5/2011 đã yêu cầu thu hồi số tiền 250 triệu đồng cho Công ty cổ phần MT vay về quỹ Hợp tác xã. Từ ngày 01/6/2011 đến 09/11/2011, Hợp tác xã ĐT liên tục yêu cầu Công ty cổ phần MT thanh lý hợp đồng, yêu cầu Công ty cổ phần MT chuyển trả lại 250 triệu đồng mà Hợp tác 22 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại xã đã chuyển, nhưng Công ty cổ phần MT không thực hiện. Còn Công ty cổ phần MT yêu cầu Hợp tác xã ĐT hoặc thanh lý hoặc tiếp tục thực hiện hợp đồng nhưng Hợp tác xã ĐT phải bồi thường đầy đủ mọi thiệt hại của Công ty cổ phần MT do Hợp tác xã ĐT gây ra. Tranh chấp giữa hai bên không giải quyết được. Ngày 10/02/2012, Hợp tác xã ĐT gửi đơn và hồ sơ khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố HP đề nghị giúp Hợp tác xã ĐT thu hồi 250 triệu đồng đã chuyển cho Công ty cổ phần MT. Công ty cổ phần MT cũng có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án buộc Hợp tác xã ĐT phải bồi thường các thiệt hại phát sinh cho Công ty cổ phần MT. Bình luận - Thứ nhất: Hợp đồng liên doanh kinh tế số 03/HĐ-CT ký kết ngày 01/3/2011 giữa Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ phần MT bị vô hiệu toàn bộ. Tại Điều 2 của hợp đồng có quy định: Hợp tác xã ĐT chỉ đầu tư lượng tài chính để liên doanh là 500.000.000 đồng vào vốn lưu động của Công ty cổ phần MT trong thời hạn 05 năm. Nhưng tại Điều 1, Điều 3 quy định: khoán gọn, thu lợi nhuận lãi suất 0,7%/tháng. Công ty cổ phần MT đã phải trả lãi hàng tháng cho Hợp tác xã ĐT cho đến tháng 11/2011. Tại văn bản đề nghị số 01/VBĐN-CT ngày 06/3/2011 của Công ty cổ phần 23 MT xác định Hợp tác xã ĐT là bên đầu tư tài chính cho Công ty cổ phần MT trên cơ sở khoán gọn, trả lãi hàng tháng theo hợp đồng số 03/HĐ-CT ngày 01/3/2011. Giấy ủy quyền nhận tiền số 01/GUQ-CT ngày 11/3/2011 của Công ty cổ phần MT ghi rõ là nhận số tiền vay 150.000.000 đồng. Phiếu chi số 41 ngày 14/3/2011 của Hợp tác xã ĐT ghi rõ chi theo văn bản đề nghị vay vốn của Công ty cổ phần MT. Phiếu chi 100.000.000 đồng ngày 28/4/2011 của Hợp tác xã ĐT ghi chi theo hợp đồng vay vốn. Một số phiếu thu của Hợp tác xã ĐT ghi rõ thu tiền lãi cụ thể: phiếu thu số 02 ngày 28/6/2011, phiếu thu số 24 ngày 15/5/2011; phiếu thu số 01 ngày 15/6/2011; phiếu thu số 06, 07 ngày 18/7/2011. Từ căn cứ trên thể hiện, thực chất hợp đồng kinh tế số 03/HĐ-CT ngày 01/3/2011 giữa Hợp tác xã ĐT với Công ty cổ phần MT chỉ là hợp đồng vay vốn. Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh bị vô hiệu do giả tạo vì che dấu bản chất là một hợp đồng cho vay vốn theo Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005. Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này. 24 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.” Giao dịch bị che giấu ở đây là hợp đồng cho vay vốn vẫn bị vô hiệu vì vi phạm Điều 6, Điều 7 của Luật Hợp tác xã năm 2003. Cụ thể, Hợp tác xã không được cho vay đối với các tổ chức, cá nhân không phải là xã viên Hợp tác xã và không được kinh doanh ngoài những ngành, nghề đã đăng ký. Khoản 8 Điều 6 Luật Hợp tác xã quy định Hợp tác xã có quyền: “Vay vốn của tổ chức tín dụng và huy động các nguồn vốn khác; tổ chức tín dụng nội bộ theo quy định của pháp luật.” Khoản 1 Điều 7 Luật Hợp tác xã quy định Hợp tác xã có nghĩa vụ: “Sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đúng ngành, nghề, mặt hàng đã đăng ký.” - Thứ hai: Công ty cổ phần MT yêu cầu Hợp tác xã ĐT phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do có lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu là không có cơ sở để chấp nhận bởi Công ty cổ phần MT buộc phải có nghĩa vụ biết chức năng kinh doanh của Hợp tác xã là không được phép cho vay vốn. Vì vậy, trong trường hợp này lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu là 50/50 (trừ khi Hợp tác xã ĐT lừa dối làm cho Công ty cổ phần MT tin vào việc Hợp tác xã có chức năng này), Công ty cổ phần MT phải gánh chịu 1/2 thiệt hại của mình. 25 II. BÌNH LUẬN MỘT SỐ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG Vụ việc số 1 Ngày 07/3/2009, Công ty thương mại xây dựng có thư bảo lãnh số 142 cho Chi nhánh Sài Gòn V là đơn vị thuộc Công ty thương mại xây dựng vay tiền của Chi nhánh Ngân hàng Công thương thành phố H thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thư bảo lãnh với số tiền 10 tỷ đồng có tài khoản 710-A00477 tại Ngân hàng Công thương Việt Nam và tài khoản ngoại tệ số 362-111-37-0333 tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Từ thư bảo lãnh này, Chi nhánh Sài Gòn V đã lập khế ước vay Ngân hàng như sau: 1. Ngày 29/7/2009 mở L/C số 0104106/T95LC91 trả chậm một năm không quy định lãi suất, nhưng có phí chuyển tiền với số tiền là 232.416 USD. Từ ngày 23/8/2010 đến ngày 15/11/2010 đã trả được 203.670 USD, nợ gốc còn 28.746 USD. 2. Khế ước số 95000634 ngày 02/10/2009 vay số tiền là 2.500.000.000 đồng (hai tỷ năm trăm triệu đồng) và đã trả lãi trong hạn được 75.405.947 đồng. 26 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại 3. Khế ước số 9500034 ngày 29/11/2009 vay 3.000.000 đồng (ba tỷ đồng), chưa trả được gốc và lãi quá hạn. 4. Khế ước số 9501051 ngày 26/12/2009 vay 6.375.000.000 đồng (sáu tỷ ba trăm bảy lăm triệu đồng), hợp đồng ngoại tệ còn nợ 28.746 USD. Ngày 15/4/2011, Công ty thương mại xây dựng được khoanh nợ 05 tháng và được trừ lãi đã thu vào gốc là 975.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền mà phía bị đơn đã trả được 1.600.000.000 đồng tiền gốc. Còn nợ gốc sau khoanh nợ là 5.400.000.000 đồng và 28.746 USD. Hết thời gian khoanh nợ, Ngân hàng Công thương đã đến Chi nhánh Sài Gòn V lập biên bản nhận nợ và hai bên đã xác nhận với nhau: Sài Gòn V còn nợ Ngân hàng là 5.400.000.000 đồng tiền gốc và 3.544.152.741 đồng tiền lãi quá hạn. Về ngoại tệ: nợ gốc 28.746 USD, lãi nợ quá hạn 16.994,39 USD. Sau nhiều lần đề nghị thanh toán không thành, Ngân hàng đã tiến hành khởi kiện Chi nhánh Sài Gòn V với yêu cầu Tòa án buộc Chi nhánh Sài Gòn V phải trả nợ và xác định Công ty thương mại xây dựng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải đứng ra trả nợ thay cho Chi nhánh Sài Gòn V khi Chi nhánh không thực hiện nghĩa vụ. Công ty thương mại xây dựng từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với lý do trong văn bản hoạt động của Công ty 27 có quy định Chi nhánh tự chịu trách nhiệm pháp lý đối với các khoản nợ mà Chi nhánh đã vay và sử dụng không hiệu quả. Bình luận - Thứ nhất, việc Ngân hàng khởi kiện Chi nhánh Sài Gòn V với tư cách bị đơn và xác định Công ty thương mại xây dựng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải đứng ra trả nợ thay cho Chi nhánh Sài Gòn V khi Chi nhánh không thực hiện nghĩa vụ là đã kiện sai đối tượng. Theo quy định của khoản 2 Điều 37 Luật Doanh nghiệp năm 2005, Điều 92, 93 Bộ luật Dân sự năm 2005, chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền và doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. Khoản 2 Điều 37 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: “Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền. Ngành, nghề kinh doanh của chi nhánh phải phù hợp với ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp.” Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: 28 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại “1. Pháp nhân có thể đặt văn phòng đại diện, chi nhánh ở nơi khác với nơi đặt trụ sở của pháp nhân. 2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và thực hiện việc bảo vệ các lợi ích đó. 3. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. 4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền. 5. Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện.” 3. Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện.” Như vậy, mặc dù các Khế ước vay nợ được lập giữa Chi nhánh Ngân hàng Công thương tại Thành phố Hồ Chí Minh với Chi nhánh Sài Gòn V và Công ty thương mại xây dựng đứng ra bảo lãnh trả nợ nhưng về bản chất pháp lý thì quan hệ hợp đồng tín dụng được hình thành giữa hai chủ thể đó là: i/Bên cho vay là Ngân hàng Công thương Việt Nam; ii/ Bên đi vay là Công ty thương mại xây dựng. Việc Ngân hàng Công thương Việt Nam để cho Công ty thương mại xây dựng phát hành thư bảo lãnh cho Chi nhánh của mình vay vốn là đã hiểu không đúng các quy định của pháp luật. Bên bảo lãnh phải là bên thứ ba độc lập trong quan hệ hợp đồng vay (Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005). Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005 qu y đị nh: Điều 93 Bộ Luật D ân sự nă m 2005 quy đ ịnh: “1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. 2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm thay cho thành viên của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân. 29 “Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.” 30 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại Có quan điểm cho rằng, Ngân hàng khởi kiện Chi nhánh Sài Gòn V cho nên cần phải xác định Chi nhánh là bị đơn vì theo quy định của khoản 3 Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự thì bị đơn “là người bị nguyên đơn khởi kiện”. Tuy nhiên, cần hiểu rằng “người” trong quan hệ tố tụng có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự được quy định tại Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với cá nhân thì phải đủ 18 tuổi trở lên, đối với tổ chức thì phải có tư cách pháp nhân, trừ những tổ chức không có tư cách pháp nhân nhưng không lệ thuộc bất kỳ tổ chức nào khác (ví dụ: tổ hợp tác, hộ gia đình…). Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự. 3. Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác. 31 4. Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. 5. Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. 6. Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Toà án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. 7. Đương sự là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng.” - Thứ hai, việc Công ty thương mại xây dựng từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với lý do trong văn bản hoạt động của Công ty có quy định Chi nhánh tự chịu trách nhiệm pháp lý 32 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với các khoản nợ mà Chi nhánh đã vay và sử dụng không hiệu quả cũng là chưa hiểu đúng các quy định của pháp luật về trách nhiệm của pháp nhân. Mặc dù Quy chế hoạt động của Công ty thương mại xây dựng có quy định như vậy nhưng sự ràng buộc của những quy định này chỉ có tính chất “quản lý nội bộ”. Về mặt pháp lý, pháp nhân vẫn phải chịu toàn bộ trách nhiệm đối với những giao dịch và hoạt động do chi nhánh của mình xác lập. Vụ việc số 2 Căn cứ Quyết định số 146/2009/QĐ-UB ngày 15/3/2009 của Uỷ ban nhan dân (UBND) tỉnh THB - Phê duyệt mức vốn vay “Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm” đối với dự án sản xuất và chế biến nấm xuất khẩu của Công ty nấm xuất khẩu TB, ngày 25/4/2009, trên cơ sở đơn đề nghị nhận tiền vay do ông Nguyễn Tiến Tr, Giám đốc Công ty nấm xuất khẩu TB ký tên và đóng dấu của Công ty, Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh THB đã ký hợp đồng tín dụng số 68/HĐ-TD cho ông Nguyễn Tiến Tr, Giám đốc Công ty nấm xuất khẩu TB vay 200.000.000 đồng, mục đích vay để “mở rộng dây chuyền sản xuất và chế biến nấm xuất khẩu”; thời hạn vay là 24 tháng; lãi suất vay trong hạn là 0,5%/tháng; lãi quá hạn là 1%/tháng; hình thức đảm bảo: “Bảo lãnh bằng tài sản” của một số cá nhân gồm: 33 + Ông Vũ Xuân T ký “Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản” số 4 HĐ/BLTS ngày 14/02/2009 và hợp đồng bổ sung số 05 HĐ/BS ngày 21/4/2009, thế chấp nhà ở của gia đình mình để bảo lãnh cho số tiền vay là 85 triệu đồng cả gốc và lãi của ông Nguyễn Tiến Tr. + Bà Nguyễn Thị H ký “Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản” số 03/HĐ-BLTS ngày 24/4/2009, thế chấp nhà và đất của gia đình mình để bảo lãnh cho số tiền vay là 50 triệu đồng cả gốc và lãi của ông Nguyễn Tiến Tr. + Ông Phạm Văn K và vợ là bà Đinh Thị Ph ký “Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản” số 05/HĐ-BLTS ngày 12/6/2009, thế chấp nhà và đất của gia đình mình để bảo lãnh cho số tiền vay là 62 triệu đồng cả gốc và lãi của ông Nguyễn Tiến Tr. Hợp đồng vay có ghi rõ bên vay là ông Nguyễn Tiến Tr Giám đốc Công ty nấm xuất khẩu TB. Hợp đồng do ông Tr ký, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng chính sách THB ký và đóng dấu hai bên. Các văn bản bảo lãnh nói trên đều có cam kết “nếu ông Nguyễn Tiến Tr không trả được thì lúc đó tôi sẽ có trách nhiệm trả cho Ngân hàng chính sách xã hội cả gốc và lãi theo pháp luật”. Thực hiện hợp đồng tín dụng số 68/HĐ-TD ngày 25/4/2009, Chi nhánh ngân hàng chính sách tỉnh THB đã giao 34 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại cho ông Nguyễn Tiến Tr với tư cách là Giám đốc Công ty nấm xuất khẩu TB ký nhận tiền như sau: + Ngày 25/4/2009, nhận 110 triệu đồng; + Ngày 26/4/2009, nhận 50 triệu đồng; + Ngày 14/6/2009, nhận 25 triệu đồng; + Ngày 09/8/2009, nhận 15 triệu đồng. Đến hạn trả nợ, ông Tr không có khả năng trả nợ vì dự án làm ăn thua lỗ. Ngân hàng khởi kiện đích danh ông Nguyễn Tiến Tr và những người bảo lãnh nói trên ra Tòa án. Bình luận - Thứ nhất, Ngân hàng khởi kiện cá nhân ông Nguyễn Tiến Tr là không đúng đối tượng. Mặc dù hợp đồng vay ghi rõ tên bên vay là ông Nguyễn Tiến Tr - Giám đốc Công ty. Tuy nhiên, cần phải làm rõ quan hệ hợp đồng vay thực chất phát sinh giữa Ngân hàng với cá nhân ông Tr hay với Công ty nấm xuất khẩu TB do ông Tr làm đại diện. Cần phải xem xét đến các chứng cứ khác liên quan đến việc cho vay như căn cứ để Chi nhánh Ngân hàng chính sách tỉnh THB ký kết hợp đồng tín dụng này là Quyết định số 146/2009/QĐ-UB ngày 15/3/2009 của UBND tỉnh THB về việc phê duyệt cho Công ty nấm xuất khẩu TB (chứ không phải cá nhân ông Nguyễn Tiến Tr) 35 được vay 200 triệu đồng tiền vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm; các đơn đề nghị nhận tiền vay đều do ông Nguyễn Tiến Tr, Giám đốc Công ty nấm xuất khẩu TB ký tên và đóng dấu của Công ty nấm xuất khẩu TB. Như vậy, chủ thể được quyền vay tiền của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm ở đây phải là Công ty nấm xuất khẩu TB chứ không phải cá nhân ông Nguyễn Tiến Tr. Thứ hai, hai hợp đồng bão lãnh ký giữa ông Vũ Xuân T, bà Nguyễn Thị H với Chi nhánh Ngân hàng chính sách tỉnh THB đều bị vô hiệu tuyệt đối nên sẽ không làm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh của ông T và bà Hưng. Bên bảo lãnh là ông Vũ Xuân T, bà Nguyễn Thị H dùng tài sản chung của hai vợ chồng để đảm bảo cho nghĩa vụ bảo lãnh nhưng lại thiếu chữ ký của vợ ông Vũ Xuân T và chồng bà Nguyễn Thị H là vi phạm quy định về chế độ sở hữu chung vợ chồng. Khi tài sản bảo lãnh là tài sản chung vợ chồng thì cần phải được cả vợ và chồng nhất trí định đoạt mới có giá trị pháp lý (Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005). Điều 219 Bộ luật Dân sự nă m 2 005 q u y định: “1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. 2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. 36 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại 3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. 4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.” Mặt khác việc bảo lãnh bằng tài sản là quyền sử dụng đất phải thực hiện thủ tục công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật mới đảm bảo hiệu lực về mặt hình thức của giao dịch (Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 3 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm). “Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất;” Điều 3 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 quy định: “1. Các giao dịch bảo đảm sau đây phải đăng ký: a) Thế chấp quyền sử dụng đất; b) Thế chấp rừng sản xuất là rừng trồng; c) Cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay; Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 q u y đ ịnh: d) Thế chấp tàu biển; “1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.” Điểm a khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai năm 2003 quy định: 37 đ) Các trường hợp khác, nếu pháp luật có quy định. 2. Các giao dịch bảo đảm bằng tài sản không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này được đăng ký khi cá nhân, tổ chức có yêu cầu”. Mặt khác, về chủ thể được nhận bảo lãnh, trong các văn bản bảo lãnh đều ghi là “nếu ông Nguyễn Tiến Tr không trả được…”; như vậy, việc bảo lãnh được đặt ra cho cá nhân ông Nguyễn Tiến Tr chứ không phải là Công ty nấm xuất khẩu TB do ông Tr làm đại diện, nên rất khó buộc những người bảo 38 Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại lãnh phải thực hiện nghĩa vụ, trừ khi những người này thừa nhận họ đứng ra bảo lãnh cho Công ty chứ không phải cho cá nhân ông Tr. Rõ ràng có thể thấy rằng, những sai sót về nghiệp vụ của Ngân hàng như xác định không đúng chủ thể vay vốn, chủ thể được bảo lãnh vay vốn và không tuân thủ các quy định của pháp luật về các điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực sẽ mang lại cho Ngân hàng những hậu quả rất bất lợi. Vụ việc số 3 Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam chi nhánh H và Công ty cổ phần thương mại và phát triển gia súc TTĐN có ký kết 04 hợp đồng tín dụng, cụ thể: Hợp đồng tín dụng số 09/HĐTD ngày 24/6/2004 với số tiền vay là 3.500.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng, ngày trả hết nợ lãi và gốc là 24/6/2009. Ngày 16/6/2004, hai bên ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 01/TC là quyền sử dụng 16.970 m2 đất và tài sản hình thành từ vốn vay gắn liền với đất, với tổng giá trị tài sản bảo đảm là 5.280.351.000 đồng; Hợp đồng tín dụng số 12/HĐTD ngày 28/10/2004 với số tiền vay là 600 triệu đồng, thời hạn cho vay là 60 tháng, ngày trả hết nợ gốc và lãi là 28/10/2009. Cùng ngày hai bên còn ký 39 hợp đồng thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, giá trị tài sản dự kiến sẽ hình thành từ vốn vay là 850.000.000 đồng; Hợp đồng tín dụng số 04/HĐTD ngày 04/4/2005 với số tiền vay là 525.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng, ngày trả hết nợ gốc và lãi là ngày 04/4/2010. Cùng ngày hai bên còn ký hợp đồng thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, giá trị tài sản dự kiến sẽ hình thành từ vốn vay là 700.000.000 đồng; Hợp đồng tín dụng số 16/HĐTD ngày 04/4/2005 với số tiền vay là 1.900.000.000 đồng, thời hạn vay là 12 tháng, ngày trả hết nợ gốc và lãi là 04/4/2006, tiền vay được bảo đảm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm tiền vay kèm theo hợp đồng vay; đến hạn Công ty không trả được nợ gốc và lãi, Ngân hàng được quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi cả nợ gốc và lãi. Thực tế thì không có hợp đồng bảo đảm kèm theo hợp đồng tín dụng nêu trên nhưng có giấy thỏa thuận đăng ký nghĩa vụ được bảo đảm nợ vay Ngân hàng do hai bên lập không đề ngày chỉ ghi tháng 4/2005 với nội dung: Tài sản thế chấp chính chủ và tài sản hình thành từ vốn vay là 16.970 m 2 đất tại thôn Nguyệt Viên, xã HQ, huyện H, tỉnh TH do UBND tỉnh TH cấp ngày 03/9/2003 cho Công ty. Tài sản gắn liền với đất là văn phòng làm việc, trang trại chăn nuôi, tài sản khác là xe con điều hành được tiếp tục sử dụng để đảm bảo thực 40
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan