Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tìm hiểu các loại hình du lịch của sinh viên...

Tài liệu Tìm hiểu các loại hình du lịch của sinh viên

.PDF
117
14
98

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------oOo------------- ĐỀ TÀI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG – 2008 TÌM HIỂU CÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH CỦA SINH VIÊN Chủ nhiệm đề tài NGUYỄN NHƯ HẢO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH NHÂN HỌC KHOÁ 2005 – 2009 TP. HỒ CHÍ MINH – 2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------oOo------------ĐỀ TÀI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG – 2008 TÌM HIỂU CÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH CỦA SINH VIÊN Người hướng dẫn khoa học : TH.S NGUYỄN ĐỨC LỘC Chủ nhiệm đề tài: NGUYỄN NHƯ HẢO SV. Ngành Nhân Học Khoá 2005 – 2009 Các thành viên: NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP SV. Ngành Địa Lý Khoá 2005 – 2009 VŨ THỊ HOA SV. Ngành Địa Lý Khoá 2005 – 2008 HOÀNG THỊ HƯƠNG SV. Ngành Địa Lý Khóa 2005 – 2009 TP. HỒ CHÍ MINH - 2008 MỤC LỤC DẪN LUẬN..................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ TRƯỜNG VÀ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN TP. HỒ CHÍ MINH .... 19 1.1. Sơ lược về trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn ................ 19 1.2. Sơ lược về vấn đề học tập và hoạt động ngoại khoá của sinh viên... 21 CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NHU CẦU VÀ TIỀM NĂNG DU LỊCH TRONG SINH VIÊN.................................................................................... 25 2.1. Thực trạng về mức sống và nhu cầu giải trí của sinh viên .............. 25 2.2. Xác định nhu cầu và tiềm năng du lịch trong sinh viên .................. 30 CHƯƠNG 3: TÌM HIỂU CÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH CỦA ................... 33 3.1. Loại hình du lịch tham quan/ dã ngoại ............................................. 33 3.2. Loại hình du lịch nghiên cứu, học tập ............................................... 39 3.3. Du lịch giải trí..................................................................................... 42 KẾT LUẬN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ...................................................... 53 3.1. Kết luận .............................................................................................. 53 3.2. Kiến nghị ............................................................................................ 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 57 PHỤ LỤC...................................................................................................... 58 1 DẪN LUẬN 1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Sinh viên là những người có nhu cầu về du lịch rất lớn. Cùng với việc học tập, nghiên cứu, sinh viên cũng có những hoạt động ngoại khóa phong phú và đa dạng. Ngoài mục đích tìm hiểu thực tế, học hỏi bổ sung kiến thức, những hoạt động ngoại khoá của sinh viên còn nhằm mục đích giải trí và vui chơi. Bên cạnh những hình thức giải trí như xem tivi, nghe nhạc, đọc báo, internet….. thì giải trí bằng cách đi chơi, dã ngoại là một hình thức rất được sinh viên ưa thích, thu hút sinh viên tham gia nhiều. Bởi đây là hình thức dễ dàng nhất để có thể vừa học tập thực tế vừa giải trí sau những giờ học căng thẳng. Sinh viên có nhiều hình thức du lịch đặc sắc và đa dạng, mang nét đặc trưng riêng của sinh viên, chẳng hạn như tham quan, dã ngoại, du lịch nghiên cứu, học tập, du lịch giải trí …... Nhưng không phải sinh viên nào cũng tìm cho mình được một loại hình du lịch thích hợp hay có thể sắp xếp được thời gian và chi phí để đi du lịch. Vì trên thực tế, đối với sinh viên việc đi du lịch là điều rất khó khăn. Sinh viên có nhu cầu nhưng khó có thể thực hiện được nhu cầu của mình. Chính vì thế, nhiều sinh viên đã chọn cách đi du lịch với tập thể như đi du lịch với tổ chức Đoàn – Hội, lớp/ khoa, các nhóm du lịch nhằm mục đích giảm chi phí và tiết kiệm thời gian mà thu được hiểu quả cao. Tuy nhiên, phần lớn sinh viên vẫn chưa biết được hướng giải trí thích hợp. Bản thân cũng đang là sinh viên và thích đi du lịch, nhưng chưa sắp xếp được thời gian cũng như chưa độc lập được vấn đề kinh tế nên chưa có điều kiện để giải trí bằng cách đi du lịch với mục đích học hỏi thực tế. Chính vì vậy, tôi muốn tìm hiểu các loại hình du lịch để chọn cho mình một hướng du lịch thích hợp cho bản thân. Nhằm mục đích tiết kiệm thời gian cũng như chi phí. Chính vì những vấn đề trên, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục đích tìm hiểu về thực trạng các loại hình du lịch của sinh viên. Từ đó, thấy được tầm quan trọng của vấn đề này và đề ra những giải pháp phát triển. Bên cạnh đó, áp dụng và phát triển các loại hình du lịch này cho sinh viên để hướng 2 họ đến một sân chơi lành mạnh, trang bị thêm những kiến thức về văn hóa, xã hội, đất nước, con người Việt Nam phù hợp nhu cầu thực tế ngày nay. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trên thế giới, hoạt động du lịch từ lâu đã phát triển. Ơ Việt Nam, du lịch chỉ mới phát triển trong thời gian gần đây. Có rất nhiều công trình nghiên cứu sưu tầm về du lịch nói chung và các loại hình du lịch nói riêng. Ở Việt Nam có nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề du lịch chẳng hạn như PGS. TS Trương Quốc Bình, PGS. TS Phạm Trung Lương, Vũ Thế Bình, TS Thu Trang Công Thị Nghĩa, Nguyễn Thị Chiến, Lê Thị Vân….Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này thường tập trung vào du lịch nói chung, các vấn đề về du lịch, thị trường du lịch mà không có công trình nào nghiên cứu về các loại hình du lịch của sinh viên. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về du lịch ở nước ta hiện nay, nhưng chúng tôi không thể tìm hiểu hết được tất cả những công trình, tác phẩm đó mà chỉ có thể tiếp cận được một số tác phẩm. Chẳng hạn như một số tác phẩm viết về du lịch văn hoá như “Du lịch văn hóa ở Việt Nam” của TS Thu Trang Công Thị Nghĩa (Nxb Trẻ, 2001), “Luật di sản văn hóa” (Nxb Chính trị Quốc gia, 2004), “Cộng đồng quốc gia văn hóa Việt Nam” của GS Đặng Nghiêm Vạn (NXB Đại học Quốc gia, TP. HCM), Giáo trình:"Văn hoá du lịch" của Lê Thị Vân chủ biên (Nxb Hà Nội, 2006), “Non nước Việt Nam” của Tổng cục du lịch Việt Nam (Hà Nội, 2004)…. Một số tác phẩm viết về du lịch lễ hội như “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch” của Dương Văn Sáu (Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 2004). … Một số tác phẩm viết về du lịch sinh thái như tài liệu:"Du lịch sinh thái – Ecotourism" của GS – TSKH Lê Huy Bá (Nxb Đại học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh)…. Ngoài ra, chúng tôi còn tiếp cận được một số tác phẩm viết về vấn đề du lịch nói chung và những lí luận về du lịch như “Nhân học du lịch” do ThS. Trương Thị Thu Hằng biên soạn (Khoa Nhân học, trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh), Giáo trình “Nhập môn khoa học du lịch” do Trần Đức Thanh chủ biên, Giáo trình “Địa lý du lịch” của nhóm tác giả PTS Nguyễn Minh Tuệ, PGS. PTS. Vũ Tuấn 3 Cảnh, PGS. PTS. Lê Thông, PTS. Phạm Xuân Hậu, PTS. Nguyễn Kim Hồng; "Kinh tế du lịch và du lịch học" do Đổng Ngọc Minh – Vương Lôi Đình chủ biên (Nxb Trẻ, 2000); "Kinh tế du lịch" của Robert Lanquar do Phạm Ngọc Uyển, Bùi Ngọc Chưởng dịch (Nxb Thế giới Hà Nội, 2002). Các tác phẩm này, có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề giảng dạy du lịch ở các trường Đại học, cao đẳng, trung cấp về du lịch ở Việt Nam. Và cũng là những tác phẩm được chúng tôi dùng làm cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu đề tài. Ngoài ra, còn có những bài viết về du lịch trên các báo: Du lịch, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Sài Gòn Guide … trong thời gian qua. Những website: http://Vietnamtourism.com.vn; http://Vietnamtourism.gov.com; http://dulichvn.org.vn; http://Vungtautourism.com.vn; http://Vietnamnet.com; …. Cũng đăng tải các địa điểm du lịch, các tour du lịch trong và ngoài nước. Tuy nhiên, những bài viết và trang web này chỉ mang tính chất giới thiệu và khai thác về các dịch vụ du lịch, các tuyến du lịch mà không đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các loại hình du lịch nhất là các loại hình du lịch của sinh viên. Đối tượng của những nghiên cứu này là khách du lịch nói chung chứ không nghiên cứu đối tượng còn là sinh viên. Trong số các tác phẩm và tài liệu, bài viết chúng tôi tìm hiểu được, không có tác phẩm nào đề cập đến vấn đề du lịch của sinh viên chỉ có một số công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề sinh viên đang nghiên cứu như: “Nhập môn khoa học du lịch” của Trần Đức Thanh; Giáo trình: “Địa lý du lịch” của nhóm tác giả biên soạn, Giáo trình: “Văn hóa du lịch” do Lê Thị Vân chủ biên, sách: "Du lịch văn hoá ở Việt Nam" của TS. Thu Trang Công Thị Nghĩa, bài viết: “Du lịch văn hóa: Xu thế mới của Việt Nam” của tác giả Minh Quang trên báo Điện tử Vietnamnet, ngày 8/6/2004. 4 Công trình đầu tiên chúng tôi tìm hiểu là giáo trình: “Nhập môn khoa học du lịch” của Trần Đức Thanh, tác giả cho rằng: “Hoạt động du lịch có thể được phân thành các nhóm khác nhau tùy thuộc tiêu chí đưa ra. Các tiêu chí được đưa ra phụ thuộc vào mục đích phân loại và quan điểm chủ quan của tác giả. Do đó, cho đến nay chưa có bảng phân loại nào được coi là hoàn hảo…”1 Qua đó, thấy được rằng chưa có sự phân loại các loại hình du lịch nào là hoàn thiện và là chuẩn mực chung. Vì vậy, tác giả đã phân chia du lịch thành các loại hình cơ bản nhất. Tác giả phân loại theo môi trường tài nguyên trong đó có du lịch văn hoá và du lịch thiên nhiên. Phân loại theo mục đích của chuyến đi, trong đó tác giả đã phân chia ra nhiều loại hình du lịch nhỏ như Du lịch tham quan, du lịch giải trí, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch khám phá, du lịch thể thao, du lịch lễ hội, du lịch tôn giáo, du lịch nghiên cứu (học tập), du lịch hội nghị, du lịch thể thao kết hợp, du lịch chữa bệnh, du lịch thăm thân, du lịch kinh doanh …… Tuy nhiên, đối với sinh viên, chúng tôi tìm hiểu được sinh viên đi du lịch chủ yếu với các loại hình du lịch tham quan, dã ngoại; du lịch giải trí; du lịch nghiên cứu, học tập. Ngoài ra, tác giả còn phân loại theo lãnh thổ hoạt động du lịch quốc tế, du lịch nội địa, du lịch quốc gia. Phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch bao gồm du lịch miền biển, du lịch núi, du lịch đô thị, du lịch thôn quê. Phân loại theo phương tiện giao thông với loại hình du lịch xe đạp, du lịch ô tô, du lịch bằng tàu hoả, du lịch bằng tàu thuỷ, du lịch máy bay. Phân loại theo loại hình di trú với loại hình khách sạn, Motel, nhà trọ thanh niên, Camping, Bungalow, làng du lịch. Phân loại theo lứa tuổi du khách. Phân loại theo độ dài chuyến đi. Phân loại theo hình thức tổ chức: bao gồm du lịch tập thể, du lịch cá thể và du lịch gia đình. Phân loại theo phương thức hợp đồng với loại hình du lịch trọn gói và du lịch từng phần. Như vậy, có rất nhiều loại hình du lịch được phân chia theo nhiều cách khác nhau. Vì vậy, tuỳ mục đích của chuyến đi mà xếp chuyến du lịch vào loại hình cụ thể, phù hợp với chuyến đi của mình. Đối với sinh viên, họ thường đi du lịch với các loại hình du lịch tham quan, dã ngoại; du lịch giải trí; du lịch 1 Trần Đức Thanh (2000), “Nhập môn khoa học du lịch”, NXB ĐHQG Hà Nội, tr. 63 5 nghiên cứu, học tập. Ngoài ra, còn kết hợp với loại hình du lịch được phân theo hình thức tổ chức. Trong giáo trình này, tác giả đã đề cập đến các tiêu chí để phân loại loại hình du lịch và chúng tôi cũng học tập theo cách phân loại của tác giả để tiến hành tìm hiểu đề tài của mình. Đối với bài viết: “Du lịch văn hóa: Xu thế mới của Việt Nam” của tác giả Minh Quang trên báo Điện tử Vietnamnet, ngày 8/6/2004. Tác giả cho rằng: “Du lịch văn hóa là xu hướng của các nước đang phát triển vì đem lại giá trị lớn cho cộng đồng xã hội, và vì thế mà loại hình du lịch này trở thành một nội dung chính của hội nghị Bộ trưởng Du lịch Đông Á – Thái Bình Dương”. Tác giả còn cho rằng: “Du lịch văn hóa: Sự lựa chọn của các nước đang phát triển”. Ở các nước đang phát triển hoặc kém phát triển, thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những nguồn lợi này không tạo ra giá trị lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển của cộng đồng xã hội. Vì “Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục, tín ngưỡng… để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ”. Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương – nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo. Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương”. Tác giả còn đề cập đến vấn đề: Du lịch ở Việt Nam có theo xu hướng du lịch văn hóa hay không? Một quan chức của Vụ hợp tác quốc tế thuộc Tổng cục du lịch đã phát biểu trong hội nghị này: “Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất 6 tốt cho xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy, phải được xem là hướng phát triển của du lịch Việt Nam”. Như vậy, theo tác giả bài viết này thì Du lịch Việt Nam phát triển theo loại hình du lịch văn hóa. Tuy nhiên, với đối tượng là sinh viên nói chung và sinh viên Nhân văn nói riêng thì sinh viên có rất nhiều các loại hình du lịch chứ không riêng gì du lịch văn hóa. Ở Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên những đặc điểm của vùng miền. Chẳng hạn như chương trình Lễ hội Đất Phương Nam (lễ hội văn hóa dân gian vùng Đồng bằng Nam Bộ), Du lịch Điện Biên (Lễ hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự kiện chính trị: 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ), Con đường di sản Miền Trung (Lễ hội dân gian kết hợp tham quan những di sản văn hóa được UNESCO công nhận)… là những hoạt động của du lịch văn hóa thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Trong số đó, Festival Huế được xem là hoạt động du lịch văn hóa đặc sắc nhất Việt Nam, lễ hội được tổ chức thường xuyên hai năm một lần, với sự hỗ trợ của Chính phủ Pháp. Festival Huế 2006 là lần thứ tư Việt Nam có dịp giới thiệu với du khách về lễ hội dân gian của miền Trung đặc biệt là Nhã nhạc cung đình Huế – một di sản phi vật thể được UNESCO công nhận và Lễ tế Đàn Nam Giao – một lễ hội vương triều thất truyền từ hàng chục năm nay. Với các vấn đề được đề cập ở trên, chúng tôi thấy để phát triển được du lịch ở Việt Nam, sinh viên cần phải biết đi du lịch đúng cách và phải biết kết hợp các loại hình du lịch để vừa phát huy được những thế mạnh du lịch của Việt Nam, vừa phù hợp với nhu cầu và sở thích của mình. Còn cuốn sách “Du lịch văn hóa ở Việt Nam” của TS Thu Trang Công Thị Nghĩa, tác phẩm này không hề đề cập đến du lịch của sinh viên. Nhưng tác giả đã xác định được sinh viên là bộ phận khách hàng tiềm năng, vì vậy tác giả đã chọn đối tượng nghiên cứu là sinh viên, sau đó đưa ra những nhận xét về du lịch ở Việt Nam. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về các nội dung: Điều kiện cần có của người hướng dẫn du lịch; Định nghĩa sản phẩm du lịch tổng quát; Những tiềm năng sáng tạo của sản phẩm du lịch Việt Nam; Du lịch Việt Nam từ năm 2000. 7 Tác phẩm này không nghiên cứu hẳn các loại hình du lịch nhưng chỉ nói những điều cần thiết để ngành du lịch phát triển. Do đó, chúng tôi đã dựa vào những điều kiện đó để đưa ra những kiến nghị để phát triển du lịch ở sinh viên. Ở chương một, tác giả đề cập tới “Điều kiện cần có của người hướng dẫn du lịch”. Trong chương này, tác giả yêu cầu người hướng dẫn phải có trình độ tri thức tổng quát về tất cả các lĩnh vực, nhất là đối với hướng dẫn viên du lịch ở Việt Nam. Người hướng dẫn phải trang bị kiến thức văn hóa tổng hợp thật nghiêm túc, nhiều khi phải đi vào chuyên ngành. Điều căn bản là đội ngũ hướng dẫn phải có trình độ đại học. “Tuyến du lịch văn hóa tất nhiên cũng có nhiều giá khác nhau. Đáng chú ý là đôi khi những nước có rất nhiều di tích văn hóa, lịch sử, nghệ thuật lâu đời nhưng tại chỗ họ lại không đáp ứng nhu cầu của khách trí thức, hay chuyên ngành. Do đó, những nhà làm khoa học nhân văn đã sẵn sàng đóng vai hướng dẫn” 2. Tác giả cũng đề cập đến: Sinh viên tốt nghiệp nhiều khoa khác nhau như Khảo cổ, Lịch sử, Văn học, Ngôn ngữ, Ngoại giao, Kinh tế, Thương mại, Xã hội học, Kiến trúc, Địa lý, Nhân chủng học và nhất là tốt nghiệp ngoại ngữ nếu học từ một đến hai năm về kỹ năng hướng dẫn thực hành thì đều có đủ trình độ để trở thành hướng dẫn viên du lịch. Người hướng viên du lịch đặc biệt phải có trình độ ngoại ngữ tốt và vốn kiến thức phong phú. Ngoài ra, “Khi trang bị kiến thức, người hướng dẫn cần biết qua về những nền văn minh, chế độ, tôn giáo của đối tượng du khách, họ từ nước nào đến. Chẳng hạn từ Pháp, từ Anh hay Tây Ban Nha tuy cùng là Âu châu, nhưng có nhiều điều khác nhau, từ phong cách sinh hoạt, đời sống chính trị, văn hóa và văn minh, lịch sử cũng có nhiều khác biệt. Biết người biết ta, mỗi dân tộc đều có niềm tự hào riêng, biết để tránh những mặc cảm, đôi khi có những sự tôn trọng, tự ti không đúng. Những tri thức của người có trình độ sẽ tạo tự tin cho mình, với những đức tính trung dung”.3 Từ đó, người hướng dẫn có những cung cách phục vụ thích hợp với từng du khách. 2 TS Thu Trang Công Thị Nghĩa, (2001), “Du lịch văn hóa ở Việt Nam”, Nxb Trẻ, tr.13. 3 TS Thu Trang Công Thị Nghĩa (2001), Sđd, tr.15. 8 Trong chương ba, tác giả nghiên cứu chuyên sâu về: Những tiềm năng sáng tạo sản phẩm du lịch của Việt Nam. Tác giả đã khảo sát ý kiến của sinh viên về vấn đề du lịch. Sau đó tổng hợp khoảng 300 lời đề nghị của sinh viên xoay quanh đề tài: “Làm thế nào để phát triển du lịch Việt Nam?” . Trong số những ý kiến đó, có một số ý kiến rất quan trọng để phát triển du lịch Việt Nam. Chẳng hạn như: - Làm quảng cáo về Việt Nam. - Hạ thấp giá để lăng xê du lịch Việt Nam. - Tổ chức các cuộc thi trong phạm vi du lịch. - Mời những bữa ăn kiểu Việt Nam khi có dịp ở các nơi. - Tổ chức những buổi trình diễn folkore (ca múa dân gian đích thực). - Tổ chức tại Việt Nam những lễ hội lớn quốc tế. - Phát hành, làm công việc phổ biến lịch sử Việt Nam. - Tổ chức cho du khách ở trong các gia đình người Việt Nam. - Tổ chức các tuyến theo lịch sử kiến trúc. - Tổ chức cho đi làm ruộng. - Tổ chức cho thực tập nấu ăn Việt Nam, làm đồ gốm, hội họa. - Tổ chức những nhà theo kiểu thuần túy Việt Nam cho du khách thuê. - Có giá đặc biệt cho sinh viên. - Tổ chức những chuyến du lịch cho giới trẻ (mọi lứa tuổi). - Sáng tạo những nhà thanh niên (kiểu khách sạn rẻ tiền cho giới trẻ). - Tổ chức cho những nhà kinh doanh nước ngoài hiểu biết văn hóa Việt. - Sáng tạo các loại thi giải quốc tế như: Thả diều, đốt pháo bông, hội tụ các loại xe đạp. Từ những lời đề nghị đó của sinh viên, tác giả đã rút ra được một vài nhận xét: 9 - Du lịch là một phương tiện để giao lưu văn hóa. - Giải trí trong du lịch là phần đa số được định nghĩa trong các hình thức thể thao, thi đấu các môn khác có tính cách văn hóa. - Rút ra một vài ý hay có thể áp dụng ngay trong kinh doanh du lịch. Như vậy, tác phẩm này đã đi sâu nghiên cứu du lịch ở Việt Nam theo hướng đưa ra những yêu cầu cần thiết để phát triển du lịch Việt Nam. Những yêu cầu đó không chỉ áp dụng cho một loại hình du lịch mà áp dụng cho tất cả các loại hình du lịch. Du lịch Việt Nam muốn phát triển được phải thực hiện các yêu cầu mà tác giả đã đề cập đến và muốn phát triển du lịch trong sinh viên cũng cần phải có những yếu tố đó. Qua việc đọc các tài liệu tiếp cận được, chúng thấy nhận thấy đã có một vài tác phẩm viết về du lịch và đặc biệt là các loại hình du lịch nhưng đa phần vẫn mang tính chất giới thiệu, tìm hiểu một cách chung nhất các loại hình du lịch mà chưa có tác phẩm nào đi sâu nghiên cứu về các loại hình du lịch của sinh viên. Đây chính là tính mới mẻ của đề tài chúng tôi. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu này, chúng tôi chọn và giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các loại hình du lịch của sinh viên năm 3, năm 4 trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh. Việc lựa chọn đối tượng sinh viên do chúng tôi xác định sinh viên là tầng lớp trí thức trẻ, những người hiện tại chưa có nguồn thu nhập nhưng lại có những nhu cầu về du lịch cao, đây chính một bộ phận khách hàng tiềm năng lớn cho ngành du lịch. Xác định địa bàn nghiên cứu là trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn vì: - Nhận thấy nhu cầu du lịch của sinh viên trong trường rất lớn. Không những thế, sinh viên trong trường có rất nhiều loại hình du lịch khác nhau. Vì thế, nhóm nghiên cứu muốn tập hợp các loại hình du lịch đó lại để học tập và phát triển. 10 - Nhóm nghiên cứu đề tài đang là sinh viên năm III, nên việc chọn địa điểm nghiên cứu trên là phù hợp với điều kiện học tập và tìm hiểu của nhóm tác giả. 4. Cơ sở lí luận và giả thuyết nghiên cứu 4.1. Thao tác hóa khái niệm Để thực hiện đề tài “Tìm hiểu các loại hình du lịch của sinh viên” trước hết cần xác định rõ một số thuật ngữ liên quan đến nội dung của đề tài như: du lịch, lữ hành, các loại hình du lịch, du khách, … Từ đó sẽ tạo nên một cách hiểu đồng nhất về các quan điểm trong đề tài. Cũng như các thuật ngữ khác, tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu, hoàn cảnh… mà con người đưa ra những định nghĩa khác nhau về du lịch và những vấn đề liên quan. Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn tứ tiếng Pháp, “tour” nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Trong Tiếng Việt, được dịch thông qua tiếng Hán: “du” có nghĩa là chơi, “lịch” có nghĩa là từng trải. Theo tổ chức du lịch quốc tế (trong hội nghị Manila – 1980) du lịch được định nghĩa: “Việc lữ hành của mọi người bắt đầu từ mục đích không phải di cư và một cách hòa bình, hoặc xuất phát từ mục đích thực hiện sự phát triển cá nhân về các phương tiện kinh tế – xã hội, văn hóa và tinh thần, cùng với việc đẩy mạnh sự hiểu biết và hợp tác giữa mọi người”4 Theo các học giả Trung Quốc: “Du lịch là một hiện tượng kinh tế – xã hội, nảy sinh trong điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, là sự tổng hòa tất cả các quan hệ và hiện tượng do việc lữ hành để thỏa mãn mục đích chủ yếu là nghỉ ngơi, tiêu khiển, giải trí và văn hóa nhưng lưu động chứ không định cư mà tạm thời cư trú của mọi người dẫn tới”5 Tóm lại, du lịch vừa là một ngành kinh tế vừa là một hiện tượng xã hội và có thể được hiểu là: 4 Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2000), "Kinh tế du lịch & du lịch học", Nxb Trẻ, Tr. 11 5 Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2000), sđd, Tr. 13 11 - “Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng. - Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh”.6 Cũng cần phân biệt khái niệm du lịch và lữ hành, ở đây cần nhấn mạnh rằng lữ hành không phải là du lịch. “Sự khác biệt chủ yếu trong nội hàm của hai khái niệm này trước hết là mục đích khác nhau, lữ hành phần lớn có mục đích chính trị, kinh tế, tôn giáo, khoa học kỹ thuật, thưởng ngoạn phong cảnh, du lãm đơn nhất; còn du lịch là sự phát triển tự nhiên của cơ sở vật chất và văn hóa của loài người, là dấu hiệu về việc sự phát triển của sản xuất và sinh hoạt đã bước vào giai đoạn lịch sử mới. Thứ hai là nội dung hoạt động khác nhau, hoạt động lữ hành khá đơn giản, thỏa mãn việc đi lại, ăn ở là được, còn du lịch không những yêu cầu cao hơn về ba mặt ấy (mau lẹ, thuận tiện, an toàn, thoải mái, vệ sinh) mà còn yêu cầu thỏa mãn các nhu cầu du lãm, vui chơi, mua sắm. Ngoài ra, ảnh hưởng của chúng đối với xã hội cũng khác nhau, lữ hành thì số người có hạn, khu vực có hạn, nội dung đơn nhất không có ảnh hưởng lớn đối với xã hội; còn du lịch hiện đại đã trở thành hoạt động mang tính đại chúng, trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến”.7 Trong du lịch không thể thiếu du khách. Vậy du khách là gì? Cũng đã có rất nhiều định nghĩa về du khách, chúng ta có thể khái quát như sau: Du khách là “người từ nơi khác đến với/ hoặc kèm theo mục đích thẩm nhận tại chỗ những giá trị vật chất, tinh thần hữu hình hay vô hình của thiên nhiên và/ hoặc 6 Trần Đức Thanh (2005), “Nhập môn khoa học du lịch”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Tr.14 7 Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (chủ biên), (2001), Sđd, tr.8. 12 của cộng đồng xã hội. Về phương diện kinh tế, du khách là người sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp du lịch như lữ hành, lưu trú, ăn uống… Cần phải phân biệt hai loại du khách cơ bản. Những người mà chuyến đi của họ có mục đích chính là nâng cao hiểu biết tại nơi đến về các điều kiện, tài nguyên tự nhiên, kinh tế, văn hóa được coi là du khách thuần túy. Ngược lại, có những người thực hiện chuyến đi vì một mục đích khác như công tác, tìm kiếm cơ hội làm ăn, hội họp…trên đường đi hay tại nơi đến, những người này sắp xếp được thời gian cho việc tham quan, nghỉ ngơi. Khi đó, họ mới được coi là du khách. Để nói lên sự kết hợp đó, chuyến đi của họ được gọi là du lịch công vụ, du lịch thể thao, du lịch tôn giáo”.8 Chưa có nghiên cứu du lịch nào có thể khẳng định chắc chắn thế nào là loại hình du lịch. Mà chỉ có thể thông qua hoạt động du lịch để chia ra các loại hình du lịch. Có nhiều cách phân loại khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, quan điểm của người nghiên cứu: theo mục đích chuyến đi, theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch, theo phương tiện giao thông, theo loại hình lưu trú, theo độ dài chuyến đi, …. - Phân loại theo môi trường tài nguyên: Tùy vào môi trường tài nguyên mà hoạt động du lịch được chia thành hai nhóm lớn là du lịch văn hóa và du lịch thiên nhiên. - Phân loại du lịch theo mục đích chuyến đi: Bao gồm các loại hình: + Du lịch tham quan: tham quan là hành vi quan trọng của con người để nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh. Hoạt động tham quan là một trong những hoạt động để chuyến đi được coi là chuyến du lịch. + Du lịch giải trí: Mục đích chuyến đi là thư giãn, xả hơi, bứt ra khỏi công việc thường nhật căng thẳng để phục hồi sức khỏe. 8 Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (chủ biên), (2001), Sđd, tr.20. 13 + Du lịch lễ hội: Lễ hội là một yếu tố rất hấp dẫn du khách. Khôi phục các lễ hội truyền thống, tổ chức các lễ hội mới không chỉ là mối quan tâm của các cơ quan, đoàn thể quần chúng, xã hội mà còn là một hướng quan trọng của du lịch. + Du lịch tôn giáo: Kết hợp du lịch trong chuyến đi vì mục đích tôn giáo. Từ xa xưa, du lịch tôn giáo là loại hình du lịch khá phổ biến. Ngày nay, du lịch tôn giáo được hiểu là các chuyến đi của du khách chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu thực hiện các nghi lễ tôn giáo của tín đồ, hay tìm hiểu, nghiên cứu tôn giáo của người dị giáo. Điểm đến của các luồng du khách này là chùa chiền, nhà thờ, thánh địa… + Du lịch nghiên cứu (học tập): Kết hợp du lịch trong chuyến đi vì mục đích học tập, nghiên cứu. Loại hình du lịch này ngày càng trở nên phổ biến do nhu cầu kết hợp học tập lý thuyết với tìm hiểu thực tiễn, học đi đôi với hành. Nhiều môn học, ngành học cần có hiểu biết thực tế như địa lý, địa chất, lịch sử, khảo cổ, môi trường, sinh học, … Thông thường hướng dẫn viên du lịch là các thầy cô giáo phụ trách chuyên môn ở các trường. + Du lịch thăm thân: Kết hợp du lịch trong chuyến đi vì mục đích thăm thân - Phân loại theo lãnh thổ hoạt động: + Du lịch quốc tế: bao gồm du lịch đón khách và du lịch gửi khách. + Du lịch nội địa: Các hoạt động tổ chức, phục vụ người trong nước đi du lịch, nghỉ ngơi và tham quan. + Du lịch quốc gia: Hoạt động du lịch của một quốc gia từ việc gửi khách ra nước ngoài đến việc phục vụ khách trong và ngoài nước tham quan, du lịch trong phạm vi nước mình. - Phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch bao gồm: + Du lịch miền biển: Du khách tham gia các hoạt động du lịch biển như tắm biển, thể thao biển, … ngoài ra còn có lặn biển. + Du lịch núi: 14 + Du lịch đô thị: Các thành phố, trung tâm hành chính có sức hấp dẫn với các công trình kiến trúc lớn có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. + Du lịch thôn quê: Du khách đi du lịch thôn quê để tận hưởng không khí trong lành, cảnh vật thanh bình và không gian thoáng đãng nhằm phục hồi sức khoẻ. - Phân loại theo loại hình di trú: Bao gồm Khách sạn, Motel, Nhà trọ thanh niên, Camping, Bungalow, Làng du lịch. + Camping: Là một khu vực mà ở đó người ta phân lô theo một quy hoạch nhất định. Tại các lô này, bằng các vật liệu khác nhau người ta tạo nên các nền (ví dụ bằng xi măng, bằng chất dẻo, bằng gỗ hoặc tre nứa, ….. ). Đoàn du khách có thể chọn thuê một địa điểm để dựng lều trại. Loại hình du lịch này thường được thanh niên sinh viên ưa chuộng.9 - Phân loại theo độ dài chuyến đi: Những chuyến du lịch được thực hiện trong thời gian dưới một tuần lễ được coi là du lịch ngắn ngày. Du lịch dài ngày có thể tiêu tốn thời gian đến gần một năm. - Phân loại theo hình thức tổ chức: bao gồm du lịch tập thể, du lịch cá thể và du lịch gia đình. - Phân loại theo phương thức hợp đồng: Bao gồm du lịch trọn gói và du lịch từng phần. Đây là những khái niệm về các loại hình du lịch được phân theo các hình thức khác nhau. Ngoài ra, chúng ta còn có khái niệm Điểm du lịch là “những chỗ hoặc cơ sở mà khách du lịch hướng đến và lưu trú, điểm du lịch có thể là những chỗ không có dân cư. Trong kinh tế du lịch, điểm du lịch là một nơi, một vùng hay một đất nước có sức hấp dẫn đặc biệt đối với dân ngoài địa phương và có những thay đổi nhất định trong kinh tế do hoạt động du lịch gây nên”.10 Chính vì vậy, trong đề tài chúng tôi nghiên cứu, chúng tôi sẽ áp dụng định nghĩa các loại hình du lịch được phân theo mục đích của chuyến đi bao 9 Trần Đức Thanh (2000), sđd, tr.85 Trần Đức Thanh (2000), Sđd, tr.112. 10 15 gồm du lịch tham quan, dã ngoại, du lịch giải trí, du lịch nghiên cứu học tập, … kết hợp với phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch bao gồm du lịch miền biển, du lịch núi, du lịch đô thị, du lịch thôn quê; kết hợp với phân loại theo loại hình lưu trú bao gồm Camping (Cắm trại). Ngoài ra, còn kết hợp với phân loại theo độ dài chuyến đi bao gồm du lịch ngắn ngày và du lịch dài ngày; phân loại theo hình thức tổ chức bao gồm du lịch tập thể, du lịch cá thể và du lịch gia đình. Đây là các cách phân loại loại hình du lịch mà chúng tôi sẽ sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. 4.2. Giả thuyết nghiên cứu: Để có thể giải quyết được vấn đề một cách sâu sắc và xác định hướng nghiên cứu của đề tài, đồng thời đáp ứng một cách đấy đủ và hoàn chỉnh nội dung đề tài, chúng tôi đưa ra một số giả thuyết có tính chất khái quát như sau: - Sinh viên có nhu cầu lớn về giải trí bằng hình thức du lịch, điều này phản ánh đúng thực tế vì sinh viên muốn có thêm thật nhiều kiến thức nhất là kiến thức về vấn đề học tập, thì không có gì dễ hơn bằng con đường đi du lịch. Đây là nhu cầu hết sức cần thiết đối với sinh viên hiện nay. - Sinh viên có nhiều hình thức du lịch đa dạng và phong phú. Nhưng các hình thức này không được phổ biến rộng rãi trong sinh viên. Tuy nhiên, hoạt động du lịch của sinh viên chỉ lại tập trung vào một số loại hình gắn liền với việc học tập, nghiên cứu tìm hiểu của sinh viên. Tóm lại, việc thực hiện đề tài nghiên cứu của chúng tôi chỉ thực hiện tại một địa điểm, điển hình là trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh. Giới hạn nghiên cứu không phải là khái quát về du lịch mà chỉ gói gọn trong các loại hình du lịch của sinh viên, với các loại hình chủ yếu như du lịch Cắm trại, du lịch biển, du lịch thôn quê… . Mặt khác, chúng tôi nêu ra thực trạng của loại hình du lịch này, tìm ra hướng giải quyết, đồng thời đưa ra một mô hình dự kiến có thể áp dụng ở một số nơi. 16 5. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu, khảo sát, sưu tầm về các loại du lịch của sinh viên là một công việc không dễ, đòi hỏi người nghiên cứu phải thực hiện một cách tỉ mỉ và sâu sắc. Do đó, trong đề tài này, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp của Nhân học nhằm giải quyết vấn đề hiệu quả và tối ưu nhất như sau: - Phương pháp quan sát tham dự: (Particcipant Observation) yêu cầu người nghiên cứu phải tham gia vào trong đời sống cộng đồng mà mình nghiên cứu. Vì địa bàn nghiên cứu là trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, là nơi nhóm nghiên cứu học tập. Vì vậy, nhóm nghiên cứu có nhiều cơ hội để tham gia vào các chuyến tham quan, du lịch của sinh viên các khoa trong trường. Quan sát các chuyến du lịch của sinh viên, do sinh viên tự tổ chức, ghi chép lại, cùng tham gia chuyến du lịch . Trong quá trình tham quan chuyến du lịch chúng tôi luôn chú ý quan sát số lượng, thái độ của các sinh viên tham gia. Chẳng hạn, chuyến cắm trại/ dã ngoại do BCH Đoàn trường tổ chức tại Củ Chi, chuyến du lịch kết hợp với thực tế của khoa địa lý tổ chức cho sinh viên đi Vũng Tàu, chuyến du lịch cắm trại của sinh viên Khoa Nhân học, … - Phương pháp phỏng vấn sâu (In-dept interviewing) (còn gọi là phương pháp phỏng vấn sâu Dân tộc học): là phương pháp lấy thông tin từ các thành viên trong cộng đồng bằng các cuộc đối thoại có chủ định. Trong phương pháp này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nhỏ hơn là chuyện trò không chính thức, phỏng vấn sâu không cơ cấu (không có danh mục câu hỏi soạn sẵn) và phỏng vấn sâu cơ cấu hoá (có danh mục các câu hỏi sẽ hỏi). Tuỳ theo từng vấn đề, từng hoàn cảnh, đối tượng cụ thể mà nhóm nghiên cứu dùng các phương pháp phỏng vấn sâu thích hợp. Để thực hiện phương pháp này, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn các sinh viên trong trường đã từng tổ chức du lịch và các trưởng nhóm du lịch trong trường, các sinh viên đóng vai trò là hướng dẫn viên du lịch trong các “tour” do họ tổ chức. Từ đó thấy được thực trạng các loại hình du lịch của sinh viên trong nghiên cứu du lịch. 17 - Phương pháp thu thập và xử lý thông tin định lượng: thông qua khảo sát, thống kê bằng kĩ thuật bảng hỏi. Đối tượng khảo sát của đề tài là sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn. Chúng tôi đưa ra những số liệu khảo sát định lượng chỉ mang tính tương đối. Do vấn đề về thời gian và kinh phí, nên khi thực hiện phương pháp này, chúng tôi đã chọn mẫu một số khoa trong trường như khoa Xã Hội Học, Nhân học, Ngữ văn Trung Quốc để từ đó đưa ra những số liệu cụ thể. - Phương pháp so sánh đối chiếu: nhằm so sánh các loại hình du lịch do sinh viên tự tổ chức với các loại hình du lịch do các công ty du lịch lữ hành tổ chức về hình thức, nội dung và phương thức thực hiện du lịch. Từ đó làm nổi lên các loại hình du lịch do sinh viên tự tổ chức. Để có thể thực hiện được tốt phương pháp này, chúng tôi cố gắng tìm đọc các vấn đề liên quan đến du lịch trong các tác phẩm của TS. Thu Trang Công Thị Nghĩa, PGS. TS. Trương Quốc Bình, Nguyễn Thị Chiến … cũng như trên các website: http://Vietnamtourism.com.vn, http://Saigontourism.com.vn, http:// Vietnamtourism.gov.vn cũng như các nghiên cứu về chúng. 6. Đóng góp mới của đề tài: Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã đưa ra một số đóng góp mới đó là tìm hiểu được một số loại hình du lịch của sinh viên, mang những nét đặc trưng riêng của sinh viên. Ngoài ra, chúng tôi cũng chỉ ra được hoạt động du lịch của sinh viên trong trường phát triển như thế nào. Qua đó, thấy được nhu cầu, thực trạng của vấn đề du lịch và đưa ra các loại hình du lịch của sinh viên. Sau đó, đưa ra giải pháp du lịch trong sinh viên. 7. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn - Ý nghĩa lí luận: Đề tài chúng tôi nghiên cứu góp phần bổ sung vào cách phân loại loại hình du lịch nói chung và phân loại các loại hình du lịch của sinh viên nói riêng. Tìm hiểu về các loại hình du lịch sinh viên, cũng như các hình thức du lịch, từ đó đưa ra một số mô hình du lịch của sinh viên.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan