ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--- ---
LÊ HUYỀN TRANG
TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH TRONG
QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA DÂN GIAN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS PHAN THỊ THU HIỀN
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2014
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Quý thầy cô Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, quý
thầy cô giảng dạy lớp cao học Văn học Việt Nam khóa 01 năm
2010-2012 đã tận tình giảng dạy giúp chúng tôi hoàn thành
chương trình học.
PGS. TS. Phan Thị Thu Hiền, người thầy giúp tôi thực hiện
luận văn với tất cả lòng nhiệt tình và sự chu đáo.
Phòng đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận
lợi cho chúng tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận
văn.
Tôi gửi lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè – những
người đã không ngừng giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu đề tài này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2014
Lê Huyền Trang
--1--
MỤC LỤC
_Toc376785457
DẪN NHẬP ........................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................4
3. Mục đích nghiên cứu ...........................................................................................9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................9
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu .......................................................10
6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................11
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................11
CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................... 13
1.1. Quan hệ giữa văn học viết và văn hóa dân gian .............................................13
1.1.1 Khái niệm Văn hóa dân gian .....................................................................13
1.1.2 Quan hệ giữa văn học viết và văn hóa dân gian ........................................15
1.1.3 Hướng nghiên cứu văn học viết trong quan hệ với văn hóa dân gian .......19
1.2. Tác giả và tác phẩm Nguyễn Xuân Khánh trong quan hệ với văn hóa dân
gian…………………………………………………………………………………………………………………..21
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh trong quan hệ
với văn hóa dân gian .......................................................................................................... 21
1.2.2 Văn hoá dân gian trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Xuân Khánh ..... 25
CHƢƠNG II. NỘI DUNG TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH
TRONG QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA DÂN GIAN ............................................... 29
2.1. Tâm thức làng quê trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh ............................29
2.1.1 Hình ảnh làng quê......................................................................................30
2.1.2 Lối sống làng quê ......................................................................................38
2.2. Đạo Mẫu và nguyên lý nữ tính trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh.........44
2.2.1 Đạo Mẫu ....................................................................................................45
2.2.2 Nguyên lý nữ tính ......................................................................................51
2.3. Sức sống phồn thực trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh ..........................58
--2--
2.3.1. Ngôn ngữ thân thể ....................................................................................59
2.3.2. Hành động tính giao .................................................................................64
2.4 Ảnh hưởng Phật giáo dân gian trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh ..........68
2.4.1 Phật giáo dân gian Việt Nam.....................................................................68
2.4.2 Tính nhập thế của Phật giáo dân gian .......................................................70
2.4.3 Tính thực tiễn, tính bình dân của Phật giáo dân gian ................................75
CHƢƠNG III. HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT NGUYỄN
XUÂN KHÁNH TRONG QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA DÂN GIAN ............. 84
3.1. Yếu tố kì diệu..................................................................................................84
3.1. 1. Chi tiết kì diệu .........................................................................................84
3.1.2. Không gian vừa thực vừa ảo ....................................................................89
3.2. Motif dân gian.................................................................................................93
3.2.1. Motif giấc mơ ...........................................................................................94
3.2. 2. Motif nhân vật dị dạng ............................................................................97
3.3 Ngôn ngữ và kết cấu dân gian .......................................................................102
3.3.1 Ngôn ngữ .................................................................................................102
3.3.2 Kết cấu .....................................................................................................105
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 116
--3--
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Trong nhiều năm gần đây nghiên cứu văn học trong mối quan hệ với văn
hóa, nhất là văn hóa dân gian đã trở thành một khuynh hướng nổi bật với nhiều
công trình có giá trị. Bởi tác phẩm văn học là thành quả, tinh hoa văn hóa truyền
thống của một dân tộc. Nó kết tinh trong mình những giá trị đạo đức, tư tưởng,
ngôn ngữ… mà cả dân tộc đó đã xây dựng và lưu giữ qua hàng ngàn năm tồn tại.
Và nhà văn, chủ thể của quá trình sáng tạo cũng là sản phẩm văn hóa. Họ sinh ra,
lớn lên trong cái nôi văn hóa truyền thống của dân tộc, văn hóa dân gian, hấp thu
những gì tinh túy nhất để chuyển tải vào tác phẩm, thông qua những hình tượng văn
học gửi gắm một thông điệp, một ý nghĩa tinh thần nào đó. Bên cạnh đó, với kho
tàng kiến thức, nghệ thuật…đồ sộ của mình, văn hóa dân gian đã trở thành đối
tượng hấp dẫn, và là nguồn cảm hứng vô tận cho hoạt động sáng tác văn chương.
Nó ảnh hưởng không chỉ trong nội dung tư tưởng mà còn tác động đến cả hình thức
nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó cho thấy giữa văn học và văn hóa, văn hóa dân gian
có mối quan hệ bền chặt, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Nghiên cứu tác phẩm văn học trong mối quan hệ với văn hóa dân gian, đi tìm
những tầng nghĩa ẩn sâu trong mỗi tác phẩm, qua những hình tượng, là cách thức,
phương pháp nghiên cứu văn học được nhiều nhà nghiên cứu lựa chọn. Một số công
trình tiêu biểu như: Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của nhà
nghiên cứu Trần Nho Thìn, hay công trình Hồ Xuân Hương, Hoài niệm phồn thực
của tác giả Đỗ Lai Thúy...đã chứng minh tính đúng đắn và hấp dẫn của hướng
nghiên cứu Văn học trong mối quan hệ với văn hóa dân gian.
Nguyễn Xuân Khánh viết không nhiều, chỉ chừng trên dưới chục đầu sách.
Trong khoảng chục năm trở lại đây, ông đặc biệt nổi lên với ba tác phẩm: Mẫu
thượng ngàn, Hồ Quý Ly, mới nhất là Đội gạo lên chùa. Trong mỗi tác phẩm, tác
giả đều khắc họa rõ nét hình ảnh con người và đất nước Việt Nam tươi đẹp trong
những giá trị văn hóa truyền thống. Những nét đẹp trong cách ứng xử, những lễ hội
--4--
phong tục dân gian, những biểu tượng thiên tính nữ... cũng được tác giả chuyển hóa
thành những hình tượng nghệ thuật giàu sức biểu hiện. Bên cạnh đó ảnh hưởng của
thi pháp dân gian đối với tác phẩm Nguyễn Xuân Khánh cũng là một đặc điểm dễ
nhận dạng. Hầu hết các sáng tác của ông được bao trùm bởi không gian huyền ảo
những motif, ngôn từ dân gian…tạo nên sự gần gũi giữa tác phẩm và tâm thức
người tiếp nhận.
Với những giá trị, thành tựu mà Nguyễn Xuân Khánh đã mang lại, và với
mong muốn tìm tòi nghiên cứu một “nguồn mạch” đầy hấp dẫn trong việc khám
phá văn chương, người viết hy vọng rằng việc nghiên cứu tác phẩm của ông trong
mối tương quan với văn hóa dân gian sẽ góp phần làm rõ thêm những đóng góp quý
báu của ông cho nền văn học dân tộc, khẳng định những giá trị ẩn tàng trong tác
phẩm Mẫu thượng ngàn, Hồ Quý Ly và Đội gạo lên chùa. Đó là lý do mà người viết
chọn đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong mối quan hệ với văn hóa dân
gian ” để thực hiện luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
Tháng 10 năm 2012, Viện Văn Học đã tổ chức tọa đàm: Lịch sử và văn hóa,
cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh. Buổi tọa đàm thu hút 30 tham luận của
các nhà văn, nhà giáo, các nhà lý luận, phê bình văn học từ Viện Văn học, Đại học
Sư phạm Hà Nội, Đại học Văn hóa, Đại học khoa học Huế, Đại học Hồng Đức...
tham gia. Buổi tọa đàm là cơ hội để những ai quan tâm đến tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh tham gia đóng góp ý kiến. Hầu hết các tác giả đều cho rằng Nguyễn
Xuân Khánh là tác giả tâm huyết với văn hóa dân gian Việt, có khả năng làm việc
không mệt mỏi, một nội lực văn chương dày dặn. Tại buổi tọa đàm, các nhà nghiên
cứu cũng chỉ ra những hạn chế mà tác giả cần khắc phục.
Trong buổi tọa đàm, tác giả Khánh Phương với tham luận “Kể chuyện” của
Nguyễn Xuân Khánh tìm thấy ở tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh một thế giới tràn
đầy tình yêu và dục tính. Hình tượng nhân vật nữ phong phú, nhân vật nào cùng
tràn đầy vẻ đẹp phồn thực, tiềm tàng nguồn sống bao dung nhân hậu, là những biểu
--5--
tượng tuyệt với thiên tính Nữ trong tâm thức dân tộc. Sức sống phồn thực, nguyên
lý Nữ tính ấy là cội nguồn sức mạnh đưa dân tộc đi qua những thời khắc sinh tử.
Tác giả Khánh Phương khẳng định “Ngoài ý nghĩa lý tưởng hóa, hình tượng người
nữ hay tính Nữ trong tiểu thuyết của NXK còn được thuần nhất hóa để trở thành
biểu tượng của hóa giải, sức sống mãnh liệt không bao giờ có thể bị khuất phục hay
hủy hoại” [93].
Trong khi tác giả Mạnh Hoài Nam đi sâu nghiên cứu sự đan bện giữa văn
hóa- phong tục như là một phẩm chất trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh thì tác
giả Phan Tuấn Anh cho rằng về nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh có tính
chất đa thanh, nhân vật được nhìn nhận theo nhiều hướng khác nhau. Phan Tuấn
Anh còn khẳng định: “ Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh là nỗ lực bênh vực và đi
tìm một chỗ đứng trang trọng, trung tâm cho những số phận và thân phận bé nhỏ,
mà nói rộng ra, là toàn thể nhân dân lầm than trong lịch sử. Nhà văn đã cả gan va
chạm đến tất cả những con rồng, ở ngay cái vảy ngược của nó, là nhằm để phản
tỉnh và đề cao nhân dân, để chiêu tuyết và cầu siêu cho những vết thương, hi sinh
và nỗi đau của dân tộc dưới cuộc chiến của những con rồng, những cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm trong lịch sử”. [25: 107].
Có thể nói các nhà nghiên cứu, phê bình và các độc giả quan tâm đến sáng
tác của Nguyễn Xuân Khánh đều nhận định: Hấp dẫn trong hình thức thể hiện, khai
thác sâu những vấn đề văn hóa, lịch sử dân tộc; nội lực công phu trong cách thể
hiện vấn đề; tác phẩm có độ dày về văn hóa và dung lượng với mỗi tác phẩm trên
dưới một ngàn trang. Tất cả những đặc sắc đó đã khiến cho tác phẩm có sức hút khó
cưỡng đối với độc giả. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn có nhiều ý kiến đáng trân
trọng về những hạn chế mà tác giả chưa vượt qua được. Điều đó chứng tỏ sự ảnh
hưởng và sức lôi cuốn của tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong văn học Việt Nam
đương đại.
30 tham luận tham gia đóng góp tại buổi tọa đàm là 30 cách nhìn nhận, ý
kiến khác nhau về Lão mai Nguyễn Xuân Khánh, và những bài nghiên cứu đăng rải
--6--
rác ở các tạp chí đã nhận xét, đánh giá khá sâu sắc về những ưu nhược điểm của
tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Những tham luận có chất lượng đã được in thành
sách: Lịch sử và văn hóa- cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh. Có thể nói, đây
là công trình đánh giá khách quan ưu điểm và nhược điểm của bút pháp Nguyễn
Xuân Khánh qua bộ ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên
chùa.
Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu cũng có bình luận, đánh giá về tiểu thuyết
Nguyễn Xuân Khánh đăng trên các tạp chí, các website văn học. Trong đó đáng chú
ý nhất là ý kiến của nhà văn Nguyên Ngọc khi nhận xét về tiểu thuyết Mẫu Thượng
Ngàn, nhấn mạnh những giá trị văn hóa được tích hợp trong tác phẩm, khẳng định
nội lực dồi dào cũng như những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của Nguyễn Xuân
Khánh với thái độ trân trọng với những gì tác giả làm được.
Nhà thơ Hoàng Việt Hằng nhận xét rằng cả Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng
Ngàn là những quyển sách “tầm cỡ” trong làng văn Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Riêng với Đội gạo lên chùa, nhà văn Nguyễn Khắc Phê trên báo Phụ nữ
Thành phố Hồ Chí Minh số ra ngày 17-6-2011, nhận định: Không ít tiểu thuyết đã
viết về đề tài tương tự, nhưng khác với các nhà văn khác, Nguyễn Xuân Khánh đặt
ngôi ch a và những nhà sư trong bối cảnh đặc biệt, lấy Phật giáo làm điểm nhìn để
soi rọi, suy ngẫm về các sự kiện, các nhân vật không chỉ đối đầu theo kiểu “địch-ta”
mà mỗi người còn có cuộc đấu tranh gay go với lẽ sống, đạo lý của mình, nhờ đó,
“Đội gạo lên chùa” có ý nghĩa sâu rộng, chạm đến những vấn đề muôn thuở của
kiếp người…
Trên báo Quân đội nhân dân, Nguyễn Văn T ng cho rằng tiểu thuyết
Nguyễn Xuân Khánh lôi cuốn người đọc bởi lối viết truyền thống nhưng lời văn
được trau chuốt nhuần nhuyễn, trường hiện thực phong phú. Mỗi tác phẩm, mỗi
--7--
nhân vật là những triết lý nhân sinh về cuộc đời, về đất nước mà tác giả muốn gửi
gắm.
Trong khi đó, nhà nghiên cứu Lã Nguyên trong bài viết: Những cách tân về
nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh nhận định đổi mới nguyên tắc
truyện kể và sử dụng kết cấu như một ngôn ngữ nghệ thuật đầy sức mạnh, có khả
năng bao quát trường hiện thực rộng lớn là những cách tân quan trọng về nghệ thuật
cuả Nguyễn Xuân Khánh. Ngoài ra, tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh còn “mở rộng
“khung” văn bản, tạo ra một không gian lịch sử có chiều sâu, chứa đựng nhiều lớp
văn hoá truyện kể còn lưu giữ trong kí ức nhân loại, mang lại cho chúng những nét
nghĩa mới mẻ. Văn hoá xử thế và cặp đối lập “âm – dương” là mã tạo nghĩa truyện
kể trong ba cuốn tiểu thuyết gần đây của Nguyễn Xuân Khánh. Dựa vào bộ mã
nghệ thuật này, ông đã biến một chủ đề trung tâm liên quan liên quan tới vận mệnh
dân tộc trong suốt hàng ngàn năm lịch sử thành ba khúc biến tấu mang tên Hồ Quý
Ly, Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa”[89]. Bên cạnh những thành tựu đạt
được, nhà nghiên cứu Lã Nguyên còn chỉ ra những hạn chế nghệ thuật trong tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh: Biến nhân vật thành một hệ thống điểm nhìn phát
ngôn cho tư tưởng tác giả, cản trở nhà văn trong việc sử dụng khẩu ngữ và lớp ngôn
từ đậm chất văn xuôi. Vì thế, dẫu có nhiều cách tân nghệ thuật thế nào, bộ ba tiểu
thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa vẫn không vượt ra ngoài
khuôn khổ của “lối viết cổ điển”.
Đi sâu vào vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, tác giả Nguyễn Thị
Thu Hương đã nghiên cứu khá sâu về cách xây dựng nhân vật lịch sử, nhân vật hư
cấu trong Hồ Quý Ly. Từ đó, khẳng định tài năng Nguyễn Xuân Khánh trong cách
xây dựng hình tượng nhân vật, khả năng tái hiện chân thực lịch sử. Nguyễn Thị Thu
Hương còn cho rằng “Nguyễn Xuân Khánh hết sức bản lĩnh khi đứng vững giữa
ranh giới mong manh của tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử, giữa ranh giới của sự
thực và hư cấu, nhân vật lịch sử được tái hiện chân thực nhưng vẫn là một hình
--8--
tượng văn học được xây dựng công phu. Tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên một thế
giới nhân vật sống động và phong phú”. [85]
Trên các tạp chí Nghiên cứu văn học, tạp chí Văn hóa nghệ thuật, tạp chí Tôn
giáo…đã xuất hiện nhiều bài viết về tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Mỗi tác giả
xuất phát từ những quan điểm khác nhau đã góp phần làm rõ thêm những ưu,
khuyết điểm trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Trong đó, học giả Nguyễn Văn
Hạnh đã đặt nhiều niềm tin vào nội lực văn chương của Nguyễn Xuân Khánh, đồng
thời chỉ ra những hạn chế mà tác giả cần khắc phục như lối viết không thật mới mẻ;
cái tôi của nhà văn lại thường xuất hiện một cách lộ liễu.
Tác giả Trần Thị An, với bài viết Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong
tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6/2007, đã đặt
không gian của tác phẩm trong bối cảnh văn hóa dân gian Việt Nam ở nhiều thời
điểm để chỉ ra sự tác động của tín ngưỡng dân gian đối với không gian nghệ thuật
của tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn. Trong đó, tác giả chú trọng nghiên cứu tín
ngưỡng dân gian với tư cách là một nội lực cố kết cộng đồng, một phản lực tự vệ
của dân tộc trong những giai đoạn khốc liệt nhất, và là vô thức cộng đồng cần được
khai phóng.
Trong khi đó, Trịnh Thị Lan phân tích khá tỉ mỉ vấn đề ngôn ngữ thân thể
trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh qua bài viết Ngôn
ngữ thân thể trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn. Trong bài viết này, Trịnh Thị
Lan đi tìm vẻ đẹp phồn thực, phồn thực của các nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu
Thượng Ngàn. Với tác giả, ngôn ngữ thân thể trong tác phẩm mang tính chất lưỡng
tính. Nó vừa là thân thể, vừa là tâm hồn, “là sự thể nghiệm tâm hồn thân thể hóa”.
Đặc biệt, trong vẻ đẹp phồn thực ấy còn ẩn chìm cái bề sâu của nền văn hóa Việt
tràn đầy sức sống.
Bên cạnh đó, tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh cũng được quan tâm của
nhiều học viên cao học tại các trường đại học. Trong đó, luận văn thạc sĩ “Những
--9--
đóng góp của Nguyễn Xuân Khánh vào tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam
đương đại (qua hai tác phẩm Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn)” của học viên:
Tống Thị Thanh, Chuyên ngành: Văn học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, xuất bản năm 2010 đã đi tìm những
cách tân về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Trong luận
văn này tác giả đã cố gắng xác định toàn diện những giá trị độc đáo trong cấu trúc
thể loại, các yếu tố thẩm mĩ thể loại và nội dung tư tưởng ở hai tác phẩm Hồ Quý Ly
và Mẫu Thượng Ngàn để thấy được những đóng góp về mặt giá trị nghệ thuật của
tác giả vào tiến trình đổi mới tiểu thuyết đang diễn ra hiện nay.
Tuy nhiên, những tham luận, bài viết nghiên cứu thường tập trung đề cập các
vấn đề riêng biệt trong từng tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh mà chưa có công
trình đi sâu, khát quát tổng quan về tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Đó là mảnh
đất để luận văn Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong mối quan hệ với văn hóa dân
gian tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài: “Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong mối quan hệ với văn hóa
dân gian” chúng tôi nghiên cứu nhằm nhận diện, khám phá những đặc điểm nghệ
thuật, ý nghĩa nội dung tư tưởng của tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh thông qua
những vấn đề văn hóa dân gian được chuyển tải, qua đó góp phần nhận diện, khẳng
định những giá trị, đặc điểm trong sáng tác Nguyễn Xuân Khánh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, nhắc tới Nguyễn Xuân Khánh là nhắc đến Mẫu Thượng Ngàn, Hồ
Quý Ly và Đội gạo lên chùa, là những tiểu thuyết tạo tiếng vang lớn, đem lại nhiều
âm thanh và sắc màu tươi trẻ cho đời sống văn học khá trầm lặng trong giai đoạn
gần đây.
--10--
Do vậy khi nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong quan hệ văn
hóa dân gian, chúng tôi xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu là những tác
phẩm : Mẫu thượng ngàn, Hồ Quý Ly và Đội gạo lên chùa.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
Thực hiện luận văn này chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp văn hóa học- văn học: Sử dụng phương pháp văn hóa học văn
học nhằm vận dụng những quan điểm, lý luận văn hóa học, nhất là văn hóa dân gian
để phân tích, tìm hiểu tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong quan hệ với văn hóa
dân gian.
Phương pháp xã hội học- văn học: Tác phẩm văn học là sự phản ánh đời
sống xã hội. Đó là căn cứ để tìm ra những đặc điểm của văn hóa, tâm lý con người,
vào thời mà tác phẩm văn học ra đời. Đó là cách để có cái nhìn cụ thể, toàn diện
hơn về tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh.
Phương pháp thi pháp học: Đi tìm những đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm
văn học, những đặc trưng thi pháp đã làm nên sức hấp dẫn trong các sáng tác
Nguyễn Xuân Khánh: không- thời gian, nhân vật, kết cấu….
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp tổng hợp những kiến thức,
phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội khác: lịch sử, triết học, văn
hóa học… nhằm làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
Thao tác so sánh, phân tích- tổng hợp….Phân tích trực tiếp văn bản tác phẩm
nhằm khảo sát đưa ra những luận điểm, luận chứng phù hợp về mối quan hệ giữa
tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh và văn hóa dân gian
Phương pháp hệ thống- cấu trúc. Sử dụng phương pháp này nhằm xem xét
tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong quan hệ với văn hóa dân gian về cả nội dung
--11--
và nghệ thuật trên tinh thần hệ thống. Từ đó phân tích các đặc điểm tiểu thuyết
Nguyễn Xuân Khánh.
Về nguồn tư liệu, chúng tôi khảo sát những tài liệu tác phẩm có c ng đặc
điểm nội dung và nghệ thuật như truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Bảo
Ninh, các công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian, quan hệ giữa văn hóa dân
gian và văn học viết…
6. Đóng góp của luận văn
Nguyễn Xuân Khánh, với Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa,
được xem là một trong những tác giả tiêu biểu của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Và với luận văn này, người viết cố gắng đi sâu phân tích những nội dung nghệ thuật
của tác phẩm trong quan hệ với văn hóa dân gian và tìm hiểu những hình tượng điển
hình trong tác phẩm; khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa dân gian trong
đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc. Qua đó hy vọng luận văn sẽ góp thêm một
nguồn tư liệu mới cho những ai quan tâm đến tác phẩm Nguyễn Xuân Khánh.
Chúng tôi cũng hy vọng, kết quả mà đề tài nghiên cứu được góp phần khẳng
định sự đúng đắn của hướng nghiên cứu văn hóa học văn học, nghiên cứu văn học
trong mối quan hệ với văn hóa dân gian, đem đến nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn
giá trị các tác phẩm: Mẫu thượng ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Dẫn luận, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm
những nội dung chính sau:
Chương 1. Những vấn đề chung
Xác định những vấn đề cơ sở lý luận của đề tài, bao gồm mối quan hệ giữa
văn học viết và văn hóa dân gian và hướng nghiên cứu văn học viết trong mối quan
hệ với văn hóa dân gian, làm nền tảng lý luận cho những vấn đề cần nghiên cứu.
--12--
Khảo sát cuộc đời, sự nghiệp sáng tác và về văn hóa dân gian trong tâm thức tác
giả.
Chương 2. Nội dung tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong quan hệ với văn
hóa dân gian
Ở chương này chúng tôi đi sâu nghiên cứu những nội dung tác phẩm của
Nguyễn Xuân Khánh trong mối quan hệ với văn hóa dân gian. Phân tích những biểu
tượng văn hóa dân gian được chuyển hóa trong tác phẩm như những hình tượng
nghệ thuật giàu ý nghĩa. Khai thác vai trò và ý nghĩa của những hình tượng đó trong
việc chuyển tải nội dung và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm Nguyễn Xuân Khánh.
Chương 3. Hình thức nghệ thuật tác phẩm Nguyễn Xuân Khánh trong quan
hệ với văn hóa dân gian
Trong chương này chúng tôi đi sâu tìm hiểu những hình thức nghệ thuật của
tác phẩm Nguyễn Xuân Khánh trong quan hệ với văn hóa dân gian. Đi tìm những,
ảnh hưởng, chuyển hóa của thi pháp văn học, văn hóa dân gian trong các sáng tác
Nguyễn Xuân Khánh và vai trò của chúng trong việc xây dựng tác phẩm.
--13--
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Quan hệ giữa văn học viết và văn hóa dân gian
1.1.1 Khái niệm Văn hóa dân gian
Theo Bonas Buleys thì “Folklore bao gồm những sáng tác truyền thống của
dân tộc cả nguyên thủy và văn minh. Những dạng sáng tác này có được bằng cách
sử dụng âm thanh và từ ngữ dưới dạng thơ và văn xuôi. Chúng bao gồm cả các tín
ngưỡng dân gian hay mê tín, phong tục và hội diễn các điệu múa và các trò chơi ”
[48, 30].
Trong khi đó, học giả người Mỹ George Herzey quan niệm “Folklore bao
gồm những phương diện văn học và trí thức của văn hóa đươc giữ gìn vĩnh viễn chủ
yếu bằng truyền thống truyền miệng: huyền thoại, truyện cổ dân gian và những
hình thức khác của văn học truyền miệng truyền thống”[48, 32]. Những quan niệm
này đã nêu lên những cách hiểu khác nhau về văn hóa dân gian. Trong đó, tác giả
chưa đề cập đến bộ phận khác của văn hóa dân gian: lối sống, đạo đức, văn hóa vật
thể, kiến trúc… làm nên đặc sắc của văn hóa dân gian các tộc người được hình
thành và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử.
Do vậy, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm tổng quát hơn về văn
hóa dân gian. Vegu-xep, một nhà nghiên cứu Folklore của Liên Xô trước đây đã
khẳng định “Folklore tồn tại như một tổng thể, như một lĩnh vực văn hóa tư tưởng
đối lập với những nét độc đáo riêng và có quy luật phát triển rộng. Và mặc dù mỗi
yếu tố của Folklore đều có thể trở thành đối tượng nghiên cứu theo chuyên ngành
riêng: yếu tố ngôn ngữ của ngành nghiên cứu văn học, yếu tố âm nhạc của ngành
nghiên cứu âm nhạc…”[48, 32]. Archer Taylor, một học giả Phương Tây cũng
chung ý kiến về khái niệm này. Ông cho rằng Folklore là tư liệu được truyền lại
bằng lời nói hay phong tục tập quán. Đó có thể là bài hát dân gian, truyện kể dân
gian, tục ngữ hay những tư liệu khác được lưu giữ bằng lời nói, là những công cụ và
--14--
vật thể cổ truyền như như tấm hàng rào hay cái nút buộc, cái búi tóc trên đầu hoặc
những quả trứng trong lễ phục sinh…tất cả đó đều là Folklore
Mặc dù còn nhiều ý kiến trái chiều nhau về cách định nghĩa văn hóa dân gian
nhưng nhìn chung ở Việt Nam hiện nay đa số các nhà nghiên cứu đều quan niệm
văn hóa dân gian (Folklore) theo cách hiểu rộng. Nó bao gồm tất cả những yếu tố
vật chất và tinh thần được hình thành bởi quần chúng nhân dân, vì nhân dân và
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa dân gian ảnh hưởng lớn
đến đời sống con người và là nét đặc trưng độc đáo của mỗi tộc người trong tiến
trình phát triển và hòa nhập với cộng đồng thế giới. Đồng thời nó còn là nền tảng
cho sự phát triển văn hóa của một dân tộc trong quá trình đi đến cái Chân- ThiệnMỹ của dân tộc mình. Giáo sư Đinh Gia Khánh, một trong những chuyên gia hàng
đầu, người có công khai mở ngành văn hóa dân gian ở Việt Nam cũng đã quan niệm
“Khi nói đến Folklore, người ta nghĩ ngay đến các tác phẩm văn học nghệ thuật
như tục ngữ,ca dao dân ca, dân nhạc, dân vũ, trò diễn dân gian…nhưng Folklore
còn bao gồm các sinh hoạt văn hóa dân gian thường gắn với phong tục tập quán
nhất định ”. Đặc biệt ông còn nhấn mạnh “Hội lễ dân gian là loại sinh hoạt văn hóa
dân gian quan trọng nhất, trong hội lễ có thể thấy tất cả các yếu tố của Folklore, từ
tập quán, phong tục…Các sinh hoạt nghi lễ và vui chơi giải trí cho đến điều kiện
môi trường cần thiết cho việc sáng tạo và biểu diễn các tác phẩm văn học và nghệ
thuật dân gian” [48, 35]. Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh cũng từng cho rằng: Từ
thập kỉ 70-80 trở về trước, sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian ở nước ta chủ yếu
bó hẹp trong văn học dân gian, hướng tiếp cận chủ yếu là ngữ văn học thì nay văn
hóa dân gian được quan niệm rộng hơn, bao gồm ngữ văn dân gian, nghệ thuật dân
gian, trí thức dân gian, tín ngưỡng phong tục và lễ hội.
Từ điển văn hóa dân gian cũng khẳng định “Theo đúng nghĩa, văn hóa dân
gian là nền văn hóa của dân chúng. Văn hóa này bao gồm cả văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần….Nội hàm của nó có vấn đề phương thức sản xuất ra của cải, có
phong tục tập quán, sinh hoạt tinh thần, tri thức tự nhiên và xã hội, quan niệm đạo
--15--
đức, nhận thức và tình cảm về thế giới và nhân sinh ”[77, 621]. Đây cũng là quan
niệm về văn hóa dân gian mà chúng tôi sử dụng khi thực hiện luận văn.
1.1.2 Quan hệ giữa văn học viết và văn hóa dân gian
Nền văn học viết Việt Nam hình thành trong điều kiện lịch sử đặc biệt. Một
dân tộc chưa có điều kiện sáng lập chữ viết riêng, phải mượn Hán tự, các thể loại
văn học cũng có sự mô phỏng thì yếu tố làm nên bản sắc của nền văn học dân tộc
đó phải là những nét văn hóa dân gian lâu đời tích lũy trong lòng đời sống dân tộc,
trong mỗi con người với tư cách chủ thể sáng tạo văn chương. Trong hoàn cảnh đó,
mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết hình thành và gắn bó mật thiết.
Đó là mối quan hệ biện chứng, hai chiều có sự tương tác mạnh mẽ với nhau, qua đó
mỗi khía cạnh tự làm giàu thêm cho mình đồng thời làm phong phú đời sống văn
hóa tinh thần dân tộc. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Đỗ Thị Minh Thuý, trong
công trình “Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học” đã nhận xét rất thích đáng “Nói
đến vị trí của văn học trong văn hoá là nói đến hai mặt của một vấn đề. Thứ nhất
nó chịu sự chi phối mang tính quyết định của văn hoá. Thứ hai là nói đến tính đại
diện cho văn hoá của văn học, sự tác động tích cực trở lại của văn học đối với văn
hoá” [72, 40]
Cụ thể, văn hóa dân gian với tư cách là môi trường của văn học viết đã tác
động sâu sắc đến chủ đề , đề tài, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ …cho đến các biện
pháp nghệ thuật cấu thành nên tác phẩm. Nó còn ảnh hưởng đến tác giả và quá
trình tiếp nhận tác phẩm văn học viết. Đây là quá trình văn học biểu hiện văn hóa
dân gian qua tác phẩm hay nói cách khác đây là quá trình văn hóa dân gian ảnh
hưởng đến văn học.
Với trường ảnh hưởng rộng lớn, văn hóa dân gian là nguồn tư liệu khổng lồ
của văn học, cung cấp đề tài, chủ đề và là đối tượng phản ánh của văn học viết . Về
mặt thi pháp, văn học cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong cách xây
dựng hình tượng nhân vật, kết cấu, hệ thống không thời gian…Trong đó sự dung
--16--
hợp về thể loại là phương pháp các tác giả thường sử dụng, nhằm tạo sự đa dạng và
tạo độ mở trong các thể hiện thông qua liên văn bản, nhất là các tác phẩm văn xuôi
hiện đại của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Võ Thị Hảo…
Hơn thế, văn hóa dân gian còn ảnh hưởng đến tác giả, thậm chí đến cả người
đọc và quá trình tiếp nhận tác phẩm. Tác giả, vốn được xem là chủ thể sáng tạo
trong văn học, cũng là một sản phẩm văn hóa. Bởi con người ngay từ khi sinh ra dù
ý thức hay vô thức, bị ảnh hưởng của môi trường văn hóa. Riêng với người Việt, ai
lớn lên mà không cảm nhận được những lời ru êm dịu của mẹ, của bà, không một
lần hòa mình với nhịp điệu của những lễ hội văn hóa, tham gia đám rước đèn dịp
trung thu…tất cả những điều đó đã in sâu trong tâm thức con người. Đến khi đảm
nhận chức năng cao quý của một người cầm bút, dù ý thức hay vô thức, qua một
quá trình chiêm nghiệm, suy ngẫm tác giả đã đưa chúng vào trong tác phẩm. Điều
này thể hiện rõ không chỉ trong thể loại tiểu thuyết hay truyện ngắn mà còn biểu
hiện rất đậm nét trong thể loại hồi kí văn học, tiêu biểu như hồi kí “Thời thơ ấu”
của Nguyên Hồng hay như trong một số tác phẩm của Nguyễn Tuân trong tập
“Vang bóng một thời”. Ở một số tác giả, văn hóa dân gian thậm chí tham gia vào
quá trình định hình phong cách cá nhân. Khi con người có sự gắn kết mạnh mẽ với
những giá trị văn hóa truyền thống thì ngay trong lúc hình thành ý thức sáng tác đã
chịu sự quy định của văn hóa, tạo thành thế giới quan trong sáng tạo văn học.
Trong sáng tác văn học, thế giới quan có vai trò to lớn đến việc hình thành
tác phẩm. Nó quy định điểm nhìn của tác giả, chi phối nội dung tư tưởng, ý nghĩa
chủ đề mà tác phẩm muốn nói với người đọc. Thế giới quan đó tiếp tục chi phối
ngòi bút tác giả, từ cách chọn đề tài, xây dựng hình tượng nhân vật cho đến xử lý
vấn đề, tạo không gian, thời gian…Quy trình này lặp đi lặp lại nhiều lần và tạo
thành phong cách tác giả, ở đây có thể kể đến những đại diện tiêu biểu như :Nguyễn
Bính, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Thiệp…hay một số nhà văn Nam Bộ: Sơn Nam,
Bình Nguyên Lộc, Lý Văn Sâm…
--17--
Đối với người đọc văn hóa dân gian tác động lên tư tưởng thẩm mỹ của họ.
Bởi họ cũng được sinh ra trong một môi trường văn hóa tương đồng với tác giả nên
khả năng cảm nhận, thấu hiểu và tìm tòi những tầng nghĩa ẩn chứa trong tác phẩm
và tầm đón đợi, chân trời đón đợi đối với tác giả và tác phẩm cũng sẽ tốt hơn so với
những người khác văn hóa.
Từ đó thấy rằng văn hóa dân gian không chỉ là cội nguồn của văn hóa tộc
người, mà còn là nền tảng của sáng tác và tiếp nhận văn học, ảnh hưởng mạnh mẽ
đến tác giả, tác phẩm và người đọc, tạo động lực để văn học phát triển trong tương
lai.
Văn hóa dân gian và văn học viết có mối quan hệ biện chứng, có sự tương
tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Khi văn hóa dân gian xâm nhập và ảnh hưởng đến văn học
viết thì bản thân văn học viết cũng tác động đến sự tồn tại và phát triển của văn hóa
dân gian, khi chúng được chuyển tải thành những hình tượng văn học đặc sắc, vừa
lưu giữ nét dân gian lại vừa đậm hơi thở của cuộc sống hiện đại. Trong truyện ngắn
Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật Trương Chi không mang tính lí
tưởng, có tình yêu thủy chung, tuyệt vọng với nàng Mị Nương nữa. Thay vào đó là
hình ảnh Trương Chi mang tâm thức thời hiện đại. Đó là hình ảnh con người tự đối
diện với nỗi cô đơn của chính mình, mang nỗi mặc cảm, sự hoài nghi đối với thân
phận, tình yêu.
Văn học lưu giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Văn học được chuyển tải các yếu tố văn hóa dân gian thành hình tượng sinh động,
phù hợp với đặc điểm con người Việt Nam vốn giàu mỹ cảm, yêu thích thơ ca. Hơn
nữa văn chương là hình thức sinh hoạt tinh thần phổ biến và yêu thích nhất trong xã
hội. Từ làng quê cho đến thị thành con người luôn cất lên tiếng hát, lời ca để ca
ngợi cuộc sống và tình yêu. Trong hoàn cảnh khốn cùng của cuộc mưu sinh hay
trong bom đạn chiến tranh khốc liệt, văn chương trở thành nguồn sức mạnh tinh
thần vô tận đưa con người vượt qua mọi bão giông. Và trong khi các hình thái sinh
hoạt tinh thần khác của con người, triết học, lịch sử… khá khô khan và đòi hỏi sự tư
--18--
duy cao thì văn chương lại là phương tiện giải trí dễ tiếp nhận, dễ hiểu, lại giàu cảm
xúc và phù hợp với tâm lý người dân Việt Nam. Tuy nhiên văn học không phải
phán ánh bất kì hiện tượng văn hóa ngẫu nhiên nào mà luôn được chọn lọc qua lăng
kính tác giả. Chúng được đặt trong những hoàn cảnh cụ thể, điển hình với những
mối quan hệ phức hợp và gắn liền với ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm mà khi tiếp
cận, người đọc buộc phải suy ngẫm về ý nghĩa, giá trị của chúng, phải tự mình
bước đi trên con đường đồng sáng tạo với tác giả. Nhờ vậy, văn hóa dân gian, được
gìn giữ, lưu truyền và phát huy thông qua văn học.
Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết còn thể hiện qua sự xâm
nhập lẫn nhau của chúng. Có nhiều trường hợp một tác phẩm văn học của một tác
giả cụ thể được yêu thích và lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Nhân dân truyền
miệng lẫn nhau theo cách cảm, cách hiểu của họ, từ người này sang người khá, từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Qua nhiều thời gian, tác phẩm văn học viết trở thành
gia tài chung của nhân dân, được nhân dân sử dụng như bằng phương thức truyền
miệng, có nhiều dị bản như một tác phẩm văn học dân gian.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chú thì trường hợp bài thơ Cảnh Tây Hồ,
một sáng tác của Dương Khuê, hay bài “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ cơm rau
muống nhớ cà dầm tương/Nhớ ai dãi nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đình
hôm nao..” của Á Nam Trần Tuấn Khải, Truyện Kiều của Nguyễn Du… là những
hình thức sinh hoạt dân gian xuất phát từ tác phẩm văn học viết. Đó là biểu hiện
sinh động cho hiện tượng “một tác phẩm văn học viết đã được dân gian hóa” [86].
Đó còn là sự xâm nhập về chất liệu văn học khi những điển tích, điển cố vốn được
hình thành từ văn học viết trở thành chất liệu cho văn học dân gian. Ví như câu ca
dao “ Anh xa em như bến xa thuyền/ Như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên
cho tái hồi” hoặc ngược lại, những yếu tố văn hóa dân gian là nguồn cảm hứng,
nguồn tư liệu cho văn học viết.
“Văn học nghệ thuật có một vị trí quan trọng trong nền văn hoá dân tộc
không chỉ vì tính chất đa năng của nó mà còn vì nội dung phong phú của nó. Văn
- Xem thêm -