Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp ấn độ....

Tài liệu Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp ấn độ.

.PDF
38
254
95

Mô tả:

Quản trị Kinh doanh Quốc tế DANH SÁCH THÀNH VIÊN STT HỌ TÊN MSSV 1 Phan Thị Dung K134070765 2 Hoàng Lê Thanh Huyền K134070799 3 Lê Hoàng Kha K134070802 4 Nguyễn Đình Anh Khoa K134070804 5 Phạm Thị Thu Luận K134070821 6 Trần Thị Kim Lý K134070823 7 Trần Ức Minh K134070826 8 Nguyễn Thị Ninh K134070834 9 Nguyễn Thị Nương K134070832 10 Huỳnh Bảo Quyên K134070867 Quản trị Kinh doanh Quốc tế MỤC LỤC Chương 1: Văn hóa Ấn Độ trong kinh doanh..................................................................1 1.1 Khái niệm văn hóa ............................................................................................ 1 1.2 Khái niệm văn hóa kinh doanh..........................................................................2 1.3 Những yếu tố của văn hóa ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh của Ấn Độ .....2 1.4 Văn hóa Ấn Độ theo 5 khuynh hướng văn hóa của Geert - Hofstede ..............9 1.4.1 Khoảng cách quyền lực ............................................................................10 1.4.2 Né tránh sự không rõ ràng........................................................................11 1.4.3 Tính mềm mỏng và tính cứng rắn ............................................................ 11 1.4.4 Chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cá nhân và định hướng dài hạn .................13 Chương 2: Con người Ấn Độ ........................................................................................14 Chương 3: Văn hóa doanh nghiệp tại Ấn Độ ................................................................ 20 3.1 Nền kinh tế Ấn Độ .......................................................................................... 20 3.2 Doanh nhân Ấn Độ .......................................................................................... 21 3.3 Bốn khả năng kinh doanh đặc biệt của người Ấn Độ: ....................................22 3.4. Văn hóa giao tiếp trong kinh doanh của Ấn Độ .............................................23 3.4.1.Chào hỏi làm quen ...................................................................................23 3.4.2.Xưng hô: ..................................................................................................24 3.4.3.Danh thiếp ................................................................................................ 24 3.4.4.Thời gian: .................................................................................................24 3.4.5.Trang phục ............................................................................................... 25 3.4.6.Đàm phán: ................................................................................................ 26 3.4.7.Quà tặng: ..................................................................................................27 3.4.8.Lời mời:....................................................................................................27 3.5. Lưu ý cho người Việt khi kinh doanh tại Ấn Độ ...........................................27 KẾT LUẬN ...................................................................................................................33 Quản trị Kinh doanh Quốc tế Lời nói đầu Ấn Độ là một đất nước có lịch sử từ lâu đời. Thế giới nhìn nhận Ấn Độ như là một trong những nền văn hóa phát triển rực rỡ nhất của văn minh nhân loại. Trong lịch sử, Ấn Độ đã phát triển nền văn hóa của họ đến mức rực rỡ hàng ngàn năm trước công nguyên. Ngày nay những di sản ấy vẫn còn. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, người Ấn Độ đã và đang đóng góp rất nhiều vào kho tàng văn hóa nhân loại. Không chỉ là thơ ca, nghệ thuật, tư tưởng triết học, những công trình kiến trúc nổi bật… mà nổi bật nhất là bao thế hệ con người tài hoa đang duy trì văn hóa của họ và đóng góp ngày càng nhiều cho nhân loại. Sức hút của Ấn Độ không chỉ ở diện tích lớn, dân số đông, lịch sử rực rỡ (con gái Ấn Độ có nét quyến rũ riêng, múa đẹp, nghệ thuật phong phú…) mà hiện nay, Ấn Độ đang là nền kinh tế lớn của thế giới về quy mô. Trong tương lai gần, Ấn Độ sẽ là một cường quốc. Việt Nam cũng xác lập mối quan hệ với Ấn Độ từ lâu. Qua quá trình mở rộng lãnh thổ, người Việt Nam mở mang đất nước của mình đến những vùng đất phương Nam, những nơi chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, và từ đó văn hóa Ấn Độ một phần nào đó được hấp thu nhiều. Ngoài ra có thể kể đến Việt Nam đón nhận văn hóa Ấn Độ qua tôn giáo (Phật giáo) và giao thương… Nhưng xét cho cùng có một điểm chính yếu mà các sử gia đánh giá, đó là Việt Nam và Ấn Độ giao lưu văn hóa là do hợp tác, dung hòa nhau. Mặc dù vậy, ảnh hưởng của Ấn Độ lên Việt Nam không nhiều do vậy ngày nay, Ấn Độ vẫn xa lạ với nhiều người Việt Nam. Việc giao thương cũng như các công trình nghiên cứu ở Việt Nam về Ấn Độ cũng chưa thực sự nhiều. Việt Nam và Ấn Độ có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều ở châu Á, giao lưu đã có từ rất lâu, cả hai trong thế kỉ XX đều bị thống trị bởi ngoại bang và giành độc lập trong khoảng thời gian gần như nhau. Và quan trọng nhất là ngày nay cũng giống như trong lịch sử, mối quan hệ giữa hai nước vẫn là hợp tác và bổ sung là chủ yếu. Trong bối cảnh Ấn Độ hiện nay đang trên đà phát triển mạnh và triển vọng lớn trong tương lai, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, người Ấn Độ ngày nay nói tiếng Anh là chủ yếu, khoảng cách địa lý lại không quá xa. Đó là các yếu tố mà doanh nhân cả hai nước cần đặc biệt phải quan tâm. Quản trị Kinh doanh Quốc tế Chương 1: Văn hóa Ấn Độ trong kinh doanh 1.1 Khái niệm văn hóa Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Theo định nghĩa của UNESSCO: Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia. Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, trị thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin. Có một định nghĩa được nhiều người chấp nhận của Edward Tylor: "Văn hoá là tổng thể phức hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, thói quen và bất kỳ năng lực hay hành vi nào khác mà mỗi một cá nhân với tư cách là thành viên của xã hội đạt được". Còn theo Geert Hofstede, một chuyên gia về sự khác biệt trong so sánh giữa các nền văn hóa và quản lý đã định nghĩa văn hóa là “Một chương trình chung của trí tuệ phân biệt thành viên của nhóm người này với nhóm người khác… Văn hóa theo nghĩa này bao gồm hệ thống các giá trị và các giá trị giữa tòa nhà văn hóa”. Theo giáo sư Trần Ngọc Thêm, Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên và xã hội của mình Tóm lại Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và con người, con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. 1 Quản trị Kinh doanh Quốc tế 1.2 Khái niệm văn hóa kinh doanh Chúng ta đều biết văn hoá là biểu hiện hành vi, tư duy và tình cảm đã ăn sâu hay bị ảnh hưởng qua học hỏi và là điểm đặc thù của một nhóm người chứ không phải của một cá nhân. Hành vi thể hiện ở các hành động, trong khi tư duy và tình cảm thể hiện nội tâm và tri thức của con người. Ở một mức độ nhất định, văn hoá có liên quan đến các quy chuẩn hay phong cách xử sự truyền thống của một nhóm người hình thành qua thời gian. Ở mức độ sâu sắc hơn, văn hoá là những giá trị mặc nhiên được chia sẻ trong một nhóm người, ấn định cái gì quan trọng, cái gì tốt và cái gì xấu. Những giá trị này nhất quán với quy tắc nhóm, nghĩa là các quy tắc xử sự phản ánh các giá trị, và ngược lại, các giá trị phản ánh quy tắc xử sự. Theo định nghĩa VHDN của Hofstede: “ VH tổ chức là lập trình tâm thức có tính khu biệt giữa các thành viên của một tổ chức này với thành viên của tổ chức khác” còn theo định nghĩa của Edga Schein: “ VHDN là một mô hình của những quan niệm ẩn (giả định ngầm) được chia sẽ - được sáng tạo khám phá và phát triển bởi doanh nghiệp khi họ học cách ứng phó và thích ứng với môi trường ngoài và hợp nhất nguồn nhân lực nội bộ - Nó được xem là phương thức hoạt động hiệu quả và có đủ hiệu lực để truyền đạt cho những thành viên mới như là cách ứng xử đúng đắn để nhận thức, suy nghĩ, cảm nhận đối với những vấn đè tương tự” Văn hoá kinh doanh là những giá trị văn hoá gắn liền với hoạt động kinh doanh. Các giá trị văn hóa này được dùng để đánh giá các hành vi, do đó, được chia sẻ và phổ biến rộng rãi giữa các thế hệ thành viên trong doanh nghiệp như một chuẩn mực để nhận thức, tư duy và cảm nhận trong mối quan hệ với các vấn đề mà họ phải đối mặt. Văn hoá kinh doanh không chỉ tạo ra tiêu chí cho cách thức kinh doanh hằng ngày mà còn tạo ra những khuôn mẫu chung về quan điểm và động cơ trong kinh doanh. 1.3 Những yếu tố của văn hóa ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh của Ấn Độ Ấn Độ có một di sản văn hóa phong phú và đặc trưng duy nhất, và họ luôn tìm cách giữ gìn những truyền thống của mình trong suốt thời kỳ lịch sử trong khi vẫn hấp thụ các phong tục, truyền thống và tư tưởng từ phía cả những kẻ xâm lược và những 2 Quản trị Kinh doanh Quốc tế người dân nhập cư. Nhiều hoạt động văn hoá, ngôn ngữ, phong tục và các công trình là những ví dụ cho sự đan xen văn hóa qua hàng thế kỷ đó. 1.3.1 Ngôn ngữ Ngôn ngữ là một yếu tố hết sức quan trọng của văn hóa vì nó là phương tiện được sử dụng để truyền thông tin và ý tưởng, giúp con người hình thành nên cách nhận thức về thế giới và có tác động lên việc định hình văn hóa con người. Ngôn ngữ là một tài sản vô giá. Và Ấn Độ phải tự hào rằng họ là một trong số những quốc gia sử dụng nhiều loại ngôn ngữ nhất trên thế giới. Theo thống kê, hiện có khoảng 7.000 ngôn ngữ đang tồn tại trên thế giới. Theo cuộc điều tra dân số năm 2001, 1,16 tỷ dân Ấn Độ sử dụng tới 6.500 ngôn ngữ khác nhau. Trong số đó, có khoảng 1.652 ngôn ngữ được coi là ngôn ngữ mẹ đẻ. Tuy nhiên, đa số ngôn ngữ đó xuất phát từ hai nhóm ngôn ngữ chính là Ấn-Aryan (chiếm 74% dân số sử dụng) và Dravidian (chiếm 24%), 2% còn lại dựa trên các nhóm Nam Á và Tạng-Miến. Hai ngôn ngữ phổ biến nhất được dùng làm ngôn ngữ chính thức của Chính phủ và trong giáo dục cao học là tiếng Hindi và tiếng Anh. Ngoài ra, 21 ngôn ngữ khác cũng được coi là ngôn ngữ chính thức như tiếng Phạn, tiếng Sindh, tiếng Kannada… Sự đa dạng trong ngôn ngữ này chắc chắn sẽ dẫn đến sự phong phú trong các phong tục, tập quán, hay nói đúng hơn, sự phong phú và độc đáo của nền văn hóa Ấn Độ. Và thật vậy, khách quan đã cho thấy, ở những nước có nhiều ngôn ngữ thì người ta cũng thấy rằng ở đó có nhiều nền văn hóa khác nhau. 1.3.2 Tôn giáo Tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến cách sống, niềm tin, giá trị và thái độ, thói quen làm việc và cách cư xử của con người trong xã hội đối với nhau và đối với xã hội khác. Ở Ấn Độ, tôn giáo và triết học cực kỳ phát triển, không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu đã gọi Ấn Độ là “xứ sở của tôn giáo, xứ sở của tâm linh”. Ở Ấn Độ là sự hòa hợp, giao thoa giữa nhiều trường phái triết học khác nhau, qua thời gian tạo nên một sự đa dạng trong tôn giáo, tín ngưỡng của người Ấn Độ. Một số tôn giáo chính ở Ấn Độ có thể kể đến như Hindu giáo (chiếm 80,5% dân số), Hồi giáo 3 Quản trị Kinh doanh Quốc tế (chiếm 13,4%), Thiên Chúa giáo (2,3%), đạo Sikh (1,84%), Phật giáo (0,76%), đạo Jaina (0,4%) và một số tôn giáo khác. Đạo Hindu - Ấn Độ Giáo Đã nói đến tôn giáo ở Ấn Độ thì không thể không đề cập đến đạo Hindu – một thứ “tôn giáo mẹ” đã đi cùng dân tộc Ấn trong suốt chiều dài 3.500 năm lịch sử, đồng thời tạo nên những đặc trưng tính cách điển hình của con người nơi đây. Đạo Hindu là tôn giáo cổ xưa nhất của người Ấn Độ, đồng thời cũng là tôn giáo đặc biệt nhất. Tôn giáo này không có người sáng lập, không có giáo chủ, cũng không có một giáo hội chặt chẽ và những giáo điều cứng rắn. Trải qua những biến động thăng trầm (từ thời Veda đến thời Bàlamôn rồi đến đạo Hindu như giai đoạn hiện nay) bản thân tôn giáo này đã thể hiện được những đặc tính điển hình trong tư duy của người Ấn Độ - không hề đoạn tuyệt với truyền thống mà luôn luôn tự biến đổi cho thích ứng nhu cầu thời đại để bảo tồn và phát triển. Giáo lý của đạo Hindu thời kỳ Bàlamôn giáo nằm trong tư tưởng Nhất nguyên luận – cho rằng linh hồn vũ trụ (Brahman) đồng nhất là một với linh hồn cá thể 4 Quản trị Kinh doanh Quốc tế (Atman). Linh hồn vũ trụ hòa tan vào tất cả cũng giống như muối khi hòa tan vào nước, vĩnh viễn không thể tách ra được nữa. Giáo lý nhất nguyên luận và triết lý bất tổn sinh (Ahimsa) của đạo Hindu đã trở thành cơ sở nền tảng chi phối cách sống của người Ấn Độ, nền tảng cho sự mở rộng tình yêu với đồng loại, với chúng sinh trong một cuộc sống hòa bình. Triết lý bất tổn sinh Ahimsa từ thời Bàlamôn giáo của đạo Hindu đã được vận dụng trong các tôn giáo khác của Ấn Độ và trở thành một dấu ấn đặc trưng của lối sống của con người ở xứ sở này. Phật giáo phát triển Ahimsa thành nguyên lý cấm sát sinh, mở rộng tình yêu thương đối với toàn thể chúng sinh trong tư tưởng nhất thiết bình đẳng. Đạo Jain thì thực hành Ahimsa đến mức cực đoan (người theo đạo Jain có thói quen cầm chổi quét đường phố trước mỗi bước chân để tránh không làm tổn thương các sinh vật, luôn bịt khẩu trang để tránh hít thở và ngáp phải những sinh vật nhỏ, không làm nông nghiệp để tránh sát sinh những côn trùng trong lòng đất...) Triết lý Ahimsa phát triển qua nhiều tôn giáo đã tạo nên một đặc điểm chung trong tính cách con người là trân trọng sự sống của mọi đồng loại. Có thể nói tinh thần hòa hợp khoan dung qua tư tưởng Ahimsa đã trở thành truyền thống lớn của văn hóa Ấn và gần như trở thành phong cách Ấn. Đạo Hồi 5 Quản trị Kinh doanh Quốc tế Mặc dù phần lớn dân số theo đạo Hindu nhưng Ấn Độ lại là nước có số lượng tín đồ Hồi giáo đứng thứ 3 thế giới (con số ước tính hiện nay khoảng hơn 160 triệu người). Đạo Hồi đã đến với Ấn Độ lần đầu tiên vào năm 711, khi quân Hồi Giáo Ả Rập đánh chiếm tỉnh Sind, nay là Pakistan. Đến thế kỷ XI, toàn miền Bắc Ấn theo đạo Hồi, trong đó có tỉnh Ghaznawid, nay là nước Afganistan. Vào năm 1206, Thổ Nhĩ Kỳ cai trị Ấn Độ đã biến nước này thành "Quốc Gia Hồi Giáo Ấn Độ" (Muslim State of India) đặt thủ đô tại La Hore. Năm 1555, Hoàng Đế Humayun của đế quốc Mông Cổ Hồi Giáo (Mughuls) chiếm toàn thể lãnh thổ Ấn Độ và cai trị xứ này từ đó đến năm 1858 thì bị đế quốc Anh thay thế (303 năm). Trong 3 thế kỷ dưới sự thống trị của đế quốc Mughuls, nhiều người Ấn Độ đã bỏ đạo Hindu theo Hồi Giáo. Và do đó, sự ảnh hưởng của Hồi giáo lên nền văn hóa Ấn Độ là không hề nhỏ. Đạo Phật Cuối cùng, tuy hiện nay chỉ chiếm con số rất khiêm tốn 0,76% dân số, nhưng chúng ta không thể không nhắc tới Phật giáo – tôn giáo đã xuất hiện từ rất lâu và mang lại nhiều đổi thay sâu sắc đối với nền văn hóa Ấn Độ. Là một trong những tôn giáo lớn ra đời đầu tiên ở Ấn Độ, rõ ràng, Phật giáo đã có ảnh hưởng tỏa khắp chiều rộng lẫn chiều sâu ở Ấn Độ. Các tháp, tu viện, đền và các thánh tượng của Phật giáo được xây dựng ở nhiều nơi phật tích trên lục địa Ấn Độ này. 6 Quản trị Kinh doanh Quốc tế Trong nhiều thế kỷ, người dân Ấn đã kính trọng và tôn thờ các danh hiệu, hình tượng, lời dạy của chư Phật và Bồ Tát. Phật giáo đã sản sinh một khối lượng đồ sộ văn học Pali, Sanskrit và các ngôn ngữ bản xứ; các bài học, cao đẳng và tu viện Phật giáo với những thư viện và giáo lý phong phú vĩ đại đã hướng dẫn người dân Ấn trong nhiều thế kỷ qua; vô số trung tâm nghệ thuật và chiêm bái của Phật giáo khắp Ấn Độ đã trở thành một nguồn giáo dục và rèn luyện cho vô số người Ấn từ thời cổ đại. Tôn giáo, đạo đức, triết học và mật tông của Phật giáo đã phát triển như là một đỉnh cao đã tạo ra sự ảnh hưởng lâu dài đến nền văn hóa và văn minh của Ấn Độ. Ấn giáo của đạo Bàlamôn về Smritis, các thiên sử thi và chuyện cổ tích Ấn Độ đã thấm nhuần di sản phong phú của Phật giáo và chấp nhận Đức Phật như là vị thần Avatara thứ chín. Các bậc đạo sư Hindu nổi tiếng đã tự hào khi tuyên bố Đức Phật như bậc thánh vĩ đại của đạo Hindu, và như "người sáng lập đạo Hindu hiện đại". Chúng ta không thể chối bỏ sự thật rằng, Phật giáo tiếp tục tồn tại trong đạo Hindu, mà Hindu đã đồng hóa các giáo lý trung tâm của đạo đức và siêu hình học của Phật giáo và đó là lý do tại sao Phật giáo đã chuyển hóa đạo Bà la môn cổ thành đạo Hindu hoặc Tân Bàlamôn. Đức Phật được xem như vị thần Avatara là hóa thân của thần Vishnu. Các đấng sáng tạo Hindu đã thêm vào các ý niệm hữu thần trong hệ thống vô thần của Yoga, Samkhya và Phật giáo. Điều này hình như đã thành công trong việc đem Yoga, Samkhya và Phật giáo vào trong đạo Hindu. Sau khi Ấn Độ đã được độc lập, Chuyển pháp luân (Dharmacakra) của Phật giáo được xem là biểu tượng của quốc gia và được gắn trên quốc kỳ Ấn Độ, cũng như đầu cột hình sư tử nổi tiếng của vua A Dục đã trở thành con dấu của nước cộng hòa Ấn Độ. Những di sản của Phật giáo này đối với đời sống hàng ngày của chúng ta phải được duy trì vô hạn. Hãy để những biểu tượng của lý tưởng Hòa bình và Giác ngộ của Phật giáo là những ngôi sao sáng để dẫn đường tất cả tư tưởng và hành động của chúng ta trong đời sống quốc gia và trật tự quốc tế trên thế giới này. Không chỉ là nơi đã sản sinh ra nhiều tôn giáo lớn trên thế giới như đạo Hindu, đạo Phật... Ấn Độ còn được biết đến như một xứ sở nổi tiếng với tinh hòa hợp tôn giáo từ những truyền thống lâu đời. Chính tại nơi đây, những tôn giáo lớn hầu như đối nghịch vẫn có thể chung sống hòa bình bên cạnh nhau. 7 Quản trị Kinh doanh Quốc tế “Những nhân cách lớn trong lịch sử Ấn từ Asoka, Harsha Vardhana đến Akbar đều là những mẫu mực về tinh thần khoan dung tôn giáo. Một hệ quả của tinh thần khoan dung là những hàng rào ngăn cách các tôn giáo ở Ấn Độ không bao giờ trở nên không thể vượt qua. Tất cả chúng đều ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng lẫn nhau...” 1.3.3 Truyền thống - Phong tục Phong tục, tập quán chính là những quy ước thông thường của cuộc sống hàng ngày, là toàn bộ những hoạt động sống của con người đã được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, được cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên tính tương đối thống nhất của cộng đồng. Đến với Ấn Độ, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những phong tục, tập quán truyền thống, đồng thời cũng là điều hết sức lưu ý đối với các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam khi đến làm việc hoặc làm ăn với các đối tác người Ấn Độ. Có thể nêu ra một số truyền thống, phong tục của người Ấn như sau: Giới thiệu bản thân Thật ngạc nhiên, người Hindu truyền thống không có họ. Tên của những người Hồi giáo thường có nguồn gốc từ A-Rập. Thông thường, tên của phụ nữ Hồi giáo thường bắt đầu bằng tên + "binti" ("daughter of") + tên của cha. Trước tên của người Sikh Ấn Độ thường thêm "Singh"đối với nam giới hay "Kaur" đối với nữ giới, và cần nhớ rằng không được giới thiệu bản thân với một phụ nữ đang đi trên đường một mình. Các ngày lễ chính Như tất cả các quốc gia khác trên thế giới, ở Ấn Độ cũng có những ngày lễ trong năm: - 26/1 : Quốc khánh (Republic Day) - 2/2 Ngày Hiến tế (Feast of the Sacrifice) : - 22/2 : Năm mới của người Hồi giáo (Islamic New Year) - 9/4 Thứ Sáu tốt lành (Good Friday) : - 15/8 : Ngày Độc lập - 14-16/11: Kết thúc ngày lễ Ramadan (End of Ramadan) - 25/12 : Lễ Giáng Sinh (Christmas Day) 8 Quản trị Kinh doanh Quốc tế Ẩm thực Nếu như người Á Đông thường dùng đũa để gắp thức ăn, người Tây Âu dùng dao và thìa thì người Ấn Độ lại dùng tay. Điều này đã tạo nên một nét khác biệt trong cách chế biến các món ăn. Người Ấn nổi tiếng với phong cách nấu nướng dùng rất nhiều gia vị. Đối với người Ấn, gia vị được xem là yếu tố cực kì quan trọng để tạo ra món ăn ngon. Chúng có tác dụng làm sánh đặc thức ăn ở dạng bột thường được làm từ ngũ cốc như ngô, lúa mạch, đỗ. Loại gia vị tạo hương thơm đặc trưng và không thể thiếu trong nhiều món ăn là lá càri. Người Hồi giáo kiêng ăn thịt lợn trong khi người Hindu giáo lại không dùng thịt bò. Do đó, thịt gà, dê, cừu và các loại thuỷ hải sản là loại thông dụng nhất. Cơm là món ăn chính trong bữa ăn của người Ấn. Tuy nhiên, khác với cách nấu của người Việt, người Ấn lấy gạo xào với dầu hay bơ trước, sau đó mới cho nước vào nấu. Khi cơm gần chín, cho nhiều hương liệu khác như tiêu, hạt cumin, quế… Bên cạnh món cơm chiên còn có cơm nấu với cá, thịt gà, rau củ. Người Ấn dùng món càri trong bữa ăn với nhiều khẩu vị khác nhau: càri trứng, thịt băm càri, càri bắp cải khô… và thường được nấu ở dạng khô Theo phong tục của người Ấn, trong các buổi tiệc cưới hỏi, lễ lạt quan trọng không thể thiếu món cừu nấu với hạnh nhân, món thịt cừu nướng. Nước sữa và nghệ tây là một trong những thức uống phổ biến nhất. Được chế biến từ hạnh nhân, hạt pít-tat, sữa, thảo quả, nghệ tây, cho thêm chút rượu. Thường được dùng như một thức uống giải khát thường thấy trong các lễ hội hoa đăng, lễ hội mùa xuân… 1.4 Văn hóa Ấn Độ theo 5 khuynh hướng văn hóa của Geert - Hofstede Để tìm hiểu văn hóa doanh nghiệp Ấn Độ nói chung hoặc một doanh nghiệp nói riêng không thể không xem xét các nguồn tác động vào văn hóa doanh nghiệp, trong đó phải kể đến nguồn từ văn hóa dân tộc, văn hóa vùng và văn hóa cá nhân - đặc biệt là văn hóa của người đứng đầu tổ chức. Văn hóa doanh nghiệp trước hết ảnh hưởng rất sâu đậm bởi văn hóa dân tộc. Do đó, khi muốn làm ăn với đối tác từ Ấn Độ, ta cần tìm hiểu kỹ lưỡng văn hóa dân tộc họ. 9 Quản trị Kinh doanh Quốc tế Xem xét ảnh hưởng của văn hóa dân tộc người ta thường dựa vào một số tiêu chí để phân biệt mức độ ảnh hưởng của văn hóa dân tộc này với dân tộc khác. Theo nghiên cứu của Geert Hofstede, có các tiêu chí dưới đây. 1.4.1 Khoảng cách quyền lực Tiêu chí này nhằm xem xét mức độ con người chấp nhận sự bất bình đẳng trong xã hội. Một nền văn hóa có khoảng cách quyền lực cao xem sự bất bình đẳng là cần thiết, quyền lực chính là biểu tượng cho danh giá, quan niệm mỗi người có một vị trí riêng trong xã hội và người có quyền không nên che giấu quyền lực. Khoảng cách này được đo bằng chỉ số PDI (Power Distance Index) với thước đo tăng dần theo khoảng cách quyền lực từ 0 đến 100. Theo nghiên cứu của ITIM (tổ chức Tư vấn Văn hóa và Quản lý) đã cho kết quả sau: Country PDI Country PDI China 80 Malaysia 104 Japan 54 United Kingdom 35 Thailand 64 France 68 Indonesia 78 India 77 Vietnam 70 United States 40 South Korea 60 Poland 68 Phillipines 94 (Nguồn: ITIM - Culture and Management consultants). 10 Quản trị Kinh doanh Quốc tế Qua đó ta thấy Ấn Độ được đánh giá là nước có khoảng cách quyền uy khá lớn với số liệu định lượng là 77. Thật vậy, ở Ấn Độ, địa vị thường được quyết định bởi tuổi tác, trình độ học vấn, nghề nghiệp. Ngoài ra, việc làm ở các cơ quan nhà nước được xem là có uy tín hơn những công việc ở các cơ quan tư nhân. Điều này cũng thể hiện ở việc tuy chỉ có khoảng 30% dân số sống ở thành thị nhưng ở Ấn Độ lại xuất hiện những tỉ phú thuộc vào dạng giàu có nhất thế giới, trong khi phần lớn dân số sinh sống ở nông thôn, đói nghèo và mù chữ vẫn là hiện tượng dễ bắt gặp ở nước này. Theo thống kê thì Ấn Độ là nước có GDP bình quân đầu người cao, nhưng đồng thời cũng là một trong những quốc gia có tỉ lệ mù chữ, tỉ lệ đói nghèo cao hàng đầu thế giới. Cũng dễ dàng nhận ra rằng chỉ số PDI của Việt Nam so với Ấn Độ chênh lệch không nhiều, từ đó có thể kết luận văn hóa 2 nước sẽ có những điểm tương đồng. 1.4.2 Né tránh sự không rõ ràng Tiêu chí này đưa ra nhằm xem xét sự chịu đựng của con người trước những sự việc không chắc chắn. Chỉ số UAI (Uncertainty Avoidance) dùng để đo lường mức độ e ngại đối với sự việc của Ấn Độ là 40. Như vậy, người Ấn Độ có mức độ chấp nhận sự không rõ ràng ở mức tương đối cao. Điều này có thể do từ xa xưa cho tới ngày nay, rất nhiều tôn giáo, triết học đã và đang song song tồn tại bên cạnh nhau một cách hòa hợp, mặc dù có thể đó là những giáo phái đối lập. Người Ấn cũng có xu hướng chấp nhận sự việc, hòa hợp hơn là chinh phục, họ cảm thấy ít bị căng thẳng và sẵn sàng chấp nhận sự bất đồng. Đồng thời người Ấn Độ rất linh động và sáng tạo, thể hiện qua nhiều công trình kiến trúc, khả năng Toán học, thiên văn học… Điều này cũng một phần không nhỏ chịu tác động của Thực dân Anh trong thời gian họ cai trị nơi đây. 1.4.3 Tính mềm mỏng và tính cứng rắn Nền văn hóa mang tính cứng rắn là nền văn hóa có khuynh hướng đề cao những giá trị như tiền bạc, địa vị, danh tiếng, thử thách… Trái lại, nền văn hóa mang tính mềm mỏng sẽ đề cao các giá trị như mối quan hệ, sự hợp tác, sự an toàn… Vậy văn hóa Ấn Độ được đánh giá là nền văn hóa như thế nào..? 11 Quản trị Kinh doanh Quốc tế Chỉ số MAS (Masculinity) được dùng để đo lường tính mềm mỏng hay cứng rắn của nền văn hóa. Với thước đo từ 0 đến 100, theo chiều tăng dần của tính cứng rắn, ITIM đã đưa ra các số liệu được tổng hợp lại như sau: Country PDI Country PDI China 66 Russia 36 Japan 95 United 66 Kingdom Thailand 34 France 43 Indonesia 48 India 56 Vietnam 40 United States 62 South Korea 39 Germany 66 Phillipines 64 (Nguồn: ITIM - Culture and Management consultants) Chỉ số này của Ấn Độ được đánh giá ở mức trung bình cao, có nghĩa, dường như mang yếu tố của “nam quyền” hơn của “nữ quyền”. Đúng như vậy, ở Ấn Độ, đàn ông có vai trò thống trị. Đàn ông là trụ cột gia đình. Việc buôn bán và kiếm tiền chỉ có cánh đàn ông làm. Ra chợ hay đến bất kỳ công sở, nhà hàng, khách sạn, khu mua sắm nào, rất ít thấy bóng dáng phụ nữ. Tất cả công việc buôn bán kinh doanh thuộc về đàn ông. Đàn ông cắm hoa, đàn ông bán vải, quần áo, thức ăn, rau cải, bán Chai – một loại nước uống, bán thịt… Từ những việc nặng nhọc cho đến những công việc chỉ dành cho phụ nữ như may vá, đàn ông đảm nhận hết. Đó cũng là công bằng vì văn hoá cưới hỏi ở Ấn Độ là phụ nữ đi cưới đàn ông. Bên nhà trai yêu cầu lễ vật, nhà gái phải đáp ứng đầy đủ nếu không muốn từ hôn. Vì thế, sau khi cưới, đàn ông phải ra đường để kiếm tiền nuôi vợ con. Phụ nữ chỉ mỗi một việc ở nhà chăm sóc con cái, gia đình. Đây là sự khác biệt đối với văn hóa Việt Nam. 12 Quản trị Kinh doanh Quốc tế 1.4.4 Chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cá nhân và định hướng dài hạn Ngoài các chỉ tiêu trên, Geert – Hofstede còn nêu ra 2 chỉ tiêu khác để phân biệt các nền văn hóa, đó là chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cá nhân và định hướng dài hạn. Theo xếp loại của ITIM, chỉ số đo lường khuynh hướng đề cao vai trò cá nhân trong xã hội IDV (Individualism) và chỉ số đo lường tính dài hạn nền văn hóa LTO (Long-Term Orientation) của Ấn Độ lần lượt là 48 và 61. Với IDV ở mức 48, ta có thể thấy văn hóa Ấn Độ ở mức trung lập giữa việc đề cao chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể trong xã hội. Và đây chính là xu hướng mà dần dần sau này các nước có thể sẽ hướng đến. Sự hài hòa giữa khi nào nên coi trọng ý kiến cá nhân, khi nào thì tập thể rất có thể sẽ là nét độc đáo trong văn hóa Ấn Độ, đồng thời có thể gây những trở ngại cho các doanh nghiệp, doanh nhân đến làm ăn tại quốc gia này. Cũng theo kết quả nghiên cứu này, chỉ sô LTO của Ấn Độ được đánh giá là 61 điểm, có nghĩa là văn hóa Ấn Độ mang định hướng dài hạn, họ có xu hướng nhìn về lâu dài khi lập kế hoạch công việc và cuộc sống. Điều này là hoàn toàn chính xác. Từ hàng ngàn năm trước, Ấn Độ đã hình thành và xây dựng cho mình một nền văn hóa riêng biệt, do vị trí địa lý, địa hình… mà trở nên tách biệt với bên ngoài. Nhưng sau quá trình thương mại, giao lưu văn hóa cùng sự xuất hiện xâm chiếm của ngoại bang đã khiến văn hóa Ấn Độ dần thay đổi, điều chỉnh dần phù hợp hơn với cuộc sống hiện đại. Người Ấn xưa thường có khuynh hướng hòa hợp hơn là chinh phục, họ cho rằng không nhất thiết phải đấu tranh mà để cho mọi việc diễn ra một cách tự nhiên, và điều đó giường như vẫn còn ảnh hưởng cho đến tận bây giờ. Nền văn hóa mang tính dài hạn còn thể hiện ở việc sẵn sàng phục vụ người khác. Chúng ta đều biết, người Ấn rất hiếu khách, nhất là đối với du khách nước ngoài. Chính vì lẽ đó mà du lịch ở Ấn Độ rất phát triển và mang lại nguồn thu lớn cho quốc gia mỗi năm. 13 Quản trị Kinh doanh Quốc tế Chương 2: Con người Ấn Độ 2.1. Đặc điểm chung về người Ấn Độ Nói một cách khái quát, nếu con người Ấn Độ không tài ba, thì sẽ không có những công trình kiến trúc nổi tiếng khắp thế giới, không có những tôn giáo được nhiều nước tôn thờ, không có được một nền kinh tế hùng mạnh để không bao lâu nữa theo dự đoán của giới chuyên gia, Ấn Độ sẽ trở thành cường quốc trên thế giới. Nếu như ngày nay, Trung Quốc được coi là công xưởng của thế giới thì Ấn Độ được gọi là văn phòng của thế giới. Theo suy nghĩ quen thuộc của người Việt Nam thì anh văn phòng có khi được nể hơn vì dùng nhiều lao động trí óc mà lại an nhàn. Có thể nhận xét chung về người Ấn Độ qua các đặc điểm sau: 2.1.1 Người Ấn Độ rất hiếu khách 14 ếc ố t ịn ả t r Quản trị Kinh doanh Quốc tế Người Ấn Độ rất hiếu khách, đặc biệt với du khách nước ngoài. Hàng năm Ấn Độ đón rất nhiều khách đến du lịch. Ấn Độ là nước có nền văn hóa lâu đời và giàu bản sắc nên trở thành điểm đến có một không hai. Điều này cũng dễ hiểu vì trên thế giới không có nước nào là giống nhau cả. Người dân Ấn Độ lại sử dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ chính thức nên điều này rất thuận lợi cho người Ấn Độ ngay cả trong công việc và giao lưu với thế giới. Nhưng bên cạnh đó tiếng Hindu cũng được hiến pháp thừa nhận và còn có hàng nghìn ngôn ngữ khác. Quả là người Ấn Độ rất đa dạng về tính cách và từ đó tạo nên sự đa dạng văn hóa. 2.1.2 Người Ấn Độ rất sáng tạo Như đã nói ở trên, ở Ấn Độ có hàng ngàn ngôn ngữ. Số di tích lịch sử thì nhiều vô kể, trong đó có nghiều công trình nổi tiếng thế giới như Taj Mahal gắn liền với truyền thuyết tình yêu nổi tiếng của vua Môgôn Shāh Jahān và hoàng hậu Mumtaz Mahal, đền Ajanta và hang động Ellora… Các điệu múa Ấn Độ như Bharatnatyam, Odissi, Kathakali, Kuchipudi, Mohiniattam làm say lòng người. Mỗi điệu múa này là một cách biểu đạt cảm xúc như yêu thương, ao ước, buồn đau… được thể hiện qua động tác và chuyển động của cơ thể, cánh tay, ngón tay, khuôn mặt, đôi mắt. Nói chung do có tính sáng tạo mạnh mẽ nên nền nghệ thuật và kiến trúc Ấn Độ từ xưa đã rất phát triển. Đến thời hiện đại, có nhiều nhà văn của Ấn Độ đã đoạt giải Nobel như Tagore. Còn trong lịch sử, nền văn học Ấn Độ ảnh hưởng nhiều bởi truyền thống văn chương Hindi. Văn học cổ Ấn Độ cũng có lịch sử lâu đời và được truyền miệng phổ biến trước khi hệ thống văn viết ra đời. Điều này cũng giống như lịch sử văn học của nhiều nước khác. 15 ếc ố t Quản trị Kinh doanh Quốc tế 2.1.3 Khả năng trí tuệ của người Ấn Độ Triết học Ấn Độ: Ðời sống, tôn giáo và nền triết học gồm nhiều triết hệ của tiểu lục địa Ấn Ðộ phô diễn một hỗn hợp phong phú và đầy kinh ngạc. Ðược phát triển từ hơn ba ngàn năm trước, chúng gồm các ý tưởng, các thực hành và các phong tục xã hội. Tại Ấn Độ, không có một tôn giáo thuần nhất, cũng chẳng có một nền triết học độc nhất; đúng hơn, với nhiều cách thức am hiểu và liên hệ với thế giới, triết học Ấn Ðộ cũng như Ấn giáo, là một kho tàng chứa đựng các ý tưởng được bảo lưu một cách rộng rãi, trong đó một số ý tưởng này cổ đại hơn một số ý tưởng khác tới cả ngàn năm. Có thế nói, các tư tưởng tôn giáo và nghệ thuật… phần nào đó bắt nguồn từ tư tưởng triết học và cũng có thể coi chúng như là hệ thống tư tưởng triết học. Ấn Độ có lịch sử giao thương, giao lưu từ rất lâu nên nhiều người quan niệm Ấn Độ mang nhiều đặc điểm của giao lưu văn hóa Đông - Tây. Tôn giáo Ấn Độ ra đời từ sớm. Đạo Bàlamôn xuất hiện từ lâu. Sau đó nhiều thế kỉ là Phật giáo. Dù các nhà tư tưởng Phương Tây không theo đạo Phật nhưng họ vẫn khẳng định Đức Phật là một nhân vật lịch sử đã sáng tạo ra phật giáo và mang nhiều tư tưởng tiến bộ. Phật giáo sau đó rất thịnh hành ở nhiều nước phương Đông trong đó có Việt Nam. Ngoài ra kinh Veda hay nhiều phong tục tập quán hiện nay ở Ấn Độ minh họa thêm cho quá trình phát triển lâu dài của tư tưởng Ấn Độ. Nói chung thì đây là một vấn đề đa dạng và rất phức tạp. Về khoa học tự nhiên từ rất lâu, nền khoa học tự nhiên của người Ấn Độ đã phát triển. Về thiên văn và địa lí, người Ấn Độ đã biết làm lịch từ rất sớm. Thiên văn Ấn Độ bắt nguồn ngẫy nhiên từ môn chiêm tinh, họ duy tâm nên quan sát vũ trụ và các sao, từ đó sinh ra lịch.Các nhà thiên văn Ấn Độ cổ đại đã biết quả đát và mặt trăng đều hình cầu, biết được quỹ đạo của mặt trăng và tính được các kỳ trăng tròn, trăng khuyết. Họ tính được trực kính của mặt trăng, các ngày nhật thực, nguyệt thực,vị trí của các lưỡng cực.Họ biết được năm hành tinh: Thuỷ, Hoả, Mộc, Kim, Thổ. Họ còn biết được một số chòm sao và sự vận hành của một số vì sao chính. Về sau, Aryabhata (thế kỷ V) có giảng về nhật thực, nguyệt thực, hạ chí, đông chí, xuân phân, thu phân. Ông còn biết được Trái Đất tự quay quanh trục: “Thiên cầu đứng yên vì quả đất quay chung quanh trục của nó nên ta thấy các tinh tú mọc mỗi ngày mỗi đêm”. Điều đó cho thấy 16 Quản trị Kinh doanh Quốc tế người Ấn Độ khá hiểu biết về thiên văn và ngày càng phát triển. Tác phẩm thiên văn cổ nhất của Ấn Độ được biết đến ngày nay là quyển Siddhantas (khoảng 425 TCN). Toán học của người Ấn Độ cũng phát triển từ sớm. Họ là người phát minh là hệ thống các con số gồm 10 chữ số, và quan trọng là họ phát minh ra số 0. Từ đó tất cả các giá trị đều được diễn tả qua hệ số này. Trước kia người ta tưởng thành tựu này là của người Arập nhưng không phải. Về đại số: người Ấn Độ đã có ý niệm về số âm, đặt ra các quy tắc về hoán vị, tổ hợp, tính được căn bậc hai của số 2, họ còn sáng tạo nên các bài toán đố đại số rất hay… Về hình học, người Ấn Độ tính được số pi (π = 3,1416), tính được diện tích hình vuông, hình chữ nhật, tam giác, đa giác; biết được mối quan hệ các cạnh của tam giác vuông… Ngoài ra họ còn có nhiều thành tựu khác về vật lí và y dược… Trong thế giới hiện đại ngày nay, người Ấn Độ được biết đến trong nhiều lĩnh vực họ phát triển mạnh như công nghệ thông tin, công nghiệp nặng, công nghệ quốc phòng… Ấn Độ hiện nay cũng là một trong những nhà xưởng của thế giới. Họ cũng đặc biệt phát triển mạnh công nghệ thông tin, nhất là lĩnh vực phần mềm. Trong các tập đoàn lớn hiện nay như IBM hay Microsoft có rất nhiều nhân lực là người Ấn Độ. Việt Nam cũng hợp tác với Ấn Độ không chỉ về kinh tế mà còn về khoa học công nghệ. Với nhịp độ dân số phát triển nhanh như hiện nay, không lâu nữa Ấn Độ sẽ là quốc gia đông dân nhất thế giới, và họ sẽ là đất nước cung cấp nguồn nhân lực cho thế giới, nhất là khi dân số thế giới đang tăng chậm và có xu hướng già đi, ngay cả ở Trung Quốc. 2.2 Nhìn nhận về tính cách người Ấn Độ Có nhiều cách nhìn về tính cách của người Ấn, những nhà làm du lịch thì cho là người Ấn mến khách và cởi mở. Nhiều người không nghĩ thế, họ cho là người Ấn Độ hay tự ti và khó gần. Nhưng chắc chắn là có sự khác biệt so với người Việt Nam. Có rất nhiều điều thú vị được kể từ những người đã đến Ấn Độ. Nhiều người khi nói đến Ấn Độ họ nghĩ đến bẩn thỉu, nhếch nhác. Cũng có phần đúng, những đô thị 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan