MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................. page 3
A. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG.
I.
II.
Khái niệm:............................................................................... page 4
Các quy định về vấn đề thực hiện hợp đồng lao động:........... page 4
B. CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG.
I.
Khái niệm:............................................................................... page 8
II.
Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định trong Bộ Luật Lao
Động:....................................................................................... page 8
III.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:............................ page 11
IV.
Hậu quả pháp lý khi chấm dứt hợp đồng lao động:................ page 15
C. THỰC TRẠNG XÃ HỘI VỀ ĐỀ TÀI.
I.
II.
Thực trạng thực hiện hợp và áp dụng hợp đồng lao động:..... page 23
Thực trạng về chấm dứt hợp đồng lao động:.......................... page 26
D. KẾT LUẬN................................................................................ page 32
E.
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... page 33
LỜI MỞ ĐẦU
Đời sống kinh tế xã hội phát triển, khái niệm hợp đồng lao động không còn quá xa lạ với mọi
người. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều trường hợp thiếu hiểu biết về hợp đồng lao động gây ra
những thiệt hại đáng kể đặc biệt là cho người lao động - những người thường yếu thế hơn so
với người sử dụng lao động. Hợp đồng lao động có vai rò rất quan trọng. Thông qua hợp
đồng lao động, quyền và nghĩa vụ giữa người lao động và người sử dụng lao động được thiết
lập, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp (nếu có). Ngoài ra hợp đồng lao động cũng là một
trong những hình thức pháp lí nhất để công dân thực hiện quyền làm chủ của mình, thể hiện
qua việc tự do lựa chọn công việc, chỗ làm, mức lương phù hợp. Nhà nước dựa vào hợp đồng
lao động để quản lí nhân lực đang làm việc tại các công ty, cơ sở sản suất.
Xuất phát từ nhu cầu cũng như đòi hỏi mới phát sinh từ thực tiễn quan hệ lao động trong nền
kinh tế thị trường, Nhà nước đã đặc biệt chú trọng tới công tác xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ
thống pháp luật lao động. Từ khi ra đời đến nay đã qua ba lần sửa đổi, bổ sung (2002, 2006,
2007), các quy định về hợp đồng lao động đã đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị
trường. Thông qua vai trò điều chỉnh của những quy định này, hệ thống quan hệ lao động đã
dần đi vào quỹ đạo, điều hòa lợi ích của người lao động người sử dụng lao động, lợi ích
chung của Nhà nước và xã hội. Đặc biệt trong đó có những quy định sửa đổi, bổ sung nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng lao động cũng như các vấn đề liên quan đến
nó để phù hợp với bối cảnh chung của thị trường lao động ở Việt Nam. Tuy nhiên, do mặt trái
của nền kinh tế thị trường kết hợp với nhiều nguyên nhân khác mà tình trạng vi phạm pháp
luật lao động ngày càng trở nên phổ biến, trong đó việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái
pháp luật là một vấn đề đang gây nhiều bức xúc. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến tính bền
vững của quan hệ lao động, lợi ích của các bên chủ thể, cũng như sự ổn định và phát triển của
đời sống kinh tế xã hội. Chính vì vậy, việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật cần
phải có sự quan tâm đặc biệt từ phía Nhà nước cũng như toàn xã hội, góp phần bảo vệ quyền
lợi của người lao động, người sử dụng lao động .
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn về cách thực hiên hợp đồng lao động như thế nào cũng
như tại sao lại xảy ra việc chấm dứt hợp đồng , ai là người có quyền chấm dứt hợp đồng lao
động, quyền và nghĩa vụ của các bên như thế nào khi hợp đồng lao động chấm dứt và hậu quả
pháp lí xảy ra.
A. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
I.
Khái niệm:
Phần này chúng tôi sẽ tìm hiểu về khái niệm thực hiện hợp đồng lao động, nhưng trước tiên
nên hiểu được khái niệm hợp đồng lao động. Khái niệm hợp đồng lao động đã xuất hiện từ rất
lâu trong hệ thống pháp luật của nhiều nước như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Trung Quốc…, có
nhiều cách tiếp cận khác nhau và được giải thích bởi sự khác nhau về lý luận khoa học Luật
Lao Động, truyền thống pháp lý, điều kiện cơ sở kinh tế, xã hội của nền kinh tế… Nhưng các
khái niệm đều có ít nhiều những điểm tương đồng. Hiện nay trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, khái niệm hợp đồng lao động được quy định tại Điều 15 Bộ Luật Lao Động 2012:
“Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động vể việc
làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao
động”. So với Bộ Luật Lao Động 1994 thì khái niệm này vẫn được giữ nguyên. Và đây được
coi là khái niệm pháp lý chính thức về hợp đồng lao động trong hệ thống pháp luật Việt Nam
hiện nay.
Còn về khái niệm thực hiện hợp đồng lao động ta có thể hiểu như sau, thực hiện hợp đồng lao
động là sự hiện thực hóa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ lao động, hay
thực hiện hợp đồng lao động là hành vi pháp lý của hai bên nhầm thực hiện các quyền và
nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng lao động.
II.
Các quy định về vấn đề thực hiện hợp đồng lao động:
Sau khi giao kết hợp đồng lao động, các bên phải bằng hành vi của mình thực hiện nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng… Hợp đồng khi đã hình thành trở thành “luật” với các bên, vể nguyên
tắc mỗi bên phải thực hiện đúng, đầy đủ và thiện chí tạo điểu kiện để bên kia thực hiện hợp
đồng lao động. Ví dụ ở phương diện nào đó, lợi ích các bên có đối lập, nhưng xét toàn bộ quá
trình lao động, quyền lợi các bên chỉ có được khi quan hệ lao động diễn ra ổn định, hài hòa
trên cơ sở sự hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau.
Song, do thỏa thuận của các bên xác lập tại một thời điểm cụ thể với điều kiện khả năng nhất
định, trong khi quá trình lao động diễn ra trong thời gian dài, có thể xảy ra nhiều sự kiện
khách quan, chủ quan khiến các bên không muốn hay không thể thực hiện đúng thỏa thuận.
Vì vậy, việc ghi nhận quyền và khả năng thay đổi hợp đồng là cần thiết, mang tính tất yếu
khách quan. Thay đổi hợp đồng lao động là hành vi pháp lý của các bên nhầm thay đổi quyền
và nghĩa vụ trong quan hệ lao động.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 35 Bộ Luật Lao Động 2012: khi một trong hai
bên có nhu cầu thay đổi nội dung hợp đồng thì có quyền đưa ra yêu cầu với bên kia để cùng
bàn bạc, thảo luận thống nhất ý kiến; nếu bên kia đồng ý, hợp đồng sẽ được thực hiện theo
nội dung sửa đổi. Việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động được tiến hành bằng việc ký kết
phụ lục hợp đồng hoặc giao kết hợp đồng lao động mới. Sửa đổi là điều chỉnh các điều khoản
đã được thỏa thuận trong hợp đồng lao động; bổ sung là đưa thêm vào nội dung hợp đống lao
động những điều khoản mới. Ký kết phụ lục hợp đồng chính là sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao
động, theo khoản 1 Điều 24 Bộ Luật Lao Động 2012 thì phụ lục hợp đồng lao động là một bộ
phận của hợp đồng lao động và có hiệu lực như hợp đồng lao động. Bên đưa ra yêu cầu thay
đổi phải báo trước cho bên kia ba ngày. Quyền tự do thỏa thuận ở đây được bảo đảm, bởi hợp
đồng lao động chỉ thay đổi khi có sự thống nhất ý chí của hai bên.
Ngoài ra, việc thực hiện, thay đổi hợp đồng lao động cũng phải tuân thủ các quy định khác:
¨ Quy định tại Điều 31 Bộ Luật Lao Động 2012 về tạm thời điều chỉnh người lao động làm
công việc khác. Ở đây không có sự bàn bạc thảo luận mà là quyết định từ người sử dụng lao
động. Nhưng quyết định đơn phương này không được tùy tiện mà phải tuân thủ đúng pháp
luật – về lý do, thời hạn báo trước, thời hạn điều chuyển người lao động làm công việc trái
nghề chỉ trong
¨
¨ hai trường hợp: khi gặp khó khăn đột xuất hoặc do nhu cầu sản xuất kinh doanh. Những
trường hợp được coi là “khó khăn đột xuất” cũng được quy định tại khoản 1 Điều 31 của Bộ
luật này, nhưng trường hợp được coi là “do nhu cầu sản xuất, kinh doanh” thì không có quy
định hay văn bản nào hướng dẫn, bởi sự đa dạng về quy mô, tính chất, điều kiện, khả năng…
của các đơn vị. Vì vậy, thực tế nhu cầu này thường do người sử dụng lao động xác định và
trong nhiều trường hợp họ điều chuyển người lao động không căn cứ, thậm chi để trù dập, trả
thù. Do đó, cần quy định cụ thể trường hợp này và chỉ có thể trên cơ sở các thỏa thuận tập
thể. Mặt khác, lien quan đến quyền điều chuyển này, nhiều người sử dụng lao động vẫn hiểu
là quyền thuộc nội dung quyền quản lý lao động mà không cân lý do, thậm chí có cơ quan
giải quyết tranh chấp cũng chưa nhận thức đúng vấn đề.
¨ Khoản 1 Điều 45 Bộ Luật Lao Động 2012 quy định về sự thay đổi người sử dụng lao
động. Người sử dụng lao động mới không phải là chủ thể giao kết trong hợp đồng lao động
những vẫn phải chịu trách nhiệm tiếp tục sử dụng số lao động hiện có và tiến hành sửa đổi,
bổ sung hợp đồng lao động. Tuy nhiên trong khoản 1 Điều này cũng có quy định trường hợp
không sử dụng hết số lao động hiện có thì người sử dụng lao động kế tiếp phải xây dựng và
thực hiện phương án sử dụng lao động theo quy đinh tại Điều 46 của Bộ luật này như đưa đi
đạo tạo lại, cho nghĩ hư hoặc chấm dứt hợp đồng lao động…
Như vậy, thực hiện hợp đồng lao động là sự tiếp nối có tính tất yếu trong quan hệ hợp đồng
lao động khi hợp đồng đã được giao kết, còn thay đổi hợp đồng lao động dường như cũng là
sự kiện khách quan trong quan hệ lao động. Dù pháp luật đã dự liệu vấn đề này từ nhiều khía
cạnh khác nhau, song xét cả lý luận và thực tiễn vẫn còn nhiều nội dung cần được tiếp cận
một cách khoa học, phù hợp với đặc trưng của quan hệ hợp đồng lao động.
Bên các quy định về việc thực hiện hợp đồng, sửa đổi và bổ sung hợp đồng nêu trên, còn có
một vấn đề cũng rất quan trọng. Đó là quy định về tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động là sự kiện pháp lý đặc biệt, biểu hiện là sự tạm thời
không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của hai bên trong một thời hạn nhất định. Thời hạn
tạm hoãn do các bên thỏa thuận hoặc tùy thuộc trường hợp cụ thể. Hết thời gian tạm hoãn,
nói chung hợp đồng lại được tiếp tục thực hiện. Tạm hoãn hợp đồng lao động được quy định
tại Điều 32 Bộ Luật Lao Động 2012 với năm trường hợp:
·
Người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự.
·
Người lao động bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
·
Người lao động phải chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
·
Lao động nữ mang thai theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
·
Các trường hợp khác do hai bên thỏa thuận.
Trong các trường hợp trên thì trường hợp ba và bốn là hai trường hợp mới được thêm vào so
với Bộ Luật Lao Động 1994 sửa đổi bổ sung năm 2002. Với trường hợp thứ năm: tạm hoãn
do hai bên thỏa thuận, không có văn bản quy định, hướng dẫn chi tiết nên cá nhân chúng tôi
cho là ở đây cả người lao động và người sử dụng lao dộng đều có quyền đề nghị tạm hoãn
hợp đồng lao động với bất kỳ lý do gì. Người lao động có thể đề nghị tạm hoãn hợp đồng lao
động vì nhu cầu tham quan, du lịch, nghỉ mát dưỡng sức, chữa bệnh…; người sử dụng lao
động có thể do khó khăn nào đó không đảm bảo đủ việc làm cho người lao động… Nếu bên
kia đồng ý hoàn toàn thì hợp đồng lao động được tạm hoãn không cần điều kiện gì khác.
Việc giả quyết hậu quả pháp lý của tạm hoãn hơp đồng lao động phụ thuộc vào từng trường
hợp tạm hoãn cụ thể (Điều 32 Bộ Luật Lao Động 2012):
¨ Hết thời hạn tạm hoãn hợp đồng lao động trong trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 4
và khoản 5 Điều 32 Bộ Luật Lao Động 2012, người sử dụng lao động có trách nhiệm sắp xếp
việc làm cho người lao động để hợp đồng lao động được tiếp tục thực hiện, nếu phải nghỉ chờ
việc thì người lao động được hưởng lương theo quy định tại khoan 1 Điều 98 Bộ Luật Lao
Động; trường hợp người lao động không đến địa điểm làm việc mà không có lý do chính
đáng theo quy định thì bị xử lý kỷ luật.
¨ Hết hạn tạm hoãn hợp đồng lao động trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 32 Bộ
Luật Lao Động 2012 và người lao động cũng không còn bị tạm giữ, tạm giam, phạt tù… thì
người sử dụng lao động có thể phải nhận người lao động trở lại làm công việc cũ, trả đủ tiền
lương và các quyền lợi khác trong thời gian người lao động bị tạm giam, tạm giữ (nếu người
lao động không vi phạm pháp luật); hoặc tùy mức độ vi phạm của người lao động mà quyết
định bố trí công việc cũ hoặc sắp xếp công việc mới.
So sánh các quy định về vấn đề thực hiện hợp đồng lao động trong các Bộ Luật Lao Động, cụ
thể là Bộ Luật Lao Động 2012 và Bộ Luật Lao Động 1994 sửa đổi bổ sung năm 2002, nhìn
sơ lược ta có thể thấy các quy định về thực hiện hợp đồng ngày càng nhiều hơn, chỉ tiết hơn
và được sắp xếp, trình bày rõ ràng hơn. Bộ Luật Lao Động 2012 đã có những bổ sung như
thêm hai trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động; quy định về thời hạn mà người
sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc sau khi hết thời gian tạm hoãn
thực hiện hợp đồng lao động; quy định về người làm việc không trọn vẹn thời gian.
+Điều 34 Bộ Luật Lao Động 2012 quy định mới về hình thức làm việc không trọn thời gian
nhằm đảm bảo các chế độ lao động đối với người lao động khi thỏa thuận với người sử dụng
lao động lựa chọn hình thức làm việc này.
B. CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
I.
Khái niệm:
Chấm dứt hợp đồng lao động là sự kiện người lao động chấm dứt làm việc cho người sử dụng
lao động do hợp đồng lao động đương nhiên chấm dứt , do người lao động bị sa thải, hoặc do
một trong hai bên đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn.
II.
các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động:
Theo pháp luật lao động hiện hành, có 10 trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động được quy
định tại Điều 36 BLLĐ 2012.
1. hết hạn hợp đồng lao động,trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của bộ luật
này.
2.
đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.
3.
hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động.
4. người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng
lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòaán.
5. người lao động chết, bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã
chết
6. người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu
theo quy định tại điều 187 của bộ luật này.
7. người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự,
mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.
8. người lao động bị xử lý kỉ luật sa thải theo quy định tại khoản 3 Điều 125 của bộ luật
này. Cụ thể: Điều 125: Hình thức xử lí kỉ luật lao động
1.
khiển trách
2.
kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng; cách chức.
3.
sa thải.
9. người lao dộng đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại điều 37 của
bộ luật này.
10.
người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy
định tại điều 38 của bộ luật này; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay
đổi cơ cấu , công nghệ hoặc vì lí do kinh tế hoặc do sáp nhập , hợp nhất, chia tách doanh
nghiệp, hợp tác xã.
v So sánh, phân tích, nhận xét, đánh giá luật lao động 1994 sửa đổi, bổ sung năm 2002
và luật lao động 2012.
So với luật cũ thì bộ luật lao động 2012 quy định một cách chi tiết và cụ thể hơn các trường
hợp chấm dứt hợp đồng lao động (chỉ ra 10 trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động) còn
điều 36 BLLĐ 1994 sửa đổi bổ sung 2002 thì chỉ nêu ra 5 trường hợp hợp đồng lao động
chấm dứt:
“Hợp đồng lao động chấm dứt trong những trường hợp sau đây:
1.
Hết hạn hợp đồng;
2.
Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng;
3.
Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng;
4. Người lao động bị kết án tù giam hoặc bị cấm làm công việc cũ theo quyết định của Toà
án;
5.
Người lao động chết; mất tích theo tuyên bố của Toà án.”
Như vậy, BLLĐ hiện hành có nhiều điểm đổi mới quy định chặt chẽ hơn trong vấn đề chấm
dứt hơp đồng .Do vậy việc áp dụng luật dễ dàng hơn , không bị sai sót, đảm bảo tính công
bằng cho người lao động và người sử dụng lao động. Người lao động tránh được tình trạng
thất nghiệp khi doanh nghiệp muốn sa thải NLĐ một cách vô cớ, không lí do.Đặc biệt, LLĐ
2012 đề cập đến đối tượng mới là người mất năng lực hành vi dân sự mà LLĐ cũ không có đề
cập. do đó, nó đảm bảo tính nhất quán cho mọi đối tượng trong xã hội. Tuy nhiên, NSDLĐ sẽ
đươclợi trong trường hợp mà doanh nghiệp sáp nhập, chia tách, hợp nhất vì như vậy doanh
nghiệp có cơ hội thay đổi nhân sự mới mà không vi phạm các quy định của pháp luật.Tóm
lại, LLĐ 2012 tiến bộ hơn LLĐ cũ
v Khi chấm dứt hợp đồng lao động, tùy từng trường hợp cụ thể doanh nghiệp thường vi
phạm một số quy như: không lên phương án sử dụng lao động, vi phạm thời gian báo
trước chấm dứt hợp đồng, không áp dụng đúng luật, đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động...
Dưới đây là 7 lỗi thường gặp khi chấm dứt hợp đồng lao động:
1: Vi phạm thời gian báo trước
Doanh nghiệp chỉ được chấm dứt hợp đồng lao động khi thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì
lý do kinh tế sau khi đã trao đổi với tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở và thông báo
trước 30 ngày cho Sở Lao động Thương binh và Xã hội.
Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, doanh nghiệp cần báo cho người lao động biết
trước:
- Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
- Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;
- Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc
nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.
Trong trường hợp đơn phương chấm dứt HDLD, nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước,
bên vi phạm phải bồi thường cho bên kia một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người
lao động trong những ngày không báo trước.
2. Không lên phương án sử dụng lao động
Doanh nghiệp khi cho người lao động thôi việc vì thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do
kinh tế khiến cho nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm có trách nhiệm xây dựng
phương án sử dụng lao động. Nếu doanh nghiệp không có khả năng sử dụng tiếp lao động thì
mới cho họ thôi việc.
Trong trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, nếu người sử dụng lao động
kế tiếp không sử dụng hết số lao động hiện có thì phải xây dựng và thực hiện phương án sử
dụng lao động.
3. Áp dụng không đúng căn cứ chấm dứt hợp đồng
Trong trường hợp sát nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp: chỉ khi các hoạt động này
được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp thì người sử dụng lao động kế tiếp mới
có nghĩa vụ thực hiện các công việc như nêu trên. Doanh nghiệp thường nhầm lẫn với trường
hợp chia quyền quản lý giữa công ty mẹ và công ty con với chia tách doanh nghiệp: hợp nhất,
sáp nhập các bộ phận trong công ty với hợp nhất, sát nhập doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp đơn phương chấm dứt hợp đồng do người lao động thường xuyên
không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động, doanh nghiệp cần căn cứ vào mức độ
không hoàn thành công việc trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy,...
chứ không thể căn cứ vào kết quả lao động không đáp ứng mong muốn của doanh nghiệp.
Hay việc người lao đọng làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn ốm đau đã
điều trị 12 tháng liền, người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12
tháng đến 36 tháng ốm đau đã điều trị 06 tháng liền, và người lao động làm theo hợp đồng
lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng ốm đau
đã điều trị quá nửa thời hạn của hợp đồng lao động, mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì được xem xét để giao kết tiếp hợp đồng lao
động.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần lưu ý các căn cứ pháp luật khi áp dụng hình thức kỷ luật sa
thải.
4. Không có sự tham gia của Ban chấp hành công đoàn cơ sở
Đối với quy trình, thủ tục mà luật yêu cầu phải có sự tham gia của ban chấp hành công đoàn
cơ sở thì phải có sự hiện diện của thành phần này. Hiện nay, các doanh nghiệp thường bỏ qua
yếu tố này dẫn đến rủi ro pháp lý khi bị kiện ra tòa.
5. Thời hiệu xử lý kỷ luật
Tối đa 6 tháng kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm. Tối đa 12 tháng đối với trường hợp hìanh
vi vi phạm liên quan trực tiếp đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh
doanh của doanh nghiệp. Một số trường hợp có thể kéo dài nhưng theo quy định của pháp
luật.
6. Trợ cấp mất việc làm và trợ cấp thôi việc
Doanh nghiệp phải chi trả trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm cho người lao động nếu
họ đáp ứng điều kiện được nhận các khoản này, cụ thể: số tiền được hưởng, thời gian tính,
tiền lương tính trợ cấp.
7. Người có thẩm quyền xử lý kỷ thuật sa thải
Người có thẩm quyền ký quyết định sa thải là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc
người đại diện theo ủy quyền của người này trong trường hợp người này đi vắng thì phải có
văn bản ủy quyền
III.
1.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là gì ?
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là việc một trong hai bên có thể tự chấm dứt hợp
đồng không cần có thỏa thuận với bên còn lại nhưng vẫn được pháp luật công nhận. Đơn
phương chấm dứt hợp đồng chỉ được chấp nhận trong một số trường hợp luật định.
2.
Các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:
v Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:
Theo điều 37 BLLĐ 2012 quy định các trường hợp người lao động có thể đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động:
1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động
theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều
kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp
đồng lao động;
c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao
động;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ
trong bộ máy nhà nước;
e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có
thẩm quyền;
g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo
hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm
việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới
12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người
lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1
Điều này;
b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là
hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng
đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;
c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử
dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước
ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
ð Nhận xét:
Nhìn chung, BLLĐ 2012 quy định về điều này không có gì khác so với BLLĐ 1994 sửa đổi
2002. Chỉ có một điểm khác duy nhất là về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ:
Bổ sung trường hợp khi bị “quấy rối tình dục” tại Điểm c - Khoản 1 – Điều 37. Sự bổ sung
này được cho là hợp lí khi gần đây có rất nhiều trường hợp nhân viên đi làm bị “quấy rối tình
dục” nhưng không có hướng giải quyết cho phù hợp, quy định mới này bảo vệ quyền lợi của
người lao động một cách tốt hơn.
v Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:
Quy định tại điều 38 BLLĐ 2012
1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những
trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp
đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động
làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với
người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời
hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao
kết hợp đồng lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật,
mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản
xuất, giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ
luật này.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người
lao động biết trước:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối
với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12
tháng.
ð Nhận xét:
So với BLLĐ 1994 sửa đổi bổ sung 2002 thì BLLĐ hiện hành đã bỏ quy định phải trao đổi
với Ban chấp hành công đoàn khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ.Điều này cho thấy sự “độc
đoán” của người sử dụng lao động khi quyết định đơn phương chấm dứt HĐLĐ, thực chất có
những quy định của luật còn chưa rõ ràng, nếu quy định như vậy người bị thiệt thòi hơn sẽ là
người lao động.Tuy nhiên điều này làm giảm bớt tính phức tạp trong quá trình người sử dụng
lao động chấm dứt HĐLĐ đối với người lao động.
Quy định khi lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động thì
người sử dụng lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là chưa rõ ràng
và còn hơi nghiêng về phía người sử dụng lao động. Cần phải có những quy định rõ hơn để
quy định như thế nào là “thương xuyên không hoàn thành công việc”. Vì nếu chỉ quy định
như vậy, mỗi công ty, mỗi người sử dụng lao động sẽ có một cách hiểu khác nhau. Và quyền
lợi của người lao động luôn bị thiệt thòi so với người sử dụng lao động.
3. Hủy bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động & đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động trái pháp luật:
Việc hủy bỏ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái
pháp luật được quy định trong bộ luật lao động 2012 tại điều 40, điều 41. Cụ thể:
Điều 40. Huỷ bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Mỗi bên đều có quyền huỷ bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước khi hết
thời hạn báo trước nhưng phải thông báo bằng văn bản và phải được bên kia đồng ý.
Điều 41. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là các trường hợp chấm dứt hợp đồng
lao động không đúng quy định tại các điều 37, 38 và 39 của Bộ luật này.
4.
Nghĩa vụ khi chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:
4.1. Về phía người sử dụng lao động:
Điều 42, BLLĐ 2012 quy định: "Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả
tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm
việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường
quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy
định tại Điều 48 của Bộ luật này.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao
động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi
việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường
thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp
đồng lao động.
4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao
động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai
bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao
động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không
báo trước."
4.2. Về phía người lao động
Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp
luật
1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng
tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao
động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không
báo trước.
3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ
luật này.
IV.
HẬU QUẢ PHÁP LÝ KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
1) Hậu quả pháp lý khi hợp đồng lao động đương nhiên chấm dứt
a. Hậu quả pháp lý khi hết hạn hợp đồng :
Khi hết hạn hợp đồng lao động người sử dụng lao động có nghĩa vụ thanh toán hết những chi
phí, khoản nợ, tài sản hay tiền lương còn lại cho người lao động. Theo quy định tại điều 47
BLLĐ 2012 quy định :
Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động
1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng lao
động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao
động.
2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách
nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc
biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.
3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm
xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động.
4. Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản thì
tiền lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các
quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã
ký kết được ưu tiên thanh toán.
Người lao động có nghĩa vụ hoàn thành những công việc, nghĩa vụ còn lại trong hợp đồng đối
với người sử dụng lao động. Đồng thời người lao động có quyền được hưởng trợ cấp thôi
việc hoặc trợ cấp mất việc làm theo quy định tài Điều 48 và 49 BLLĐ 2012.
b. Hậu quả pháp lý khi đã hoàn thành công việc trong hợp đồng :
Khi người lao động đã hoàn thành công việc trong hợp đồng lao động thì hợp đồng lao động
đương nhiên chấm dứt, và lúc ngày hai bên người sử dụng lao động và người lao động cũng
sẽ phải hoàn thành những công việc, nghĩa vụ còn lại theo hợp động. Người sử dụng cũng
phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại điều 47 BLLĐ 2012.
c. Hậu quả pháp lý khi có sự thỏa thuận chấm dứt hợp đồng của 2 bên :
Khi có sự thỏa thuận của hai bên về chấm dứt hợp đồng lao động thì cũng tương tự như trên
hai bên cũng phải thực hiện hết những thỏa thuận về nghĩa vụ và quyền lợi khác trong hợp
đồng.
d. Hậu quả pháp lý khi Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công
việc cũ theo quyết định của Toà án :
Khi có quyết định của tòa án đối với một người bị xử tử hình hay bị cấm làm công việc cũ thì
hợp đồng lao động với người đó sẽ buộc chấm dứt, những nghĩa vụ và quyền lợi chưa thực
hiện sẽ phân xử theo quyết định của tòa án và những pháp luật tố tụng có liên quan.
e. Hậu quả pháp lý khi người lao động chết; mất NLHVDS, bị tuyên bố chết, mất tích
theo quyết định của Toà án :
Đối với trường hợp này thì tương tự như trường hợp d ở trên, khi có quyết định của tòa án
tuyên bố một người là chết hay mất tích thì những quan hệ pháp luật có liên quan sẽ được xử
lí theo pháp luật dân dự, và đương nhiên lúc này hợp đồng lao động với người đó sẽ chấm dứt
, các quyền và nghĩ vụ sẽ được thực hiện theo quyết định của tòa án kèm theo.
f. Hậu quả pháp lý khi người lao động về nghỉ hưu; Bị kỉ luật sa thải; NSDLĐ:
Theo quy định tại điều 124 luật lao động năm 1994 sửa dổi bổ sung năm 2002 quy định :
1- Nếu có nhu cầu, người sử dụng lao động có thể thoả thuận với người lao động cao tuổi kéo
dài thời hạn hợp đồng hoặc giao kết hợp đồng lao động mới theo quy định tại Chương IV của
Bộ luật này.
2- Khi đã nghỉ hưu, nếu làm việc theo hợp đồng lao động mới, thì ngoài quyền lợi theo chế
độ hưu trí, người lao động cao tuổi vẫn được hưởng quyền lợi đã thoả thuận theo hợp đồng
lao động.
3- Người sử dụng lao động có trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ người lao động cao
tuổi, không được sử dụng người lao động cao tuổi làm những công việc nặng nhọc, nguy
hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ người cao tuổi.
Theo quy định tại điều 167 Bộ luật lao động 2012 quy định về sử dụng người lao động cao
tuổi thì :
1. Khi có nhu cầu, người sử dụng lao động có thể thoả thuận với người lao động cao tuổi có
đủ sức khỏe kéo dài thời hạn hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới theo
quy định tại Chương III của Bộ luật này.
2. Khi đã nghỉ hưu, nếu làm việc theo hợp đồng lao động mới, thì ngoài quyền lợi đang
hưởng theo chế độ hưu trí, người lao động cao tuổi vẫn được hưởng quyền lợi đã thoả thuận
theo hợp đồng lao động.
3. Không được sử dụng người lao động cao tuổi làm những công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm có ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ người lao động cao tuổi, trừ trường hợp đặc biệt
theo quy định của Chính phủ.
4. Người sử dụng lao động có trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ của người lao động
cao tuổi tại nơi làm việc.
g. Hậu quả pháp lý khi chấm dứt hợp đồng lao động do phá sản, chia tách, sáp nhập tổ
chức:
Khi chia tách, sáp nhập...người sử dụng lao động phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ quy
định tại điều 45 Bộ luật lao động 2012 :
1. Trong trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã thì người sử
dụng lao động kế tiếp phải chịu trách nhiệm tiếp tục sử dụng số lao động hiện có và tiến hành
việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trong trường hợp không sử dụng hết số lao động hiện có, thì người sử dụng lao động kế tiếp
có trách nhiệm xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động theo quy định tại Điều 46
của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, thì
người sử dụng lao động trước đó phải lập phương án sử dụng lao động theo quy định tại Điều
46 của Bộ luật này.
3. Trong trường hợp người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc theo quy định tại
Điều này, thì phải trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động theo quy định tại Điều 49 của
Bộ luật này.
2) Hậu quả pháp lý khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn
a. Trường hợp Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động từ phía người lao động :
Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36
tháng, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới
12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn trong những trường hợp
sau đây:
- Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các
điều kiện làm việc đã thoả thuận trong hợp đồng;
- Không được trả công đầy đủ hoặc trả công không đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng;
- Bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao động;
- Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp
đồng;
- Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức
vụ trong bộ máy Nhà nước;
- Người lao động nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của thầy thuốc;
- Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 3 tháng liền đối với người làm việc theo hợp
đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng, và 1/4 thời hạn hợp đồng đối
với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định
có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao chưa được hồi phục.
* Người lao động làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước
ít nhất 45 ngày; người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 06 tháng liền thì phải báo
trước ít nhất 3 ngày.
b. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động từ phía người sử dụng lao động:
Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những
trường hợp sau đây:
- Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng;
- Người lao động làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn ốm đau đã điều trị 12
tháng liền, người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến
36 tháng ốm đau đã điều trị 06 tháng liền, và người lao động làm theo hợp đồng lao động
theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng ốm đau đã điều trị
quá nửa thời hạn hợp đồng lao động, mà khả năng lao động chưa hồi phục
- Do thiên tai, hoả hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của Chính phủ,
mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản
xuất, giảm chỗ làm việc;
- Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức chấm dứt hoạt động.
- Sau 15 ngày kể từ thời điểm hết hạn tạm hoãn mà người lao động ko đến….
c. Bồi thường do vi phạm thời hạn báo trước
Trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nếu vi phạm quy định về thời
hạn báo trước, bên vi phạm phải bồi thường cho bên kia một khoản tiền tương ứng với tiền
lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
d. Những trường hợp người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động
- Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều
dưỡng theo quyết định của thầy thuốc, trừ trường hợp quy định tại điểm c và điểm đ khoản 1
Điều 38 của Bộ luật lao động;
- Người lao động đang nghỉ hàng năm, nghỉ về việc riêng và những trường hợp nghỉ khác
được người sử dụng lao động cho phép;
- Người lao động là nữ trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 155 của Bộ luật lao
động.
- Khoản 3 Điều 155 của Bộ luật lao động quy định: Người sử dụng lao động không được sa
thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động nữ vì lý do kết
hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm
dứt hoạt động).
e. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
Các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bị xem là trái pháp luật
- Đối với người lao động: Đó là các trường hợp chấm dứt không đúng lý do hoặc không tuân
thủ thời hạn báo trước theo quy định tại khỏan 1,2 Điều 37
- Đối với người sử dụng lao động: đơn phương chấm dứt Hđlđ trái pháp luật là trường hợp
chấm dứt không đúng lý do, không tuân thủ thời hạn báo trước hoặc chấm dứt HĐLĐ trong
những trường hợp không được phép đơn phương chấm dứt do luật quy định.
f. Hậu quả của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
f.1/ Đối với người sử dụng lao động
Trong trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp
luật thì phải nhận người lao động trở lại làm công việc theo hợp đồng đã ký và phải bồi
thường một khoản tiền tương ứng với tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) trong những
ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương và phụ cấp
lương (nếu có).
- Trong trường hợp người lao động không muốn trở lại làm việc, thì ngoài khoản tiền được
bồi thường này người lao động còn được trợ cấp thôi việc.
- Trong trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận người lao động trở lại làm việc
và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền bồi thường tương ứng với tiền lương và phụ
cấp lương (nếu có) trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất
02 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) và trợ cấp thôi việc, hai bên thoả thuận về
khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
f.2/ Đối với người lao động
Trong trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì
không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền
lương và phụ cấp lương (nếu có).
g. Giải quyết quyền lợi của hai bên khi chấm dứt hợp đồng lao động
g.1/ Cho người sử dụng lao động
Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động phải bồi thường chi phí đào tạo, trừ
trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động mà thực hiện đúng và đủ các quy định tại Điều 37
của Bộ luật Lao động đã sửa đổi, bổ sung.
g.2/ Cho người lao động
Khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động đã làm việc thường xuyên trong
doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đủ 12 tháng trở lên, người sử dụng lao động có trách
nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương,
nếu có.
- Người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc đối với người lao động đã làm
việc từ đủ 12 tháng trở lên trong các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại
Điều 36 của Bộ luật Lao động; Điều 37, các điểm a, c, d và điểm đ khoản 1 Điều 38, khoản 1
Điều 41, điểm c khoản 1 Điều 85 của Bộ luật Lao động đã sửa đổi, bổ sung.
- Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc là tiền lương theo hợp đồng lao động, được tính
bình quân của 6 tháng liền kề trước khi sự việc xảy ra, gồm tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ
cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có).
- Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian đã làm việc theo các bản hợp
đồng lao động đã giao kết (kể cả hợp đồng giao kết bằng miệng) mà người lao động thực tế
làm việc cho người sử dụng lao động đó.
- Ngoài thời gian nêu trên, nếu có những thời gian sau đây cũng được tính là thời gian làm
việc cho người sử dụng lao động:
- Thời gian thử việc hoặc tập sự tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức;
- Thời gian doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức nâng cao trình độ nghề nghiệp hoặc cử đi đào tạo
nghề cho người lao động;
- Thời gian chờ việc khi hết hạn tạm hoãn hợp đồng lao động hoặc người lao động phải
ngừng việc có hưởng lương;
- Thời gian học nghề, tập nghề tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức;
- Thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động do hai bên thoả thuận;
- Thời gian bị xử lý sai về kỷ luật sa thải hoặc về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
- Thời gian người lao động bị tạm đình chỉ công việc theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật
Lao động.
Các trường hợp không được trợ cấp thôi việc:
- Trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại điểm Điều 125 Bộ luật Lao động;
- Nghỉ hưởng chế độ hưu trí hàng tháng quy định tại Điều 145 của Bộ luật Lao động;
- Trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Lao
động và Điều 31 của Bộ luật Lao động đã sửa đổi, bổ sung thì người lao động không hưởng
trợ cấp thôi việc quy định tại khoản 1 Điều 42, mà được hưởng trợ cấp mất việc làm quy định
tại khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Lao động.
- Trường hợp người lao động chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
C. THỰC TRẠNG XÃ HỘI VỀ ĐỀ TÀI
I.
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ ÁP DỤNG HỢP
ĐỒNG LAO DỘNG
1.
Đối với NSDLĐ:
Thực trạng hiện nay là quyền lợi hợp pháp của lao động hiện vẫn chưa được NSDLĐ thực
hiện đầy đủ. Nguyên nhân dẫn đén tình trạng này là do một bộ phận NSDLĐ lợi dụng sự
thiếu hiểu biết của NLĐ và kẻ hở của pháp luật để lách luật nhằm thu lợi cho mình. Không
ích công ty, xí nghiệp,…,để xây dựng những hợp đồng “ưu việt” nhằm bẫy khách hàng, ccas
công ty thường thuê nhieuf luật sư giỏi về lách luật, về câu chữ để khi xảy ra những sự cố do
khách quan hoặc chủ quan thì chủ đàu tư cũng có lợi trong tay trong khi đại bộ phận NLĐ lại
bị thiệt thòi.
Hiện tượng NSDLĐ không đưa cho NLĐ một bản HĐ sau khi 2 bên đã ký và nhiều doanh
nghiệp không cấp sổ lao động cho NLĐ theo quy định.
Theo quy định thời gian thử việc không dựa trên trình độ được đào tạo như trước đây mà lại
dựa vào hợp đồng lao động lao động được ky kết; thế nhưng trên thực tế , thường thì qua thời
gian thử việc, nếu đạt mới ký hợp đồng lao động, vì vậy doanh nghiệp có thể sử dụng lao
động với mức lương thử việc trong một thời gian dài để thu lợi.
Một hình thức hết sức tinh vi mà NLĐ dễ bị lợi dụng là: hình thức cho thêu để trốn nghĩa vụ
với NLĐ. Vd : nhiều D/N tại địa phương A đã cho thuê lao động sang làm việc tai các đơn vị
khác tại địa phương B. Thế nhưng lại nảy sinh chuyện chủ D/N không vừa ý hay muốn đuổi
việc lao động nào thì sẽ cho thuê, điều động đi thật xa để người đó gặp khó khăn như mỗi lần
lãnh lương phải vượt quãng đường xa về công ty, tiền lương không được bao nhiêu nhưng lại
tốn chi phí đi lại…Khi NLĐ không có điều kiện làm việc sẽ phải tự ý bỏ việc . Như vậy D/N
không phải trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc. Cũng như có tình trạng D/N làm ăn thua lỗ,
cho thuê lại LĐ ở địa bàn xa trụ sở chính, đến khi NLĐ trở về công ty cũ thì mới hay công ty
đã giải thể, ban giám đốc biến mất.Đến lúc đó, NLĐ muốn đòi trợ cấp mất việc cũng không
biết đâu mà đòi.
Thêm vào đó tình trạng D/N không đóng bảo hiểm cho NLĐ, không đảm bảo các chế độ nghỉ
phép, thai sản, tiền thưởng cho NLĐ, D/N hạn chế tuyển dụng nữ vì lo chế độ thai sản là khá
phổ biến.
ð Theo tôi, nguyên nhân chính là do NSDLĐ cố tình lợi dụng kẻ hở của pháp luật. Nắm
được tâm lý của NLĐ là muốn có việc làm, nhiều D/N lờ đi việc ký HĐLĐ hoặc kéo dài thời
gian thử việc. Trong trường hợp phải bắt buộc ký hợp đồng lao động , họ tìm cách ghi trong
văn bản số lương tối thiểu. Hơn nữa lực lượng thanh tra, kiểm tra giám sát những vấn đề này
còn rất mỏng, chế tài xử lý các hành vi VPPLLĐ còn thiếu về nội dung và nhẹ về trách nhiệm
đối với người vi phạm nên dã tạo điều kiện cho nhiều D/N lợi dụng ke hở của pháp luật để
thực hiện hành vi vi phạm trong thời gian dài, phổ biến và phức tạp. Công đoàn của một số
đơn vị còn non yếu, hay là phớt lờ đi , nhiều khi là sợ bị “trù dập” của những ông chủ..chính
những sơ hở này đã giúp cho một số đối tượng SDLĐ chuộc lợi một cách bất chính và làm
thiệt hại không nhỏ lợi ích của NLĐ.
2.
Đối với NSDLĐ:
Bên cạnh đó khi xem xét một vấn đề chúng ta phải xét với nhiều góc độ. Tuy người thiệt thòi
đa số là NLĐ, nhưng cũng có rất nhiều NSDLĐ bị thiệt thòi. Trong thời kinh tế khó khăn,
DN đang phải chống đỡ nhiều áp lực: thị trường hành hóa, thị trường tài chính..Chi phí tốn
kém hơn, dn buộc phải thu hẹp kinh doanh. Hóc búa ở chỗ, tuy giảm quy mô kinh doanh
nhưng không dễ gì giảm được LĐ. DN vẫn phải trả đủ lương để nuôi quân, nhất là lao động
được trả lương theo thời gian. Một khó khăn nữa là: mặc dù pháp luật lao đọng hiện nay có
quy định NSDLĐ có quyền đơn phương chám dứt hợp đồng lao động với người lao động
theo điều 38 điểm 1 khoản c ,nhưng phải là lý do bất khả kháng mới có thể giảm chỗ làm
việc,chứ chưa cho phép sa thải NLĐ khi khong có nhu cầu sử dụng, mà chỉ có hình thức “sa
thải” do bị kỉ luật. Vì thế mới dẫn đến trường hợp nhiều DN rất sợ việc sa thải lao động, vì
mặc dù đã thích đáng về nội dung nhưng chỉ cần sơ sảy về thủ tục thì cũng trở thành sa thải
bất hợp pháp.
Ngày 30/9/2014 tại Hội trường Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, Công đoàn Công
thương Việt Nam đã tổ chức tọa đàm về “Bộ luật Lao động, Luật công đoàn năm 2012
sau 1 năm thực hiện – Vấn đề lao động và vai trò công đoàn trong Hiệp định Thương
mại tự do” khu vực phía bắc nhằm tổng kết đánh giá công tác thực hiện luật Lao động
và luật Công đoàn, thu thập ý kiến vướng mắc của các đơn vị cơ sở sau 1 năm Bộ luật
Lao động có hiệu lực thi hành, đồng thời phổ biến, nâng cao nhận thực của các đơn vị
cơ sở về vai trò của Công đoàn trong tiến trình Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế.
Đến dự và chỉ đạo Tọa đàm có đồng chí Lý Quốc Hùng, Chủ tịch CĐCT Việt Nam; đồng chí
Nguyễn Xuân Thái, Phó Chủ tịch CĐCTVN. Tham gia tọa đàm có đại diện Ban quan Hệ Lao
động Tổng liên đoàn và Đại diện Vụ chính sách Đa biên Bộ Công thương và hơn 70 đại biểu
đến từ các đơn vị trong ngành Công thương Việt Nam.
Qua một năm thực hiện Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn:
Về sử dụng lao động toàn ngành hiện có 3.408 lao động không có việc làm, theo đó nguyên
nhân chính là do tình hình kinh tế khó khăn tác động trực tiếp đến người lao động, đặc biệt là
công nhân sản xuất theo các mặt hàng theo nhu cầu thị trường tạo nên tình trạng thiếu việc
làm.
Về thực hiện ký hợp đồng lao động năm 2013 đã có 173.684 người ký hợp đồng lao động
chiếm 98,3%, trong đó: hợp đồng không xác định thời hạn là 68.322 người, chiếm 38,6%;
hợp đồng lao động từ đủ 12 tháng đến 36 tháng là 72.390 người, chiếm 40,7%; hợp đồng lao
động dưới 12 tháng 32.037 người, chiếm 18,1%; số lao động chưa ký hợp đồng lao động là
4.062 người, chiếm 0,9%. Còn lại là đối tượng ký hợp đồng dưới dạng thời vụ hiện đang
thiếu việc làm và các đối tượng không phải ký hợp đồng lao động 1.271 người chiếm 1,7%.
Hợp đồng lao động được ký kết giữa người lao động và người sử dụng lao động đều đảm bảo
theo quy định của Bộ Luật lao động về đối tượng, hình thức, nội dung của hợp đồng lao động
theo mẫu hướng dẫn của Bộ Lao động- TB&XH.
Về Tiền lương, thu nhập bình quân của các doanh nghiệp là 6.022.922 đồng/người/tháng,
trong đó: các doanh nghiệp nhà nước có thu nhập 5.241.533 đồng/người/tháng; các doanh
nghiệp dân doanh có thu nhập 6.870.602 đồng/người/tháng. Một số đơn vị luôn đảm bảo mức
tiền lương và thu nhập cao hơn so với mặc bằng toàn ngành. Nhìn chung, các doanh nghiệp
trong ngành đã thực hiện thanh toán tiền lương đầy đủ cho người lao động, không để nợ
lương; đồng thời xây dựng kế hoạch tiền thưởng cuối năm mức thưởng là từ 50.000 đồng đối
với người lao động làm đủ 1 tháng, bình quân 2.800.000 đồng đối với người lao động làm đủ
12 tháng trở lên. Việc nâng bậc lương hàng năm cho người lao động được các doanh nghiệp
thực hiện theo Quy chế nâng bậc lương của doanh nghiệp, hợp đồng lao động và thỏa ước lao
động tập thể đã được ký kết.
Về bảo hiểm xã hội, nhìn chung các đơn vị trong toàn ngành đều chấp hành các quy định của
Luật bảo hiểm xã hội. Các chế độ bảo hiểm xã hội như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp được các doanh nghiệp quan tâm thực hiện thanh toán kịp thời, tình trạng
nợ đọng bảo hiểm hàng năm không xảy ra.
Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, các doanh nghiệp thực hiện đúng quy định của Bộ
luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tùy theo điều kiện sản xuất kinh doanh
và tính chất nghề mà doanh nghiệp bố trí thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi hợp lý.
Đối với việc xây dựng và ký kết thỏa ước lao động tập thể, các đơn vị cơ sở đều đã triểu khai
thực hiện xây dựng và đăng ký thỏa ước lao động tập thể. Việc ký kết thỏa ước lao động tập
thể đảm bảo trình tự thủ tục, có biên bản lấy ý kiến tập thể người lao động. Nội dung thỏa
ước lao động tập thể đã quy định rõ quyền lợi và trách nhiệm của người lao động và người sử
dụng lao động về: việc làm, bảo đảm việc làm; hợp đồng lao động, thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi, tiền lương, BHXH…Tuy nhiên, cũng còn một số doanh nghiệp chưa nhận thức
đầy đủ về vai trò, tác dụng của việc ký kết thỏa ước lao động tập thể nên đến nay chưa xây
dựng được thỏa ước hoặc xây dưng thỏa ước nhưng chưa ký kết được.
Việc áp dụng chính sách đối với lao động nữ, nhiều doanh nghiệp có đông lao động nữ đặc
biệt là các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực da-giầy rong quá trình thực hiện Bộ luật Lao động
nhìn chung các doanh nghiệp đã đảm bảo cho lao động nữ có đủ việc làm, đời sống ổn định,
được bố trí làm việc ở những vị trí phù hợp với ngành nghề, sức khỏe của phụ nữ.
- Xem thêm -