Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận tốt nghiệp lớp tc llct xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo quản ...

Tài liệu Tiểu luận tốt nghiệp lớp tc llct xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo quản lý ở các trường thcs trong giai đoạn hiện nay

.DOC
38
576
82

Mô tả:

TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh MỤC LỤC Mở đầu. Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng nhân cách 1 người cán bộ lãnh đạo, quản lý. I: Một số vẫn đề cơ bản về nhân cách. II: Nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý. III: Yêu cầu xâu dựng nhân cách của người cán bộ lãnh đạo quản lý 3 3 4 trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 7 Chương II: Thực trạng và một số giải pháp xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở bậc THCS nghành giáo dục Huyện 10 Bố Trạch, Tỉnh Quảng Bình. I :Tình hình kinh tế - xã hội của huyện và thực trạng nhân cách của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở bậc THCS giáo dục huyện Bố 10 Trạch: II: Những yêu cầu đặc trưng về nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các trường học trên địa bàn Huyện Bố Trạch. III: Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện nhân cách 14 người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các trường học ở huyện Bố 19 Trạch. IV: Những kiến nghị Kết luận Tài liệu tham khảo 22 24 25 MỞ ĐẦU Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp hoá, hiện đại hoá. Nhiệm vụ đó rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây Häc viªn: 1 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh dựng một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Muốn quản lý được tốt, người lãnh đạo, quản lý cần phải "hiểu người, biết mình và khéo dùng người". Vậy trước hết, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải "tự hiểu rõ" mình. Công tác của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, người cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng một trong những yếu tố có vị trí hàng đầu, giữ vai trò quyết định đó là nhân cách của họ. Là người đứng đầu và chỉ đạo mọi hoạt động giáo dục trong trường học, nhân cách của người lãnh đạo quản lý có tác động mạnh mẽ đến giáo viên và học sinh, đây là những chủ thể có nhân cách rất nhạy cảm. Vì thế mà tương ứng với vị thế và vai trò của mình, người cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục phải có một nhân cách mẫu mực, hoàn thiện, cao hơn những người bình thường, có vai trò định hướng, gương mẫu, có ưu thế tác động nhiều mặt, biết tổ chức, tập hợp, lôi cuốn và thúc đẩy mọi người cùng hoàn thành nhiệm vụ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm được những yếu tố quy định và những yêu cầu có tính đặc trưng về nhân cách người lãnh đạo, quản lý có một ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, vừa có tính cơ bản lâu dài, vừa là đòi hỏi bức xúc của của các trường học hiện nay. Với những lý do như đã trình bày trên, là một cán bộ lãnh đạo, quản lý bậc THCS Phòng Giáo dục huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình, tôi chọn đề tài: “Xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo quản lý ở các trường THCS trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài tốt nghiệp của mình. Do còn hạn chế bởi khả năng và thời gian nên đề tài chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Vì vậy rất mong được sự giúp đỡ của quý thầy cô trường chính trị Tỉnh. Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung trong giai đoạn Cách mạng hiện nay ở Häc viªn: 2 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh nước ta, nhất là trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài tập trung nghiên cứu, tìm ra những phẩm chất nhân cách có tính đặc trưng của người lãnh đạo, quản lý ở bậc THCS thuộc Phòng Giáo dục huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Từ đó, đề ra giải pháp cơ bản nhằm không ngừng hoàn thiện và nâng cao phẩm chất nhân cách của họ. Đề tài chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những thực trạng về nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong trường học thuộc bậc THCS trên địa bàn Huyện Bố Trạch. Bản thân sử dụng một số phương pháp chủ yếu như sau: Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, lôgic lịch sử, thu thập thông tin từ các báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm của ngành GD Bố Trạch; Báo cáo đánh giá về tình hình GD - ĐT của Ban chấp hành Huyện uỷ và Hội động nhân dân Huyện Bố Trạch. Trên cơ sở đó làm rõ đặc điểm tình hình của địa phương và cụ thể hoá nhiệm vụ, vị trí, chức năng.. . từ đó, đề ra những yêu cầu về nhân cách cho phù hợp. Kết cấu của tiểu luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận được kết cấu thành hai chương chính: Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chương II: Thực trạng và một số giải pháp xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở bậc THCS ngành giáo dục Huyện Bố Trạch, Tỉnh Quảng Bình. Do khả năng nhận thức còn hạn chế, lại vừa công tác vừa hoàn thành đề tài, do đó chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Rất mong sự góp ý của thầy cô và đồng nghiệp. Xin chân thành cám ơn! Häc viªn: 3 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh NỘI DUNG Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ. Häc viªn: 4 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh I./ MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ NHÂN CÁCH : Nhân cách là khái niệm cơ bản của Tâm lý học cũng như một số nghành khoa học khác: Như giáo dục học, đạo đức học, xã hội học, triết học… Có nhiều định nghĩa về nhân cách, theo tâm lý học có các định nghĩa sau: “Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý cá nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của họ” “Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân, biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy” (Phạm Minh Hạc) “Nhân cách, đó là một tổ chức động của các hệ thống tâm - sinh lý trong cá nhân, chúng quy định sự thích ứng trọn vẹn của cá nhân đối với môi trường xung quanh” (G.Allport) “Nhân cách là tổng hoà các phẩm chất tâm lý, nói lên đặc điểm của từng người riêng biệt “(R.Meili) “Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lý đang quy định hình thức hoạt động và những hành vi có ý nghĩa xã hội” (E.V.Sôrôkhôva) Dù khác nhau, nhưng qua các định nghĩa trên ta thấy rằng: Con người trở thành một nhân cách khi đặt con người đó trong sự hoạt động, giao lưu với xã hội. Khi bàn về vấn đề này, Mác cho rằng trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, nhận định rất khái quát này đã nói lên bản chất, cấu trúc nhân cách cũng như chỉ ra con đường hình thành nhân cách, nhận định này đã là cơ sở lý luận cho Tâm lý học, Giáo dục học và các ngành khoa học nghiên cứu về con người. Từ những quan niệm về nhân cách, chúng ta thấy rằng cho đến nay vẫn chưa có một trường phái nào giải quyết một cách thoả đáng toàn diện vấn đề bản chất nhân cách. Ở Việt Nam, tuy rằng chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống, song cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây: Häc viªn: 5 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh - Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng lực. - Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người. - Nhân cách được hiểu như các phẩm chất của con người mới: làm chủ, yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động. - Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người. Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con người (ít nói đến cá nhân). Những phẩm chất nhân cách đó là những phẩm chất đòi hỏi ở mỗi con người phải có. Do đó, có thể hiểu: Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân với các cá nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của cá nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai. II./ NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ. 1.2. Đặc điểm của nhân cách: Nhân cách bao gồm bốn đặc điểm cơ bản sau: 1.2.1. Tính thống nhất: Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài, giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, giữa cái bên trong và cái bên ngoài, giữa cá nhân với xã hội. Đức và tài có mối quan hệ chặt chẽ biện chứng với nhau. Trong cái đức có cái tài, trong cái tài có cái đức, trong phẩm chất và năng lực của một cá nhân con người phải luôn thống nhất với nhau. 1.2.2. Tính ổn định của nhân cách: Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý tương đối ổn định, tiềm tàng trong mỗi cá nhân. Vì thế, nhân cách là cái sinh thành và phát triển trong suốt cuộc đời của mỗi con người, do đó nhân cách có tính ổn định tương đối của nó. Tính ổn định của nhân cách cao hay thấp là tùy thuộc vào mức độ hoàn thiện nhân cách của người đó. Các đặc điểm nhân cách, các phẩm chất nhân cách tương đối khó hình thành và cũng khó mất đi. Trong thực tế từng nét nhân cách Häc viªn: 6 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh có thể bị thay đổi do cuộc sống, nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn, tương đối ổn định. 1.2.3. Tính tích cực của nhân cách: Nhân cách vừa là chủ thể của hoạt động, vừa là sản phẩm của chính hoạt động giao tiếp, nghĩa là nó có tính tích cực của mình. Tính tích cực của nhân cách được thể hiện ở những hoạt động muôn màu, muôn vẻ và đa dạng, song đều tác động tích cực vào sự phát triển của xã hội. Do vậy, tính tích cực của nhân cách được quy định bởi hệ thống nhu cầu của cá nhân. 1.2.4. Tính giao lưu của cá nhân: Nhân cách chỉ có thể được hình thành và phát triển trên cơ sở giao lưu và hoạt động. Bởi lẽ trên cơ sở giao lưu, cá nhân mới có điều kiện để lĩnh hội, học hỏi để tiếp nhận các giá trị của xã hội, các chuẩn mực đạo đức, từ đó mà hoàn thiện nhân cách của mình, mới có điều kiện đóng góp những giá trị của cá nhân trong sự phát triển của cộng đồng, của xã hội. Từ đó mà mỗi cá nhân được đánh giá, được nhìn nhận, được thẩm định theo quan điểm của xã hội. 1.3. Cấu trúc của nhân cách. Nói đến cấu trúc nhân cách, chính là nói tới các thành phần của nhân cách. Xét về mặt tâm lý, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cấu trúc tổng quát của nhân cách có hai thành phần chính: Đức và tài, trong đó đức là nền tảng. Đức thể hiện phẩm chất và tài thể hiện năng lực của con người. Có bốn nhóm: Xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực đan xen trong phẩm chất đức và tài. Chính đức và tài cấu thành phẩm chất trên. Nhân cách của người lãnh đạo nói chung và cán bộ quản lý trong ngành giáo dục nói riêng: *Phẩm chất chính trị tư tưởng. Đó là khuynh hướng hoạt động chính trị xã hội và lập trường chính trị của người quản lý, được biểu hiện cụ thể trong ý thức chính trị trong công việc thường ngày, người quản lý luôn ý thức được hậu quả về mặt chính trị của hoạt động quản lý của mình. Nhạy bén trong việc vận dụng đường lối, chính sách, Häc viªn: 7 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh nghị quyết của Đảng và Nhà nước vào công việc của mình và biết đánh giá con người theo những tiêu chuẩn chính trị. *Phẩm chất tâm lý đạo đức. Đó là trình độ trưởng thành về ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và lập trường đạo đức của người quản lý. Một số phẩm chất tâm lý cụ thể gồm lòng say mê công việc, lòng nhân ái, sự công bằng, tính tự chủ, sự cân xứng hài hoà giữa lý luận và thực tiễn, giữa nghị lực và trí tuệ, giữa nói và làm. Người quản lý phải làm gì để tạo niềm tin và là chỗ dựa vững chắc cho quần chúng. Ở người quản lý, nói ít làm nhiều cũng chưa hẳn là tốt mà lời nói phải đi đôi với việc làm; có như vậy mới thể hiện được vai trò giải thích, tuyên truyền, vận động, thuyết phục quần chúng của người quản lý. *Năng lực quản lý, tổ chức chuyên môn. Đó là khả năng tổ chức hoạt động giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu khoa học có hiệu quả. Muốn vậy, người quản lý giáo dục - đào tạo phải có trình độ học vấn cao, trình độ văn hoá sâu sắc, phải có kinh nghiệm phong phú trong lĩnh vực đào tạo, trong hoạt động dạy học và có năng lực tổ chức. Phải tinh nhạy về mặt tâm lý, tình cảm và có đầu óc tâm lý thực tế. Đặc trưng nổi bật của người quản lý giáo dục là năng lực lan truyền nghị lực và ý chí khơi dậy ở mọi người tính tích cực lao động. Người lãnh đạo phải kiên quyết, phê và tự phê đúng mức, biết khai thác tài năng, trí tuệ toàn bộ đội ngũ trí thức, những nhà giáo. Họ phải có tính năng động về trí tuệ, tốc độ suy nghĩ nhanh, linh hoạt, nhạy bén, có tinh thần phê phán khoa học mọi hiện tượng, mọi quá trình. Có năng lực dự báo tình huống trong lãnh đạo, quản lý ngành, trường học… Cuối cùng, cán bộ lãnh đạo quản lý phải thường xuyên học tập, tu dưỡng phẩm chất đạo đức để nâng cao uy tín cá nhân kết hợp với uy tín, quyền lực, chức vụ trong xã hội, ngành giao cho để hoạt động lãnh đạo, quản lý được thuận lợi, có hiệu quả. Người lãnh đạo, quản lý giáo dục phải thực sự là “tấm gương sáng” cho cán bộ, giáo viên và học sinh noi theo. Häc viªn: 8 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh Người quản lý phải biết tổ chức hoạt động, sử dụng đúng người đúng việc. Phải có trình độ chuyên môn, trình độ văn hóa và kinh nghiệm lãnh đạo quản lý. Người quản lý bao giờ cũng là người “biết trước, nghe hết và nói sau cùng”. 1.4/ Biểu hiện của nhân cách: Người cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục phải hội đủ ba năng lực đặc biệt để có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình, đó là: *Năng lực tổ chức công việc: Hoạt động của một trường học là hoạt động tập thể chứ không phải là của cá nhân riêng lẻ. Có nhiều người khi làm việc chỉ riêng mình đạt hiệu quả rất cao nhưng không có khả năng tổ chức cho nhiều người cùng thực hiện. Vì vậy năng lực tổ chức công việc tập thể là yếu tố rất quan trọng của người cán bộ quản lý trong các trường học. *Năng lực sư phạm: Khác với công tác giảng dạy, đây chính là khả năng lan truyền nghị lực và ý chí của người cán bộ quản lý đối với tập thể, từ đó khơi dậy ở mọi người tính tích cực hoạt động và lao động một cách tự giác. Mác và Lê-nin đều cho rằng chỉ có lao động tự giác mới có khả năng sáng tạo. Rõ ràng trong điều kiện ngày nay, trong sự yêu cầu khắt khe của xã hội, trong thời đại phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và ứng dụng xử lý thông tin, để lĩnh vực đào tạo thành công thì yếu tố sáng tạo trong mọi hình thức hoạt động của trường học là vô cùng quan trọng. Về năng lực sư phạm, đòi hỏi người quản lý phải có tính kiên quyết, có phê bình và tự phê bình một cách đúng mức, có khả năng khai thác trí tuệ của người khác, có tính tự chủ, có trình độ văn hoá cao và có cái tâm trong sáng. *Tính năng động về trí tuệ: Thể hiện ở cấp độ suy nghĩ nhanh, linh hoạt nhạy bén với cái mới, có tinh thần phê phán khoa học đối với mọi sự vật hiện tượng và quá trình, có năng lực dự báo sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thực tế. Häc viªn: 9 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh 1.5/ Con đường hình thành và phát triển nhân cách người cán bộ lãnh đạo quản lý: Nhân cách không phải tự nhiên mà có mà mỗi cá nhân phải trải qua quá trình rèn luyện lâu dài. Tâm lý học đã chỉ ra các yếu tố quy định sự hình thành nhân cách: *Giáo dục: Không ai sinh ra đã là người lãnh đạo. Muốn trở thành người lãnh đạo trước tiên phải được giáo dục, đào tạo trở thành con người với tư cách là thành viên của xã hội. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người thực tế là quá trình hoạt động của cá nhân để lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội. Quá trình này được thực hiện nhờ hệ thống giáo dục và đào tạo. Giáo dục được coi là một hoạt động chuyên môn của xã hội, nhằm tác động một cách có mục đích đến cá nhân để hình thành ở cá nhân đó hệ thống những phẩm chất tâm lý phù hợp với mục tiêu đào tạo của xã hội đặt ra. Đối với người cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay cần phải được giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nắm vững những hệ thống những tri thức khoa học, những tri thức về đạo đức, những kỹ năng, kỹ xảo về quản lý. Điều quan trọng là phải trang bị cho người lãnh đạo hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; những tri thức về tâm lý con người, về công nghệ quản lý, lãnh đạo. *Hoạt động: Môi trường xã hội, giáo dục của xã hội có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triên nhân cách. Tuy nhiên, ảnh hưởng của môi trường và giáo dục chỉ diễn ra thông qua hoạt động của chính con người. Cuộc sống con người là một dòng hoạt động kế tiếp nhau. Nếu không hoạt động con người không thể tồn tại và phát triển được. Nhân cách được hình thành, phát triển và cũng được bộc lộ trong hoạt động. Hoạt động của cá nhân có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Häc viªn: 10 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh *Giao lưu: Giao lưu là một hoạt động nhằm thiết lập và vận hành các quan hệ giữa người với người. Nếu không có giao lưu thì cá nhân sẽ không thể trở thành một nhân cách. Các quan hệ trong giao lưu còn giúp cá nhân so sánh mình với những đối tượng giao tiếp và qua đó tự nhận thức đúng về mình, tự hoàn thiện mình. Chính quá trình “tự thân vận động” của mỗi người có nguồn gốc từ giao lưu. Trong quá trình quản lý, lãnh đạo, giao lưu là hoạt động chủ yếu trong mối quan hệ với tổ chức với người dưới quyền. Nếu không có hoạt động giao lưu thường xuyên thì không thể diễn ra hoạt động của người lãnh đạo. Nhờ giao lưu người lãnh đạo nắm được tình hình của quần chúng để có thể điều chỉnh mình, chỉ đạo tốt việc ra quyết định, thực hiện quyết định quản lý. *Tập thể: Các tập thể cơ quan, đơn vị sản xuất, đoàn thể xã hội là môi trường quan trọng để người lãnh đạo rèn luyện nhân cách của mình. Với tư cách là chủ thể quản lý, người lãnh đạo tiến hành hoạt động quản lý thông qua các con người trong tập thể và nhờ đó mà phát triển nhân cách. Ngược lại, trong quá trình chỉ đạo, quản lý, chính bản thân người lãnh đạo lại được tập thể nhận xét thừa nhận hay không thừa nhận. Phê bình và tự phê bình là phương tiện có hiệu quả nhằm giúp người lãnh đạo phát triển nhân cách. III./ YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN. 3.1/ Yêu cầu chung: Hiện nay khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý ở trong ngành GD - ĐT được hiểu rất khác nhau. Ở đây, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở được hiểu là những người lãnh đạo, quản lý từ thấp đến cao trong các trường học đến phòng Häc viªn: 11 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh Giáo dục. Họ lấy các hoạt động giáo dục làm tiêu chuẩn cơ bản, họ chịu sự lãnh đạo của các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan. Trong bối cảnh Quốc tế ngày nay, xã hội loài người đang bị chi phối bởi nhiều xu thế của thời đại, thời đại bùng nổ khoa học kỹ thuật và công nghệ cao. Ở Việt Nam, khi chuyển sang thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự quản lý điều hành của nhà nước theo định hướng XHCN thì vấn đề nhân cách càng được quan tâm của nhiều khoa học khác nhau. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi những người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong ngành Giáo dục phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Họ phải có tầm nhìn xa, dự báo đúng tình hình, có tính can đảm, có tri thức, giỏi về quản lý hiện đại, có tài trí, dám khám phá, giàu ý thức, thích ứng nhanh với yêu cầu của xã hội. Người cán bộ quản lý giỏi không những cần thiết để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan đơn vị mình phụ trách mà còn là vốn quý cho sự phát triển của đất nước. 3.2 / Một số yêu cầu cơ bản đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý trường học: Trước hết phải nhận thức đầy đủ về bản chất và quy luật phát triển của nhà trường XHCN, đánh giá được hiện trạng nhà trường, hoàn cảnh kinh tế, xã hội của địa phương. Vì vậy: “Nhận thức đúng đắn về đối tượng và mục tiêu quản lý là yêu cầu trước tiên đối với người lãnh đạo, quản lý về mặt tri thức quản lý trường học” Tổ chức và lãnh đạo nhà trường, người cán bộ quản lý (chủ thể quản lý) phải hiểu những đặc trưng bản chất của nhà trường (đối tượng quản lý) Hoạt động đặc trưng của trường học là thực hiện quá trình dạy học, quá trình giáo dục một cách có mục đích, có phương pháp, có kế hoạch của nhà sư phạm lên đối tượng giáo dục. Người cán bộ quản lý phải nhận thức đầy đủ những mục tiêu lâu dài có tính chiến lược của toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời phải hình Häc viªn: 12 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh dung những mục tiêu cụ thể trong thời gian nhất định và trước mắt của bậc học gắn với mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương. Nhà trường luôn luôn gắn với cộng đồng xã hội, nên người cán bộ quản lý phải biết liên hệ chặt chẽ với địa phương, đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục bằng việc đảm bảo sự tác động tích cực qua lại giữa nhà trường với địa phương; động viên và tổ chức các lực lượng xã hội trong địa phương tham gia xây dựng sự nghiệp giáo dục, xây dựng nhà trường. Nhà trường là một hệ tự điều khiển, do đó việc thường xuyên cải tiến tổ chức phương pháp quản lý là một việc làm không thể thiếu được của người cán bộ quản lý trường học. Người cán bộ quản lý trường học phải biết phối hợp và quản lý các việc sau: Kế hoạch hoá, hoạt động dạy học, giáo dục; Lao động, sản xuất, hướng nghiệp dạy nghề; Công tác bồi dưỡng giáo viên; Hoạt động đoàn thể xã hội; Công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật; xây dựng, sử dụng, bảo quản CSVC, thiết bị, phương tiện làm đồ dùng dạy học; Công tác văn phòng, hành chính; Tổ chức lao động của đội ngũ; kiểm tra nội bộ trường học. Công tác thông tin trường học; Đúc rút sáng kiến kinh nghiệm; hoạt động nâng cao đời sống vật chất, tinh thần; Công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục. Người cán bộ quản lý trường học ở nước ta hiện nay phải có giác ngộ sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: V ề đường lối giáo dục của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Người cán bộ quản lý trường học phải hiểu rõ mục tiêu giáo dục, am hiểu sâu sắc về mục đích, nội dung, phương pháp, các nguyên tắc tổ chức, các quy trình giáo dục trên cơ sở vận dụng thành thạo, sáng tạo các quy luật chi phối quá trình đó. Hiểu và nắm chắc công việc của người giáo viên mà mình quản lý; có kỹ năng giao tiếp, làm việc với đối tượng là con người. Người quản lý phải là nhà giáo mẫu mực, có kinh nghiệm, có năng lực, có uy tín về chuyên môn, phải là “con chim đầu đàn” của tập thể sư phạm. Lao động quản lý của người cán bộ quản lý phải thể hiện tính khoa học, tính nghệ thuật, tính sáng tạo và sự thành thạo trong tác nghiệp. Häc viªn: 13 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh Chương II: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ Ở BẬC THCS NGÀNH GIÁO DỤC HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH. I./ TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI CỦA HUYỆN VÀ THỰC TRẠNG NHÂN CÁCH CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở BẬC THCS GIÁO DỤC HUYỆN BỐ TRẠCH: 1.1 Vài nét khái quát chung về tình hình kinh tế xã hội của Huyện . Huyện Bố Trạch là một trong bảy huyện, Thành phố của tỉnh Quảng Bình , nằm ở 17012’ đến 17042’ vĩ độ Bắc; 105059’đến 106037’ kinh độ Đông, phía Bắc giáp Huyện Quảng Trạch, Minh Hoá, Tuyên Hoá; phía Đông giáp biển Đông, phía Nam giáp thành phố Đồng Hới, phía tây giáp nước Lào. Bố Trạch là Huyện có diện tích tự nhiên lớn nhất Tỉnh : 2.123 km 2, có 24 km đường bờ biển, trên 40 km đường biên giới Việt-Lào; có đường sắt Bắc Nam, có đường Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh chạy dọc suốt chiều dài của Huyện; có đường giao thông thuỷ trên sông Son nối liền di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha Kẻ Bàng với sông Gianh ra biển. Bố Trạch có dân số 171.373 người, mật độ dân số 81 người/km 2 được phân bố ở 30 xã, thị trấn. Trong đó có hai thị trấn (Thị trấn Hoàn Lão, Thị trấn Nông Trường Việt Trung), 9 xã miền núi , 2 xã miền núi rẻo cao, 13 xã thuộc vùng gò đồi bán sơn địa, trung tâm huyện lỵ là Thị trấn Hoàn Lão. Bố Trạch là cửa ngõ phía Bắc của tỉnh Quảng Bình, có khu danh thắng Phong Nha - Kẻ Bàng là di sản thiên nhiên thế giới, khu danh thắng Đá NhảyLý Hoà, đường 20 Quyết thắng và phà Xuân Sơn huyền thoại một thời. Những cảnh đẹp, danh lam thắng cảnh đó là một tiềm năng du lịch to lớn của Bố Trạch. Bố Trạch cùng với Tỉnh đang có chính sách kêu gọi đầu tư để khai thác nguồn lợi này làm điểm nhấn trong khai thác phát triển kinh tế của địa phương. Häc viªn: 14 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh Với địa thế về vị trí địa lý, Bố Trạch mang nhiều tiềm năng bởi các thung lũng, vùng gò đồi, núi đá vôi, rừng, biển... đã tạo cho huyện nhiều thuận lợi để phát triển sản xuất hàng hoá, thực hiện đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ Nông - Công nghiệp - Dịch vụ sang Dịch vụ - Nông - Công nghiệp, có điều kiện để tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật để đưa nền kinh tế của huyện phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Rừng gò đồi tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển cây cao su, thông nhựa, phát triển chăn nuôi gia súc, phát triển trang trại... Biển có nhiều hải sản, có nhiều vùng nước lợ thuận lợi cho việc phát triển nuôi tôm. Tất cả những sản phẩm nông, lâm, thuỷ hải sản có điều kiện tạo nên một môi trường để tăng thêm giá trị sản xuất hàng hoá. Bố Trạch có nguồn lao động 82.697 người , trong đó lao động nông nghiệp 54.784 người . Hàng năm có hàng nghìn người đến tuổi bổ sung vào lực lượng lao động càng ngày càng dồi dào cho huyện . Giá trị sản phẩm hàng năm: Thời kỳ 1991-1995 là 4,3%; 1996-2000 là 6,76%; 2002 là 8,5%; 2003 là 10,18%. Bình quân thu nhập đầu người năm 1995 là 1,446 triệu đồng; năm 2000 là 2,85 triệu đồng ; năm 2003 là 3,84 triệu đồng . Tỷ lệ đói nghèo giảm từ 24,2% năm 1996 xuống 14% năm 2000 và hiện nay là : 11,1%. Có 63 tổ chức cơ sở Đảng với số Đảng viên gần 7500 đ/c, các xã thị trấn đều có tổ chức của Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ … Cùng với sự phát triển Kinh tế - xã hội của Huyện nhà, GD- ĐT tiếp tục đạt nhiều tiến bộ cả về quy mô, chất lượng và đa dạng về hình thức đào tạo, cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư đúng mức, hiện có 75% số trường cao tầng. Toàn huyện có: 35 trường mầm non, 50 trường tiểu học, 30 trường THCS -PTCS; 03 trường THPT, 02 trường phổ thông cấp 2-3; 01 trường THPT Bán công; 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên; 01 Trung tâm kỹ thuật Tổng hợp Hướng nghiệp - Dạy nghề. Với một đội ngũ làm công tác quản lý trường học khá đông. Chất lượng dạy - học không ngừng được nâng lên. Số học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp Tỉnh, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp, học sinh đỗ Đại học năm Häc viªn: 15 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh sau cao hơn năm trước. Giáo dục Bố Trạch đang phấn đấu để hoàn thành mục tiêu phổ cập THCS vào năm 2005. 1.2 Thực trạng nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các trường THCS trên địa bàn Huyện. Người lãnh đạo, quản lý trong trường học là người đứng đầu nhà trường hay một tổ chức. Lao động của người lãnh đạo, quản lý không trực tiếp tạo ra sản phẩm, nhưng nếu không có họ thì lao động của những người dưới quyền không đem lại kết quả mong muốn. Lao động của người lãnh đạo, quản lý mang tính chủ động, tính sáng tạo cao. Những quyết định của họ cùng với đạo đức, lối sống, năng lực, uy tín... của người lãnh đạo, quản lý có ý nghĩa giáo dục cao đối với cán bộ giáo viên và học sinh trong trường học cũng như đối với nhân dân, phụ huynh học sinh. Mặt khác, thông qua việc đánh giá, nhận xét công việc của nhân viên, giáo viên, học sinh, người lãnh đạo quản lý có thể tác động đến phẩm chất của họ. Từ đó khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, sự say mê của nghề nghiệp, tính tự giác học tập. Huyện Bố Trạch hiện có 30 trường THCS và PTCS. Phân đều trên địa bàn 30 xã, thị trấn của huyện. Mỗi xã, thị trấn có một trường THCS. Tổng số cán bộ chủ chốt là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng THCS được thống kê như sau: - Về số lượng: Hiệu trưởng: 30 đ/c; P.Hiệu trưởng: 33 đ/c - Đảng viên: 63 đ/c chiếm 100%. - Trình độ: Đại học: 15 đ/c chiếm: 23,8%; CĐSP: 48 đ/c chiếm: 76,2%. - Trình độ lý luận chính trị: Trung cấp: 41đ/c; Sơ cấp: 22 đ/c. - Đã qua lớp bồi dưỡng CBQL Giáo dục: 57 đ/c, chiếm: 90,5% - Độ tuổi bình quân 42,5 người cao tuổi nhất là 57 tuổi, người thấp tuổi nhất là 34. * Những ưu, khuyết điểm : Häc viªn: 16 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh Từ vai trò, vị trí của người lãnh đạo, quản lý nhìn vào thực tiễn của các trường học trên địa bàn huyện Bố Trạch hiện nay, có thể thấy đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các trường THCS có các ưu, khuyết điểm sau: * Về ưu điểm: Hầu hết cán bộ lãnh đạo, quản lý các trường THCS có trình độ chuyên môn nghiệp vụ đạt chuẩn và trên chuẩn theo quy dịnh của Bộ Giáo dục- Đào tạo ban hành. Phần đông cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các trường THCS đã tham gia lớp bồi dưỡng Đào tạo cán bộ quản lý Giáo dục do Bộ Giáo dục - Đào tạo và Sở Giáo dục - Đào tạo Quảng Bình tổ chức với nhiều hình thức khác nhau (THCS: 57đ/c (90,5%)). Nhiều đồng chí đã học xong các lớp quản lý nhà nước, chương trình Cao - Trung cấp lý luận chính trị (41 người chiếm tỉ lệ 61,5%). Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn trung thành với lý tưởng XHCN, với đường lối của Đảng; có lập trường, quan điểm chính trị vững vàng, đạo đức tốt; có lối sống lành mạnh, trong sạch. Trong hành động và cư xử của mình thể hiện được phong cách chín chắn, mực thước, năng động và đúng pháp luật. Họ biết đặt lợi ích của nhà trường lên trên lợi ích cá nhân, biết sống ân tình, nhân nghĩa, kiên định, khiêm nhường, vị tha và bao dung. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các trường THCS có trình độ chuyên môn đa phần là khá giỏi, vững vàng. Họ chủ yếu trưởng thành từ lực lượng giáo viên giỏi của cấp học cho nên có khả năng đi sâu vào chỉ đạo, quán xuyến, tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động trung tâm của trường học một cách có hiệu quả. Đặc biệt, họ khá tích cực trong việc triển khai nội dung chương trình giáo dục phổ thông mới và thực hiện cải tiến phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tích cực, chủ động sáng tạo học tập của học sinh. Họ là những người quản lý am hiểu tường tận công tác Giáo dục - Đào tạo, có ý thức rèn luyện, phấn đấu thường xuyên để vươn lên nắm bắt kịp thời những nội dung, yêu cầu mới về chuyên môn cũng như trong công tác quản lý trường học. Số đông cán bộ lãnh đạo, quản lý có khả năng nhận xét, đánh giá về đội ngũ do mình quản lý, hiểu được tâm tư tình cảm của giáo viên, học sinh; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, giáo viên và học sinh; biết sử Häc viªn: 17 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh dụng người theo khả năng, bố trí phân công công việc theo năng lực, sở trường của mỗi người, do đó đã phát huy tốt khả năng cống hiến của họ; biết lắng nghe, tranh thủ ý kiến đóng góp xây dựng của tập thể thông qua các tổ chức trường học như : chi bộ Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên, Hội đồng giáo dục ... Một ưu điểm nổi trội của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các trường THCS ở Bố Trạch thời gian qua là đã thể hiện rõ khả năng và chú trọng đúng mức công tác xây dựng kế hoạch hoạt động của trường, xem đây là một nội dung vô cùng quan trọng của công tác quản lý. Công tác xây dựng kế hoạch hoạt động được tiến hành một cách chi tiết, cụ thể vừa đảm bảo đúng trọng tâm nhiệm vụ và yêu cầu của Ngành (Bộ - Sở - Phòng), vừa phù hợp với tình hình, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương của mỗi nhà trường. Thực hiện dân chủ hoá trong trường học, tạo điều kiện để cán bộ giáo viên tham gia vào quá trình quản lý trường học. Biết lắng nghe và trân trọng ý kiến của mỗi người trong tham gia xây dựng đơn vị đồng thời có bản lĩnh quản lý “Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”. Trong quá trình chỉ đạo các mặt công tác của trường học người lãnh đạo, quản lý đã làm tốt công tác tham mưu, tuân thủ một cách đúng đắn sự lãnh đạo của Ngành chuyên môn và của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương. Nắm vững và biết cách tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trọng tâm của nhà trường là dạy học - Giáo dục, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học ngày càng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phát triển Giáo dục. Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể, lực lượng xã hội - biết cách huy động sức mạnh tổng hợp của phụ huynh học sinh, nhân dân và các đoàn thể trong công tác xã hội hoá giáo dục. * Những khuyết điểm tồn tại: Mặc dầu đã có những cố gắng lớn, song ngành giáo dục nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý các trường còn bộc lộ nhiều thiếu sót trong quản lý chương trình, nội dung và chất lượng. Công tác thanh tra và kiểm tra giáo dục còn hạn chế, thiếu những biện pháp hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo một cách đúng đắn. Năng lực, phẩm chất, Häc viªn: 18 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh nhận thức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý trường học còn thấp so với yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đổi mới. Những thiếu sót và bất cập ấy được biểu hiện chủ yếu ở những điểm sau: - Trình độ chuyên môn được đào tạo của đội ngũ cán bộ giáo viên nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng mới được nâng lên về mặt hình thức là chủ yếu, chất lượng hiệu quả đào tạo đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Trong thời gian qua, hệ thống GD - ĐT của nước ta chậm đổi mới; cơ chế quản lý, phương pháp tổ chức dạy học còn mang nặng tính truyền thống, kinh nghiệm, chịu ảnh hưởng của cơ chế tập tung quan liêu bao cấp. Nay chuyển sang cơ chế mới, điều kiện mới, cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nắm bắt kịp thời và đầy đủ những tri thức về kinh tế thị trường, về đào tạo, về giáo dục hiện đại... - Công tác đào tạo, đào tạo lại còn nhiều bất cập, có trường hợp chạy theo bằng cấp dẫn đến hạn chế về chất lượng đào tạo, không đáp ứng được yêu cầu của công tác. - Hiện tại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các trường học trình độ chuyên môn đào tạo chắp nối , một số lại chưa được học qua lớp bồi dưỡng nào về quản lý nhà nước, quản lý giáo dục hoặc trình độ lý luận chính trị. - Năng lực và trình độ tổ chức, quản lý còn yếu, không có khả năng tổ chức bộ máy gọn nhẹ, có hiệu quả. Thậm chí có trường hợp nhất là đối với Hiệu trưởng lại uỷ quyền công tác chuyên môn cho phó Hiệu trưởng. Mà như chúng ta biết trọng tâm nhiệm vụ của nhà trường là dạy và học, nếu Hiệu trưởng thoát ly hoạt động này thì không còn là quản lý trường học nữa. - Tính năng động, sáng tạo, chủ động không cao, phong cách làm việc theo kiểu hành chính, mệnh lệnh còn chậm khắc phục. * Những nguyên nhân cơ bản. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những khuyết điểm, tồn tại của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong trường học nhưng chung quy lại có thể nêu lên nguyên nhân cơ bản sau : Häc viªn: 19 TiÓu luËn cuèi kho¸ Trêng chÝnh trÞ Qu¶ng B×nh * Vấn đề đạo tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý: Tuy Sở GD - ĐT và phòng GD - ĐT những năm qua đã cố nhiều có gắng trong việc phối hợp với trường Cao đẳng sư phạm, Trung tâm bồi dưỡng chính trị, trung tâm Giáo dục thường xuyên của tỉnh để mở các lớp đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý nhà nước, quản lý Giáo dục và nâng cao nhận thức về lý luận chính trị cho đội ngũ này. Song còn hạn chế về thời gian, nội dung bồi dưỡng, chưa đủ điều kiện để hướng dẫn kiểm nghiệm giữa tiếp nhận lý luận với thực tiễn công tác. Một bộ phận không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý trưởng thành từ thực tiễn nhưng lại thiếu kiến thức cơ bản về nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý. * Vấn đề bổ nhiệm cán bộ: Mặc dầu những năm gần đây đã có sự tiến bộ hơn, song chưa thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ theo quy trình phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng và đào tạo nhân tài mang tính lâu dài. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý trường học chưa thật sự căn cứ vào trình độ, khả năng thực tế, tín nhiệm của quần chúng, mà còn nặng về căn cứ vào phẩm chất chính trị, đạo đức, quan hệ... *Môi trường đào tạo: Ngành GD - ĐT ở nước ta hiện nay chưa thực sự ổn định, còn thiếu đồng bộ, tốc độ đổi mới chậm, cơ chế quản lý ngành và thực hiện chế độ thanh tra, kiểm tra còn kém hiệu quả gây khó khăn cho khả năng tổ chức dạy học của các trường. Các chủ trương chính sách của ngành chủ quản, của Nhà nước về GD - ĐT thường hay thay đổi nên việc tổ chức quản lý dạy học, cũng như chiến lược Đào tạo của các trường không ổn định và định hướng lâu dài được. Việc “nhập” rồi lại “tách” trường, cấp học thời gian qua diễn ra không phải là ít, điều này đã làm mai một hoặc mất đi tính truyền thống vốn có của các nhà trường. *Tính quyền hạn và trách nhiệm: Quyền lợi vật chất và tinh thần của cán bộ lãnh đạo, quản lý là yếu tố có ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến chất lượng công tác của cán bộ nói chung, không riêng gì ở các trường học. Trong điều kiện đời sống của cán bộ ngành GD - ĐT còn khó khăn, lao động của người lãnh đạo, quản lý chưa được trả bằng chế độ từ chính công sức, trí tuệ, trách nhiệm của họ cống hiến một cách hợp lý. Nên một bộ phận cán bộ lãnh Häc viªn: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan