Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
Khoa Kinh tế Chính trị
Tiểu luận:
TOÀN CẤU HÓA VÀ HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
NHÓM 7
LỚP BỘ MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ (sáng
thứ 3 tiết 3-6)
Năm học 2017-2018
1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN CỦA NHÓM
Phạm Thị Mỹ Oanh – 16051778
Nguyễn Hương Giang - 16050043
Nguyễn Hồng Nhung – 16052324
Trần Quỳnh Hoa - 16051742
Nguyễn Thị Hoa - 16051743
Lê Thị Minh Thu – 16050150
Nguyễn Hương Giang – 16050043
Nguyễn Thị Hải Yến (18/09) - 16051812
2
I, Khái niệm về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
1. Khái niệm về toàn cầu hoá.
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng
giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế,
v.v... trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu
như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do
hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế,
người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng
chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hóa
2. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là
việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh
tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu
đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới
và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn
bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn
bộ các nơi.
Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế học quốc tê, hội nhập kinh tế
thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu
vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên
minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp
độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn.
Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc
khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy
mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới đang
hướng tới.
II, Nhận thức về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
1. Nhận thức về toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên
hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu
vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Toàn cầu hóa thể hiện sự
biến đổi tương quan giữa quan hệ sản xuất nhằm tới sự điều chỉnh thích ứng
lực lượng sản xuất biến thiên liên tục trên quy mô thế giới.
3
Toàn cầu hóa làm cho các nền kinh tế quốc gia hoà nhập vào và được cấu
trúc lại trên quy mô quốc tế thông qua một loạt quy trình, giao lưu, trao đổi
Như vậy, toàn cầu hoá không chỉ là sự phụ thuộc lẫn nhau, dù là phụ thuộc
toàn diện giữa các nền kinh tế mà là sự hoà nhập các nền kinh tế này để xu
thế hình thành nên một nền kinh tế toàn cầu thống nhất.
Ngày nay toàn cầu hoá mà trước hết và về thực chất là toàn cầu hoá kinh tế
đang trở thành một xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế hiện đại. Hiện nay
tuy có rất nhiều những quan niệm không giống nhau về toàn cầu hoá kinh tế
nhưng có thể thấy nét chung nhất là thừa nhận mối quan hệ qua lại của các
hoạt động kinh tế hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các nước trên thế giới
vượt qua khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực
lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ thuật mạnh mẽ và sự phân
công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất
càng ngày càng tăng.
Toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế
vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế
giới thống nhất, sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức
độ và qui mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động
trên phạm vi toàn cầu.
Toàn cầu hoá kinh tế là dưới sự tác động của quốc tế hoá sản xuất và cách
mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính dựa dẫm vào nhau, bổ
sung cho nhau của nền kinh tế các nước ngày càng gia tăng, yếu tố cản trở
sản xuất đang ngày càng mất đi bởi sự tự do lưu thông toàn cầu.
Mặc dù vậy, toàn cầu hoá kinh tế vẫn ở trong giai đoạn đầu của nó. Lĩnh vực
then chốt hợp tác toàn cầu hoá kinh tế vẫn chỉ là mậu dịch, tự do lưu thông
nguồn vốn và sức lao động còn là vấn đề trong tương lai.
2. Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế:
Nhận thức chung về hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay, người
ta đều thấy rằng, nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là một vấn đề
thời sự. Các quốc gia đều khẳng định cần xây dựng nhận thức thống nhất
trong nội bộ rằng hội nhập là cần thiết, phù hợp với xu thế chung, nhất là
4
việc nước ta đã tham gia WTO sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của đất
nước:
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà
trọng tâm là mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong
nước và quốc tế, mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù
hợp nhất có thể trong quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy hội nhập kinh tế
quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển
kinh tế mỗi nước. Khi đã tham gia WTO, phải tranh thủ các cơ hội kinh
doanh, để có tiếng nói trong quá trình hình thành luật lệ kinh tế, thương mại
quốc tế có lợi cho mình.
Không thể né tránh việc hội nhập kinh tế quốc tế mà vấn đề then chốt là cần
phải nhận thức trước, tính toán đầy đủ cái giá phải trả cho việc tổ chức và
vận hành các hiệp định quốc tế, phải đề ra được những chính sách, biện pháp
đúng để hạn chế trả giá ở mức thấp nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội
để phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và
ngay trong thị trường nội địa. Để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, phải
ra sức tăng cường nội lực, cải cách và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ,
tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế trong nước để phù với "luật chơi chung"
của quốc tế. Điều này không có nghĩa là các nước bị ép phải cải cách, mở
cửa, hội nhập kinh tế quốc tế nhưng thực ra cải cách, hội nhập kinh tế quốc
tế là vì sự phát triển của mình. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế phải dựa
và gắn chặt với chiến lược phát triển của đất nước, đồng thời cải cách kinh
tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Cải cách trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế là "Con đường hai
chiều". Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời hội nhập kinh tế quốc tế sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải
cách trong nước, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần phải
nhận thức rằng dù có hội nhập kinh tế quốc tế hay không thì vẫn tiếp tục cải
cách, cải cách mạnh hơn, nhanh hơn vì sự phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng
để phát triển kinh tế-xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; thúc đẩy
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng
thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư,
công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác;
tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân.
5
Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa
quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích,
góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; quảng bá hình ảnh đất nước và
con người Việt Nam, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc
tế.
Hiện nay, tình hình trong nước, khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi,
đang diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta
tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tếxã hội, khả năng bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị-xã hội, giữ
vững môi trường hòa bình, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, môi
trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Hội nhập kinh tế quốc tế không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng
đặc biệt. Hội nhập kinh tế quốc tế là mở rộng các cơ hội kinh doanh, thâm
nhập thị trường, có môi trường pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy
chế, luật lệ của các thể chế hội nhập kinh tế quốc tế, không bị phân biệt đối
xử, không bị các động cơ chính tị hay những lý do khác cản trở việc giao lưu
hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Từ ổn định về thị trường, các nước sẽ có điều
kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh ổn định
dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập kinh tế quốc tế, không bị
phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý do khác cản
trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Ngoài ra, các nước có thể sử
dụng những luật lệ, quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế
hội nhập kinh tế quốc tế để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Cần tăng cường công tác thông tin truyên truyền, nhằm giải thích cho các tổ
chức, cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp, người dân… về hội nhập kinh tế
quốc tế để chúng ta có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Bộ Công
Thương đã xây dựng “Đề án tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về
hội nhập kinh tế quốc tế”, với mục tiêu triển khai sâu rộng, với sự tham gia
phối hợp của tất cả các bộ, ngành và các cơ quan liên quan, nhằm tạo sự lan
toả trong xã hội; quán triệt những nhiệm vụ của giai đoạn hội nhập kinh tế
quốc tế mới, quán triệt quan điểm về tuyên truyền trong giai đoạn mới, với
nhiều nội dung mới.
III, Thời cơ và thách thức
1. Xu hướng chủ đạo của toàn cầu hóa
6
- Xu hướng thứ nhất là sự thay đổi về khoa học công nghệ, đây là xu
hướng có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Khoa học và công nghệ có vai trò
quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia.
- Xu hướng thứ hai là việc ngày càng có nhiều Chính phủ theo đuổi chính
sách tự do hóa, mở cửa thị trường và loại bỏ những luật lệ cản trở các
hoạt động kinh tế.
- Xu hướng thứ ba là sự kết hợp của những công nghệ mới và những thị
trường tự do hơn, tạo điều kiệ cho các khu vực kinh doanh ở nhiều nước
có thể quốc tế hóa các hoạt động cảu mình
Cả ba xu hướng này làm cho các quốc gia phụ thuộc nhau hơn về mặt
kinh tế, tạo ra những cơ hội và thách thức lớn về kinh tế, chính trị xã hội
cho các quốc gia.
2. Thời cơ
Toàn cầu hóa mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế giới và cho
mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập:
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy việc
tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc
phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế từ đó phát huy cao độ
nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia.
- Tự do hóa luân chuyển hàng hóa dịch vụ và vốn với việc hạ thấp hàng
rào thuế quan, đơn giản hóa trong khâu thủ tục , cắt giảm kiểm soát hành
chính sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, đầu tư, tăng lượng , giảm thất
nghiệp, và tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng.
- Toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn
và tạo điều kiện để đa dạng hóa các loại hình đầu tư nhờ đó vừa nâng cao
hiệu quả vừa hạn chế rủi ro đầu tư.
- Toàn cầu hóa thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ,chuyển giao vốn
kỹ năng quản lý , qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước phát triển
đồng thời giúp các nước tiếp nhận đầu tư có cơ hội phát triển.
3. Thách thức
Thách thức đầu tiên là sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế . Thực
vậy, có sự khác biệt cơ bản giữa tư bản công nghiệp và tài chính , hay nói
cách khác là khác biệt giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính . Các nhà đầu
tư trực tiếp đã bỏ tiền đầu tư xây dựng nhà xưởng thì không dễ gì một sớm
một chiều có thể rút lại vốn đầu tư. Trong khi đó , các nhà đầu tư tài chính
có lợi thế linh hoạt hơn nhờ tính chuyển nhượng cao của chứng khoán. Mặt
khác ngườn tài chính được phân bổ không đồng đều , tập chung vào một số
trung tâm tài chính lớn là các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới.
7
Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa càng làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn
dễ dàng hơn và tất nhiên rủi ro sẽ lớn hơn.
Nguy cơ tiếp theo là tụt hậu của một số quốc gia. Một số quốc gia tranh thủ
được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường tài chính quốc tế,
phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng, mở rộng thương
mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển, thì một số nước khác
lại không có khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thương mại, thu hút
vốn đầu tư và kết cục tất yếu là sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau, chính
sách tiền tệ - tài chính của các nước yếu bị phụ thuộc vào chính sách của các
nước mạnh.
Mối đe dọa của quá trình toàn cầu hóa đó chính là xu hướng hình thành thế
độc quyền, tập chung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế. Xu
hướng sát nhập đang diễn ra mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử phát triển
kinh tế thế giới cận đại. Vậy thế thì đâu là điểm dừng cuả xu thế sát nhập
này? Bởi lẽ nếu xu thế sát nhập tiếp tục gia tăng chắc chắn sẽ tác động xấu
đến thị trường cạnh tranh hoàn hảo - nhân tố đã góp phần thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế trong suốt hàng thế kỷ qua.
Quá trình toàn cầu phát triển phải giảm dần thuế và bỏ hàng rào phi quan
thuế , nghĩa là bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hóa nước ngoài sẽ ồ ạt đổ
vào, bóp chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Quá trình toàn cầu hóa phát triển làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của các
quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá trình
này mà còn phải chịu những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu trong
các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu…Các nước càng yếu kém,
các chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp với các
định chế quốc tế, tệ nạn tham nhũng quan liêu càng nặng, hệ thống ngân
hàng - tài chính càng lạc hậu thì càng chịu tác động nặng nề hơn.
Quá trình toàn cầu hóa phát triển, không chỉ có các lực lượng kinh tế tiến bộ
tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phẩn động, bọn maphia,
các tổ chức khủng bố… Mạng lưới toàn cầu của maphia hiện đang lan khắp
toàn cầu, các đường dây buôn lậu ma túy đã len lỏi đến cả các trường học.
Các thế lực phản động cũng không bỏ lỡ thời cơ xâm nhập vào nước ta phá
hoại chính sách dúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoại. Nhưng
không thể vì nó mà đóng cửa đất nước hay hạn chế sự hội nhập cả đất nước
vào quá trình toàn cầu hóa.
8
Toàn cầu hóa đã phân phối không cân bằng các cơ hội và lợi ích giữa các
khu vực, giữa các quốc gia và trong từng nhóm dân cư. Do đó TCH làm gia
tăng thêm tình trạng bất công, phân hoá giàu nghèo.
Với việc hội nhập kĩ thuật, công nghệ hiện đại được du nhập tạo ra khả
năng, nâng cao năng suất lao động, đồng thời các dòng hàng hoá dịch vụ của
các nước phát triển có lợi thế sẽ lấn át sản phẩm của các quốc gia kém phát
triển. Từ đó nảy sinh cạnh tranh gay gắt, nảy sinh thất nghiệp, phá sản, làm
trầm trọng thêm các vấn đề xã hội.
Toàn cầu hóa đem đến tăng trưởng kinh tế nhưng lại kèm theo hậu quả về
môi trường xã hội (mất đi bản sắc dân tộc đối với các lớp trẻ sinh ngoại Vd:
một số trẻ em hiện nay sống ở nước ngoài không biết nói tiếng Việt, không
biết về quê cha đất tổ, cội nguồn ông, bà mình ở đâu?; Âu hoá, Mỹ hoá trên
chính quê hương mình Vd: xem đồng tiền là trên hết, ăn mặc không hợp với
mọi người xung quanh, ít quan tâm và giúp đỡ đến hàng xóm xung quanh,
mặc dù mình có khả năng giúp… )
IV. Kinh tế Việt Nam với toàn cầu hóa và hội nhập
1. Tiến trình hội nhập của Việt Nam
Chặng đường gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam từ 1986
đến nay là một quá trình đồng hành đầy thử thách, khó khăn. Những thành
công đạt được có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực để Việt Nam bước
vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển mạnh mẽ, toàn diện
hơn. Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội
của lao động và quan hệ giữa con người với nhau. Ngày nay, quá trình hội
nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng nhanh hơn, mạnh hơn dưới sự tác động
của nhiều nhân tố, trong đó kinh tế thị trường và sự phát triển như vũ bão
của khoa học công nghệ là động lực hàng đầu. Hội nhập quốc tế đã, đang là
một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế và
đời sống của từng quốc gia.
Để không bị gạt ra khỏi ngoài dòng chảy phát triển của xu hướng toàn
cầu hóa, bất cừ nước nào cũng đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung,
điều chỉnh các chính sách, giảm dần hàng rào quan thuế, luân chuyển vốn,
lao động, công nghệ và kỹ thuật trên phạm vi thế giới ngày càng thông
thoáng hơn. Việt Nam không phải ngoại lệ, vấn đề là phải chọn tiến trình hội
nhập sao cho phù hợp với hoàn cảnh và quá trình phát triển của mình.
9
Đại hội VI (1986) của Đảng đã mở đầu cho thời kỳ đổi mới toàn diện
đất nước. Cũng chính từ đại hội VI, bước đầu nhận thức về hội nhập quốc tế
của Đảng ta được hình thành. Đảng cho rằng: “Muốn kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động
quốc tế” và “ một đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học
- kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực
lượng sản xuất”. Tiếp đến đại hội thứ VII, tư duy về hội nhập quốc tế tiếp
tục đước Đảng ta khẳng định, đó là: “cần nhạy bén nhận thức, dự báo được
những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hóa của nền kinh
tế thế giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp”.
Tại đại hội VIII (1996), lần đầu tiên thuật ngữ “Hội nhập” chính thức
được đề cập trong Văn kiện của Đảng, đó là: “ Xây dựng một nền kinh tế
mở, hội nhập với khu vực và thế giới”. Tiếp theo đến Đại hội IX, tư dung về
hội nhập được Đảng chỉ rõ và nhấn mạnh hơn “Gắn chặt việc xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Đến Đại hội
X, tinh thần hội nhập từ “Chủ động” được Đảng ta phát triển và nâng lên
một bước cao mới, đó là “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”. Tại Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, tư duy nhận thức của Đảng về hội nhập đã có một
bước phát triển toàn diện hơn, đó là từ “Hội nhập kinh tế quốc tế” trong các
kỳ Đại hội trước chuyển thành “Hội nhập quốc tế”. Đảng ta đã khẳng định,
“Chủ động và hội nhập quốc tế”. Khẳng định làm sâu sắc hơn tinh thần này,
ngày 10/04/2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 22/NQTW “Về hội nhập quốc tế”.
Mục tiêu lớn trong Nghị quyết số 22 đưa ra đó là: Hội nhập quốc tế
phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc
tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống
nhân dân; Giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa; Quảng bá hình ảnh Việt
Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; Tăng cường sức mạnh tổng hợp
quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; Góp phần tích cực
vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới.
Như vậy, việc ban hành Nghị quyết số 22 “Về hội nhập quốc tế” cho
thấy nhận thức của Đảng và hội nhập quốc tế đã có một quá trình phát triển
10
ngày một sâu sắc, toàn diện hơn. Toàn bộ nội dung của Nghị quyết đã xác
định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc
biệt hội nhập kinh tế phải gắn liền với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng
và tái cơ cấu kinh tế. Với tầm quan trọng của hội nhập quốc tế, vấn đề này
cũng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam.
Chúng ta đã nỗ lực thúc đẩy hợp tác với tất cả các nước và thể chế
chính trị khác nhau. Chungsta đã phá đước thế bao vây cô lập về chính trị,
cấm vận về kinh tế; thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 quốc gia, trong
đó có tất cả các nước lớn, phát triển quan hệ thương mại với hơn 130 quốc
gia và lãnh thổ. Đồng thời, chúng ta đã khai thông được quan hệ với các tổ
chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB và các tổ chức phát triển khác
trong hệ thống liên hợp quốc. Chúng ta cố gắng cải cách cơ chế quản lý kinh
tế, bao gồm cả lĩnh vực pháp lý và xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với luật pháp và
tập quán quốc tế.
Bước phát triển tiếp theo đó là chúng ta tiếp tục thúc đẩy tiến trình hội nhập
qua việc tham gia các tổ chức hợp tác kinh tế, thương mại khu vực và thể
giới. Dưới đây là sơ đồ “Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”.
2. Nguyên tắc của nhà nước ta trong toàn cầu hóa và hội nhập của Việt
Nam
11
2.1. Nguyên tắc hô ôi nhâ ôp
o Nguyên tắc bình đẳng
Nguyên tắc bày là nền tảng cho viê ôc thiết lâ ôp mối quan hê ô tiếng nói chung
giữa các quốc gia, đảm bảo tư cách phám nhân của mỗi quốc giatrong cô ng
ô
đồng quốc tế trên cơ sở bình đẳng trước pháp luâ ôt quốc tế và quan hê ô của
kinh tế thị trường.
Tuy nhiên trong hô ôi nhâ p kinh tế quốc tế, thực hiê n nguyên tắc này cũng
ô
ô
cần có sự đáu tranh kiên trì của các quốc gia , nhất là các quốc gia nhỏ và
đang phát triển.
o Nguyên tắc cùng có lợi
Nguyên tắc này là nền tảng kinh tế để thiết lập các mối quan hệ đối ngoại,
đảm bảo duy trì và phát triển lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các nước,
đồng thời nó là cơ sở để xây dựng đường lối, quan điểm, chính sách kinh tế
đối ngoại của mỗi quốc gia. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam: “Hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc
cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế” .
o Nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc
nội bộ của mỗi quốc gia.
Thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi từng bên tham gia phải:
- Tôn trọng các điều khoản đã ký kết trong nghị định thư, hợp đồng kinh
tế. Nói bao quát, các quốc gia cần phải tuân thủ và tôn trong các luật pháp và
thông lệ quốc tế. Mọi bất đồng hay tranh chấp cần phải xử lý trên nguyên tắc
đàm phán và đồng thuận, tránh sử dụng vũ lực vũ trang.
- Không đưa ra các điều kiện có phương hại đến lợi ích của nhau.
- Không được dùng thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ
của quốc gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kỹ thuật và kích động
để can thiệp vào đường lối chính trị của quốc gia đó.
Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: "Phát triển quan hệ với tất cả các
nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo nguyên tắc:
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải quyết
12
các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình; tôn trọng lẫn
nhau, bình đẳng và cùng có lợi".
o Nguyên tắc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm mục đích thúc đẩy
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Nội dung này vừa là nguyên tắc đồng thời cũng là mục tiêu của hoạt động kinh
tế đối ngoại, hội nhập quốc tế. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại không đơn
thuần để giải quyết vấn đề kinh tế mà phải kết hợp giải quyết tốt mối quan hệ
giữa kinh tế, chính trị và xã hội.
Đối với nước ta, mở rộng hợp tác quốc tế phải nhằm đưa đất nước nhanh chóng
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đạt tốc độc tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã
hội cao, phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao năng lực sản xuất của nền
kinh tế Việt Nam. Từ đó, kinh tế đối ngoại tạo đà cho sự phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng mục tiêu chiến lược "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
2.2.
Phương châm hội nhập
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trongcộng
đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh”
Phương châm mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong giai
đoạn 2011 - 2020 được thể hiện như sau:
Một là, đa phương hoá quan hệ đối ngoại và đa dạng hoá các hình thức đối
ngoại; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế.
- Sẵn sàng mở rộng quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế
độ chính trị xã hội.
- Hợp tác đa phương diện, gồm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng...
- Sử dụng tất cả các hình thức đối ngoại để có thể đẩy mạnh và nâng
cao hiệu quả hội nhập quốc tế.
13
Hai là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả.
- Thừa nhận toàn cầu hoá là quá trình tất yếu của lịch sử.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự thể hiện khả
năng tự chủ về kinh tế, trước hết là sự tự chủ trong xây dựng đường lối
và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo hướng hội nhập quốc tế.
- Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc phải được coi là yếu tố quyết
định.
- Yếu tố thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nền kinh tế độc
lập, tự chủ, bền vững.
- Chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình
hội nhập quốc tế, đối phó tích cực với các thách thức an ninh phi truyền
thống.
- Nhận thức đầy đủ và tuân thủ nghiêm các quy định, luật lệ quốc tế
và cam kết quốc tế.
3. Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam
a. Cơ hội
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu
của Việt Nam: Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau,
vì vậy khi Việt Nam ra nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng
quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan,
xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều
kiện cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập thị trường quốc tế.
Tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải
quyết vấn đề nợ quốc tế: Tham gia hội nhập kinh tế là cơ hội để thị
trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư.
Hơn nữa, nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa
phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã được
giải quyết. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập
trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong
nước.
Tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến:
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước
ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu
quả. Qua đó mà các kỹ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào
14
nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kỹ thuật, công nghệ
nước ngoài nhằm phát triển năng lực kỹ thuật, công nghệ quốc gia.
Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo thêm những cơ hội buôn bán mới
do có nhiều sự tương đồng về văn hóa, luật pháp, quan hệ dân tộc và
các hệ thống phân phối.
Sự cạnh tranh tăng lên: những cải tiến công nghệ, tri thức được tăng
lên qua nhập khẩu hoặc thực tế công việc , hạn chế tham nhũng và ăn
chênh lệch giá.
b. Thách thức
Nếu như những ưu đãi về hàng rào thuế quan và xóa bỏ phí thuế quan tạo
điều kiện để nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu ra các nước thì nó
cũng gây ra những thách thức khá nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp
Việt Nam: Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta
phải giảm dần thuế quan và gỡ bỏ hàng rào phi thuế quan. Khi đó, hàng
hóa nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất
kinh doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời
sống của người lao động. Bởi hàng hóa Việt Nam do kỹ thuật, công nghệ
và quản lý còn kém nên chất lượng thấp, giá thành lại cao. Trong khi đó,
nước ngoài với dây chuyền công nghệ hiện đại, tay nghề lao động vững
vàng, trình độ quản lý cao, vốn lớn nên sản phẩm làm ra mẫu mã đẹp,
chất lượng tốt lại không phải nộp thuế khi xuất khẩu sang thị trường Việt
Nam nên giá thành phù hợp. Sức cạnh tranh bấp bênh của các doanh
nghiệp trong nước được thể hiện rõ.
Xét về mặt cơ cấu kinh tế, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, sản
xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn. Sự chuyển dịch lao động từ
nông nghiệp và nông thôn sang các ngành nghề khác còn rất khó khăn, tỷ
lệ lao động có trình độ tay nghề cao còn khá thấp. Thêm vào đó, nền
công nghiệp lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở hai đầu của đất
nước, người lao động có trình độ cao chủ yếu tập trung về các thành phố
lớn. Do đó, sự phát triển công nghiệp ở các vùng sâu vùng xa đã khó
khăn lại càng khó khăn hơn.
Việt Nam hội nhập sau nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đã hoạt
động nửa thế kỷ, do đó, năng lực canh tranh của nền kinh tế tuy có tiến
bộ nhưng vẫn còn thấp xa so với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế. Chính vì vậy, Việt Nam phải cố gắng theo kịp tiến độ chung
15
trong khi đang có xu hướng muốn đẩy nhanh quá trình tự do hóa với quy
mô rộng hơn và mức độ sâu sắc hơn.
Các cơ chế của một nền kinh tế thị trường ở nước ta còn đang hình thành,
hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, nhiều luật lệ và chính sách liên quan
đến kinh tế đối ngoại còn thiếu hoặc chưa phù hợp với quốc tế.
16
- Xem thêm -