Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận Thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay...

Tài liệu Tiểu luận Thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

.DOCX
19
1225
69

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Vấn đề tôn giáo từ lâu là một vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với Việt Nam mà còn với nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, tôn giáo ngày càng can thiệp sâu hơn vào đời sống chính trị với nhiều hình thức khác nhau, vì thế luôn cần có hiểu biết thấu đáo trước khi giải quyết về các vấn đề. Vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách lợi dụng phục vụ cho âm mưu xâm lược và chống phá cách mạng ở Việt Nam nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Chúng sử dụng tôn giáo như một chiêu bài trong âm mưu diễn biến hòa bình hòng chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như các nước khác. Việt Nam là một quốc gia tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau và đa dạng về chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước. Vì vậy để tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước ta, trước hết đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần phải có cái nhìn đúng đắn những vấn đề lí luận và thực tiễn về vấn đề tôn giáo cũng như có những chính sách về tôn giáo một cách phù hợp và linh hoạt trong tình hình hiện nay. Nhìn chung mọi giáo lý của các tôn giáo đều chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Những chiết lý ấy giúp cho con người sống với nhau gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân, cộng đồng, với sự phát triển chung của toàn xã hội. Tôn giáo là sự tự do tin ngưỡng của mỗi công dân. Vì vậy trong định hướng trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của các tôn giáo. Mặt khác ở Việt Nam trong lịch sử, tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho mục đích chính trị, và ngày nay vẫn còn tồn tại những kẻ lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa của ta. Chính vì thế mà mỗi người dân cần xác định rõ tư tưởng tự do tín ngưỡng phải đi đôi với chấp hành pháp luật của Đảng và nhà nước. Đó cũng là lý do tôi quyết định làm đề tài tiểu luận “Thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay ”. 2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài này nghiên cứu thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay 1 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nêu rõ thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay và đưa ra 1 số giải pháp để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo hiện nay. 2.3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. 3. Phương pháp nghiên cứu -Phương pháp chung: + Chủ nghĩa duy vật biện chứng + Chủ nghĩa duy vật lịch sử -Phương pháp cụ thể: +Phương pháp phân tích + Phương pháp tổng hợp +Phương pháp thống kê 4. Ý nghĩa đề tài Qua đề tài giúp ta thấy rõ được tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời thấy được thực trạng và giải pháp ở Việt Nam đối với vấn đề tôn giáo thông qua những cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin 5. Kết cấu đề tài Đề tài gồm 4 phần: -Phần mở đầu -Phần nội dung -Phần kết bài -Phần tài liệu tham khảo -Phần nội dung thì gồm 3 chương: + Chương 1 Quan điểm chung về tôn giáo của chủ nghĩa Mác-Lênin + Chương 2 Tình hình giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay + Chương 3 Những giải pháp để giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay 2 B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1 QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ TÔN GIÁO THEO QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN 1.1. Khái niệm về tôn giáo Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua. Nói chung bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó, cũng đều bao gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, "tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế". 1.2. Bản chất của tôn giáo Dựa trên cơ sở của quan niệm duy vật về lịch sử, cũng như những quan niệm của C. Mác về tôn giáo, Ph Ăng-ghen đã đưa ra một định nghĩa có tính chất kinh điển từ góc độ triết học về tôn giáo như sao: “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo –vào đầu óc con người –của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế’’. Định nghĩa này không những đã chỉ ra được bản chất của tôn giáo mà còn chỉ ra con đường hình thành ý thức hay niềm tin tôn giáo. Ở định nghĩa trên chúng ta thấy rằng, Ph Ăng-ghen đã tiếp tục luận điểm cho rằng con người sáng tạo ra tôn giáo (tất nhiên con người ở đây là con người của hiện 3 thực lịch sử). Sự sáng tạo ra tôn giáo của con người được thực hiện của sự phản ánh mà con người sáng tạo ra tôn giáo là sức mạnh bên ngoài thống trị cuộc sống hàng ngày của con người, còn phương thức nhận thức để tạo ra tton giáo là phương thức hư ảo. Với chủ đề đối tượng và phương thức của nhận thức như trên thì kết quả là con người tạo ra cái siêu nhiên thần thánh trong đầu óc của mình thuộc lĩnh vực ý thức và niềm tin Định nghĩa của Ph. Ăng-ghen về tông giáo tuy là định nghĩa có tính chất bao quát về hiện tượng tôn giáo, là định nghĩa rộng nhưng cũng đã chỉ rõ cái đặc trưng, cái bản chất của tôn giáo là niềm tin hay thế giới quan hoang đường hư ảo của con người. Sự ra đời hiện tượng tôn giáo với bản chất như trên là tất yếu khách quan, vì khi con người bị bất lực trước sức mạnh của thế giới bên ngoài thì con người cần đến tôn giáo nhằm bù đắp cho sự bất lực ấy. Điều đó cũng có nghĩa là bản chất tôn giáo được thể hiện rõ nhất thông qua chức năng đền bù hư ảo của nó. 1.3. Nguyên nhân của tôn giáo Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu sau: -Nguyên nhân nhận thức: Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã hội chủ nghĩa trình độ dân trí chưa thật cao, nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích được. Do đó trước sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh. -Nguyên nhân kinh tế: Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội vẫn còn diễn ra, sự khác biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn tại phổ biến. Do đó, những yếu tố may rủi ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho họ dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên. 4 -Nguyên nhân tâm lý: Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trợ thành niềm tin, lối sống , phong tục tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân, qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị- xã hội, song tôn giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh tế- xã hội mà nó phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của tồn tại xẫ hội, trong đó ý thức tôn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền vững nhất trong đời sống tinh thần của mỗi con người, của xã hội. -Nguyên nhân chính trị - xã hội: Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với chủ trương, đường lối, chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện…đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo có sức thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác, những thế lực phản động lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. -Nguyên nhân văn hóa Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được thực hiện dưới hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn mực đạo đức phù hợp với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hóa có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phần quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hóa tinh thần, tình cảm của họ. Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn còn tồn tại trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với tiến trình đó, tôn giáo cũng cõ những biến đổi cùng với sự thay đỏi của những điều kiện kinh tế- xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ , xây dựng xã hội mới. 5 1.4. Các nguyên tắc giải quyết tôn giáo theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần quán triệt những quan điểm sau: -Thế giới quan duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin và thế giới quan tôn giáo là đối lập nhau. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng: không bao giờ được phép xem thường hoặc trấn áp tôn giáo hợp pháp của nhân dân; phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. -Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và hệ tư tưởng tôn giáo khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con người đi tới tự do, hạnh phúc cho con người. Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. -Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân; mọi người có hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nghiêm cấm những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động đi ngược lại lợi ích của nhân dân. -Thực hiện đoàn kết toàn dân, đoàn kết những người theo hoặc không theo tôn giáo; đoàn kết những người theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính để cùng xây dựng đất nước. -Cần phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tượng trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân nên phải tôn trọng. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, đấu tranh để loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên. -Phải có quan điểm lịch sự cụ thể khi giải quyết vấn đề giải quyết vấn đề tôn giáo. Bởi vì ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. 6 Chương 2 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM 2.1.Vài nét về tôn giáo ở Việt Nam Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có các nhánh Phật giáo như Đại thừa, Tiểu thừa, Hòa Hảo…,một số nhánh Kitô giáo như Công giáo Rooma, tin lành, tôn giáo nội sinh như Đao Cao Đài, và một số tôn giáo khác. Nền tín ngưỡng dân gian bản địa cho tới nay vẫn có ảnh hưởng nhất định tại Việt Nam. Nhiều người dân Việt Nam xem họ là những người không tôn giáo, mặc dù họ có đi đến các địa điểm tôn giáo vào một vài dịp trong năm. Theo tác giả Trần Đình Hượi, người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo thường được tập trung ở mặt thờ cúng, còn mặt giáo lý, tinh thần lại ít được quan tâm. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 thì toàn quốc có 15.651.467 người xác nhận mình theo một tôn giáo nào đó. Cùng với đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình sinh hoạt tôn giáo phổ biến, được thực hành bởi đa số dân cư. Để quản lý nhà nước về tôn giáo, Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ban Tôn giáo Chính phủ để phục vụ việc quản lý hoạt động của các tôn giáo, tín ngưỡng. Việt Nam thời cổ đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy, trong đó mô tả rất nhiều về hình ảnh một loài chim, mà cụ thể là chim Lạc, khiến các sử gia tin rằng, chúng là đối tượng được người Việt cổ tin thờ. Ngoài ra, con Rồng cũng được xuất hiện nhiều trong các sản phẩm nghệ thuật, mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ kính Lạc Long Quân, một huyền thoại về người được cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các đối tượng tự nhiên khác như động vật, núi, sông, biển... cũng được người Việt tôn làm thần bảo vệ, chúc phúc cho con người. Tôn giáo tại Việt Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ nhưng người Việt còn kết hợp yếu tố truyền thống đạo đức dân tộc mình vào đó để hình thành tôn giáo mang bản sắc riêng. Trong thời quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, được xem là nền tảng của chế độ khoa cử, nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Tuy nhiên trong các Triều đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn Phật giáo cũng có vai trò quan trọng trong triều đình và được các chính quyền phong kiến 7 khuyến khích. Các tôn giáo có mặt lâu đời tại Việt Nam là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo (gọi chung là tam giáo). Sau năm 1954, khi người cộng sản cầm quyền tại miền Bắc, họ xem vấn đề tâm linh như là một đối tượng đấu tranh tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức hệ. Họ cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến mức mọi chuyện liên quan đến tâm linh đều bị đả phá Đền Hùng cũng bị phá vì bị cho rằng đó là mê tín dị đoan. Họ xóa đi tất cả, trong khi đáng lẽ tín ngưỡng tôn giáo là thuộc về nhu cầu, quyền cơ bản của con người. Ở miền Bắc, từ năm 1954 cho đến đầu những năm 1980 hầu như không tồn tại các hoạt động thực hành tín ngưỡng nữa thì trong khoảng thời gian đó, trong miền Trung và miền Nam vẫn duy trì. Việc ngắt quãng trong một thời gian dài, từ 1954 đến đầu những năm 80 đã khiến cho hệ thống lễ hội bị phá vỡ. Từ năm 1986 đến nay, gần 8.000 lễ hội đã được phục hồi và hình thành mới, được quan tâm nhiều nhất là lễ hội dân gian. Việc phục hồi lễ hội đang được phản chiếu dưới nhãn quan là văn hóa tinh thần mà quên đi mất phần trình diễn, phô bày nghi thức, biểu hiện của người dân đối với thần linh. Hiện nay, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ trương tự do tín ngưỡng, nhưng có một số nguyên tắc khiến việc thực hành đôi khi lại bị ngăn cản bởi một vài cá nhân thiếu hiểu biết Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo, nhận xét "dường như những chính sách về tôn giáo nghiêm trọng và sai lầm trước đây mà cả hiện nay nữa đã tạo ra một quá trình sa mạc hóa về tâm linh ở Việt Nam, để giờ đây tâm hồn của người Việt đã biến thành một bãi hoang có thể chấp nhận các loại bụi gai xương rồng và không thể trồng được loại cây có hoa thơm, quả ngọt". Theo ông, đây là bài học về việc đừng nên tạo ra những sa mạc nhận thức như đã từng làm, vì không ai khác, chính các thế hệ người Việt sau này sẽ phải gánh chịu hậu quả. 2.2. Thực trạng giải quyết các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam 2.2.1. Ưu điểm - Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Do tôn giáo có sự đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể xem nó như một phần tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát triển, lan truyền trên bình diện thế giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai trò chuyển tải, hoà nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần 8 thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư cách một bộ phận của ý thức hệ tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần. -Điều dễ nhận thấy là, những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau về niềm tin, rất xa nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung khuyên thiện. Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức tôn giáo là ngoài những điều phù hợp với tình cảm đạo đức của nhân dân, nó được thực hiện thông qua tình cảm tín ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng. Họat động hướng thiện của con người được tôn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn. -Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày càng thuần khiết. -Đặc biệt, đạo đức tôn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái siêu nhiên (Thượng đế, Chúa, Thánh Ala) và sau này, Đức Phật cũng được thiêng hóa, nên các tín đồ thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện, tự giác. Song, suy cho cùng, việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức ấy cũng là để phục vụ cho mềm tin siêu nhiên. Sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi, giữa cái thực và cái thiêng đã mang lại cho tôn giáo khả năng thuyết phục tín đồ khá mạnh mẽ. Trên thực tế, chúng ta thấy nhiều người cung tiến rất nhiều tiền của vào việc xây dựng chùa chiền, làm từ thiện… vốn là những tín đồ tôn giáo. -Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cập đến tình yêu. Tinh thần “từ bi” trong Phật giáo không chỉ hướng đến con người, mà còn đến cả muôn vật, cỏ cây Phật giáo kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thương và bảo vệ sự sống. Đặc biệt, trong quan hệ giữa con người với con người, Phật giáo muốn tình yêu thương ấy phải biến thành hành động “bố thí”, cứu giúp những người đau khổ hoặc “nhẫn nhục” để giữ gìn đoàn kết. 9 -Muốn giải thóat khỏi đau khổ, con người phải tự hoàn thiện đạo đức cá nhân, diệt trừ tham, sân, si, xoá bỏ vô minh, chặt đứt cây “nghiệp” để vượt qua biển khổ luân hồi. Đạo đức của Kitô giáo cũng đề cập đến tình yêu: yêu thương bản thân mình, yêu tha nhân và yêu thiên nhiên, trong đó, yêu tha nhân là trọng tâm của quan niệm đạo đức về tình yêu. Những chuẩn mực của đạo đức Kitô giáo giúp con người hoàn thiện đạo đức cá nhân trong quan hệ với cộng đồng. Tình yêu tha nhân ở đây không đơn thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách mặc, chăm sóc người ốm đau, bệnh họan, khuyên can người lầm lỗi… Tóm lại, đây là những hành vi đạo đức rất cụ thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều cảnh khổ cần được cứu vớt, giúp đỡ. -Tuy nhiên, tình yêu, lòng từ bi mà đạo đức tôn giáo đề cập đến còn chung chung, trừu tượng. Các tôn giáo đều muốn san bằng mọi bất công, mâu thuẫn trong xã hội bằng đạo đức ý tưởng đó dù tất đẹp, nhưng khó có thể hiện thực hóa trong cuộc sống trần thế. Song, có thể nói, việc hoàn thiện đạo đức cá nhân mà đạo đức tôn giáo đề ra nhằm hướng đến mục đích siêu nhiên, hướng đến chốn Thiên đường của Chúa hay cõi Niết bàn của Phật, dẫu sao vẫn có những tác động tích cực đến đạo đức cá nhân và xã hội. -Tất cả các tôn giáo như: Phật Giáo, Kitô Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài, …đều hướng thiện, muốn con người hoàn hảo hơn, tôn giáo nào cũng dạy con người làm việc tốt không gây oán thù, tu dưỡng rèn luyện đạo đức và giúp con người hiểu hơn về nhận thức cũng như bản chất con người. -Hầu hết các tôn giáo đều hướng tới con người tới cái thiện cái tốt đẹp khuyên răn con người làm điều hay lẽ phải và nhân từ với đồng loại. 2.2.2. Hạn chế Bên cạnh về mặt ưu điểm tôn giáo ở Viêt Nam hiện nay còn có những hạn chế của đạo đức tôn giáo. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân và quần chúng chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên đường của Chúa 10 hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời là nơi đầy những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa và trở về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa qủy dữ. Muốn chứng được Niết bàn (đạt đến giải thoát), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham muốn dục vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết lý sống đó cho thấy mặt tiêu cực của thế giới quan tôn giáo. Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo. Tôn giáo không đề cao cuộc sống trần gian. Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục trước tình cảnh nô lệ, biết sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tôn giáo trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu tôn giáo không phải là của giai cấp thống trị). Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm vào đam mê, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp. K. Marx gọi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân’’ theo nghĩa đó và cũng vì vậy đạo đức tôn giáo đối lập với đạo đức chân chính. Về mặt nào đó, đạo đức tôn giáo đã tạo cho con người thế giới quan và nhân sinh quan sai lệch, làm hạn chế tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con người. Đạo đức tôn giáo hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, song đó là thứ hạnh phúc hư ảo, hão huyền. Tinh thần nhẫn nhục mà các tôn giáo đề ra thể hiện thái độ cực đoan, thủ tiêu đấu tranh. Nó tạo cho các tín đồ thái độ bàng quan trước thế giới hiện thực, bằng lòng với số phận không tích cực đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong niềm tin rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu “quả báo” hoặc bị trừng trị ở kiếp sau. Chính tâm lý đó đã ngăn cản con người đi đến hạnh phúc thực sự của mình nơi trần thế. Một số phần tử xấu lợi dụng hoặc cuồng tín việc bảo vệ tôn giáo để gây nhiều chiến tranh, bất ổn làm ảnh hưởng đến hòa bình thế giới gây nhiều tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, bói toán, chữa bệnh bằng bùa phép, nhập hồn lên đồng lên cốt và một số lý thuyết của tôn giáo cản trở nhận thức của con người cũng như khiến họ có nhận thức sai lệch về 1 số vấn đề của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Thêm nữa, đạo đức tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá nhân nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã hội của con người. Với tính cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của con người. Do vậy, muốn hoàn thiện 11 đạo đức cá nhân, không thể tách nó khỏi những điều kiện sinh họat vật chất cùng các quan hệ xã hội khác của con người. K. Marx đã khẳng định rằng, “bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” và nhân cách con người cũng chỉ có thể được hoàn thiện trong các mối quan hệ xã hội mà thôi. Như trên đã phân tích, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tích cực, phù hợp với xã hội ta hiện nay. Song, cũng sẽ là không khoa học, nếu chúng ta tuyệt đối hóa đạo đức tôn giáo, thổi phồng vai trò của nó. F. Engels từng khẳng định rằng, ngay cả một số yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo cũng chỉ giống với đạo đức mới của chúng ta về mặt hình thức mà thôi. Vì vậy, mặc dù tôn giáo “là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn của hiện thực” nhưng rất cuộc nó vẫn chỉ là một sự phản kháng mang tính tiêu cực, thụ động của con người mà thôi. Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo để khẳng định một cách khách quan, khoa học những đóng góp, đồng thời chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội là điều cần thiết. Chúng ta hy vọng rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những chuẩn mực đạo đức tiến bộ trong tôn giáo sẽ giúp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc và hữu ích trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Tôn giáo làm cho con người bằng lòng với thực tế họ trở nên thụ động làm mất tính sáng tạo của con người, tôn giáo dễ làm cho con người mê tín tâm lí sợ hãi chờ đợi nhờ cậy vào Thần Thánh, Phật mỗi khi gặp khó khăn, tôn giáo dễ bị lợi dụng bởi các thế lực khác điều đó thường dẫn đến những hậu quả xấu, ảnh hưởng đến xã hội 12 Chương 3 NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo. Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiên cứu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc qua. Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc, thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế- xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo. Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các lớp, các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, nhưng trước hết và trực tiếp là trách nhiệm của bộ máy và đội ngủ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo. Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ. Năm là, theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo phải tuân thủ đúng Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Mọi tin đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình 13 và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức của tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật. 3.2 Một số giải pháp cụ thể để giải quyết tôn giáo Việt Nam. -Tăng cường đoàn kết tôn giáo + Nâng cao nhận thức tư tưởng về vấn đề đoàn kết tôn giáo trong tình hình mới + Bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay + Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước về tôn giáo trong bối cảnh hiện nay + Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo + Thực hiện bình đẳng giữa các tôn giáo, giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo + Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong tôn giáo và đập tan âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng của lực lượng thù địch -Nhằm tăng cường công tác tôn giáo + Cần tiếp tục quan tâm việc tổ chức cho cán bộ, nhân dân nói chung, đồng bào tôn giáo nói riêng học tập các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo. Các ngành, các cấp cần đẩy mạnh công tác tuyên tryền, phổ biến giáo dục pháp luật trong vùng giáo, nhất là trong các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo. + Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội đối với công tác tôn giáo. + Các ngành các cấp đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục tryền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với quê hương đất nước, tăng cường sự đồng thuận giữa người có tín 14 ngưỡng, tôn giáo và những người không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. + Cần nhận thức một cách sâu sắc rằng nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, thông qua công tác vận động nhằm giúp đồng bào các tôn giáo phát huy những ưu điểm, khắc phục tồn tại, giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa của dân tộc, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với nhân dân đồng thời chủ động đấu tranh chống lại các hoạt động lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, lợi dụng, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối , xâm phạm an ninh quốc gia. + Quan tâm xây dựng tổ chức, bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo đủ mạnh, tạo điều kiện về mọi mặt nhằm góp phần tham mưu ngày càng tốt hơn cho cấp uỷ, chính quyền giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. + Trong tình hình hiện nay, bộ máy tham mưu, giúp việc về công tác tôn giáo ở tỉnh ta, nhất là cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức vì vậy chưa đáp ứng được yêu cầu tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải quyết các vấn đề nảy sinh từ cơ sở.Vì vậy, trong thời gian tới cần phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo của cấp uỷ, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng tạo sự thống nhất và có tính "liên hoàn" cao nhằm phát huy sức mạnh và hiệu quả công tác tôn giáo trong tình hình mới. -Đẩy mạnh công tác tuyên truyền Luật tín ngưỡng, tôn giáo + Cấp ủy, chính quyền các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo + Tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ + Lựa chọn nội dung, đổi mới phương pháp, hình thức tuyên truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với từng địa bàn, đối tượng + Phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, lực lượng trong tuyên truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện. 15 C. KẾT LUẬN Vấn đề tôn giáo nước ta cũng như trên thế giới đang là một vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay. Cho nên bài tiểu luận đưa ra những lí luận đúng đắn của chủ nghĩa MácLênin về vấn đề tôn giáo để giúp ta thấy rõ được mặt tích cực và tiêu cực của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp cho vấn đề tôn giáo mà không đụng chạm đến tín ngưỡng của mỗi cá nhân. Góp phần phát triển tôn giáo một cách toàn diện mà không ảnh hưởng đến vấn đề chính trị của quốc gia. Nhằm tạo ra một cộng đồng tôn giáo lành mạnh có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước. Vì vậy chúng ta cần phải đoàn kết trong mọi tôn giáo cũng như tôn trọng lẫn nhau trong tôn giáo và mỗi tôn giáo chúng ta cần phải phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực để tôn giáo ngày càng đi lên một bước ngoặc lớn. 16 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009, 2010. [2]. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, 2007. [3]. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, 2007. [4]. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, 2007. [5]. Mác – Ăngghen Toàn tập; V.I.Lênin Toàn tập. [6]. Giáo trình tôn giáo học đại cương( Hoàng Ngọc Vĩnh ) [7]. Tạp chí Báo Mới ( bài viết của Trần Minh Thư về quan điểm của Đảng ta về tôn giáo) [8]. Tài liệu tiểu luận của kênh 123.doc [9]. 9.Tạp chí cộng sản ( bài viết về công tác tôn giáo của Đảng và nhà nước ta hiện nay của Từ Thanh) [10]. Tạp chí Mặt Trận ( bài viết về Nhìn lại quan điểm của đảng và nhà nước về vấn đề tôn giáo của Lê Tấn Minh). 17 18 MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................1 2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu..............................................................1 2.1. Mục đích nghiên cứu......................................................................................1 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................1 2.3. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................2 3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................2 4. Ý nghĩa đề tài........................................................................................................2 5. Kết cấu đề tài.........................................................................................................2 B. PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................3 Chương 1................................................................................................................... 3 QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ TÔN GIÁO THEO QUAN ĐIỂM................................3 CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN.....................................................................................3 1.1. Khái niệm về tôn giáo....................................................................................3 1.2. Bản chất của tôn giáo.....................................................................................3 1.3. Nguyên nhân của tôn giáo..............................................................................4 1.4. Các nguyên tắc giải quyết tôn giáo theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin.....5 Chương 2................................................................................................................... 7 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM...........................7 2.1.Vài nét về tôn giáo ở Việt Nam.......................................................................7 2.2. Thực trạng giải quyết các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam...................................8 2.2.1. Ưu điểm..................................................................................................8 2.2.2. Hạn chế.................................................................................................10 Chương 3................................................................................................................. 13 NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở........................13 VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................................................................13 3.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo..................................13 3.2 Một số giải pháp cụ thể để giải quyết tôn giáo Việt Nam..............................14 C. KẾT LUẬN............................................................................................................16 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng