TRƯỜN G ĐẠ I HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KH OA ĐÀO TẠO SAU Đ ẠI HỌ C
------------------------------
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
CHỦ ĐỀ 2B:
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
Lớp
Khóa
Nhóm
: Cao Học – Ngân hàng đêm 2
: 18
:4
Danh sách học viên thực hiện:
1. Huỳnh Trung Dũng
2. Nguyễn Hoàng Lan
3. Nguyễn Thế Lộc
4. Vũ Thị Nga
5. Nguyễn Văn P húc
6. Nguyễn Văn Thanh
7. Võ Thụy Vy
8. Chung Tư Hòa
9. Lê Huy P hương
Giảng Viên: Ths. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TP. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2010
1
Khủng hoảng tài chính – một thất bại lớn của chính trị
Johnny Munk hammar och Nima Sanandaji
Báo báo về chính sách của EEI
Một loạt các bài viết về chính sách của Hiệp hội các doanh nghiệp Châu Âu
(EEI) nhằm mục đích thông báo các cuộc tranh luận của chính trị Châu Âu với tư cách
là những tranh cãi đủ cứng rắn, nhằm thúc đẩy các ý tưởng của tự do kinh doanh và tự
do cạnh tranh. Tờ báo có nhiệm vụ khi các bài phân tích cho dù được viết bởi đội ngũ
nhân viên trực tiếp của EEI hoặc các tác giả bên ngoài. Bất cứ kết luận hay ý kiến
được trình bày trong các bài viết này không nhất thiết phải trích quan điểm của EEI
hoặc của những người liên kết với EEI.
Trưởng ban
Johnny Munkhammar
Hỗ trợ thiết kế
Bản quyền của hiệp hội kinh doanh Châu Âu
Bất cứ sự sao chép nào phải được sự cho phép từ nhà xuất bản
Phát hành bởi:
European Enterprise Institute
c/o Kellen Europe
Avenue Jules Bordetlaan 142
1140 Brussels
Tel: +32 (0) 2 761 16 75
E-mail: european-ent erprise@ kelleneurope.com
Web site: www.european-enterprise.org
EEI President and Co-President : Peter Jungen, Gunnar Hökmark
2
Hiệp hội kinh doanh Châu Âu là một tổ chức phi lợi nhuận, có trụ sở tại Bỉ.
Hiệp hội nhằm mục đích thúc đẩy tinh thần kinh doanh trong cộng đồng chính sách
Châu Âu và cung cấp một nền tảng cho các ý tưởng và triết lý của doanh nhân trên
khắp Châu Âu.
Các công trình nghiên cứu của EEI để tạo ra những điều kiện và tranh luận
trong mọi khía cạnh của chính sách có tác động đến điều kiện của tinh thần doanh
nhân, khuyến khích đổi mới, năng lực cạnh tranh và sự thịnh vượng kinh tế. EEI
không mang bất kỳ một ý kiến của tổ chức trong vấn đề cá nhân, nhưng tích cực
khuyến khích cuộc đối thoại tranh luận giữa các bên liên quan.
3
Mục lục
Thông điệp từ nhà xuất bản
Lời nói đầu
Từ rủi ro thế chấp đến khủng hoảng tài chính toàn cầu
Thuế - tài trợ tổ chức tín dụng và quy chế tạo khủng hoảng
Các chuyên gia dự đoán như thế nào về chính trị tạo ra cuộc khủng hoảng
…Nhưng các chính trị gia đã bỏ qua những cảnh báo
Những khủng hoảng của tư bản?
Thị trường tài chính tự do là quyết định cho sự giàu có
Mỹ đang lê bước trên con đường cải cách
Kết luận
Tài liệu tham khảo
4
Thông điệp từ nhà xuất bản
Trong suốt 25 năm qua, nền kinh tế toàn cầu đã trải qua một sự tăng trưởng và
phát triển chưa từng thấy. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thoát khỏi cảnh đói nghèo. Ý
nghĩa này gây một ấn tượng và chắc chắn đây là một điều gì đó để các nhà kinh tế
mong đợi. Sự thịnh vượng không phải là vấn đề chính của kinh tế học mà vấn đề về
giá trị lao động và các cơ hội xã hội.
Hàng triệu người dễ dàng đạt được những giá trị mới và cơ hội thật sự nhiều
đến mức mà ở năm 1968 hoặc thậm chí năm 1989 không ai tin rằng điều này có thể
xảy ra. Thế giới đã thay đổi và chúng ta không còn nghe nói về thế giới thứ ba bởi vì
không còn sự phân chia địa cầu chúng ta thành thế giới thứ ba, thứ hai và thứ nhất. Sự
hiện đại và thị trường tài chính toàn cầu đã thay đổi tất cả, mang lại những cơ hội đầu
tư và thương mại cho tất cả các dân tộc và khu vực mà trước đây hầu như không có cơ
hội tham gia.
Viễn cảnh này quan trọng khi chúng tôi thảo luận về khủng hoảng tài chính
ngày nay và nguyên nhân của nó. Những kết luận của chúng tôi không phải nhận được
bằng kết qủa của 25 năm thành công khác nhau. Bởi vì chúng tôi cần ít nhất bằng với
những năm thành công như chúng tôi thấy để đáp ứng những thách thức như người ta
sống trong đói nghèo, xã hội đang thay đổi, về chính trị, về thách thức đối với những
thay đổi chính trị và sự hợp nhất của các quốc gia và khu vực.
Những kết quả của sự phát triển toàn cầu cho chúng tôi những kinh nghiệm
đáng kinh ngạc, những điều mà chúng tôi nhìn thấy hôm nay chắc chắn là vai trò quan
trọng về sự vận hành tốt của thị trường tài chính toàn cầu. Và chúng tôi cần chắc chắn
rằng chúng hoạt động tốt trong tương lai, sự thích nghi thật sự của kinh tế toàn cầu.
Nếu hôm nay chúng ta điều chỉnh những thị trường này bằng cách gây cản trở sức
sống và cải tiến liên quan đến thương mại, kinh doanh và đầu tư, chúng tôi sẽ mất cơ
hội hoặc không đạt được ổn định.
Khu vực tài chính phải được ổn định, đáng tin cậy và minh bạch, nhưng nó
không thể cân bằng những thiếu sót của các bộ phận khác của nền kinh tế. Nếu chính
sách tiền tệ không ổn định, tài chính công không ổn định hoặc nếu những can thiệp
chính trị làm suy yếu thị trường, thị trường không thể bù đắp cho điều đó và không ai
5
có thể tránh được những hậu quả của cuộc suy thoái kinh tế, chúng ta chỉ có thể hạn
chế thấp nhất điều này xảy ra.
Đó là lý do thảo luận về cuộc khủng hoảng hiện nay phải được mở ra và cung
cấp một lộ trình cho sự phát triển tương lai của thị trường tài chính toàn cầu. Có nhiều
việc phải làm để đạt được những quy định tốt hơn, nhưng điều đó không có nghĩa là
những sắp đặt – cái đó thường là những đề nghị trong tranh luận ngày nay. Châu Âu
giữ vai trò hàng đầu trong việc bảo đảm sự tự do của thị trường tài chính toàn cầu với
những quy định tốt hơn.
Việc công bố này của hiệp hội các doanh nghiệp Châu Âu cung cấp những
thông tin có giá trị về sự can thiệp thật sự của chính phủ như thế nào, là nguyên nhân
của hầu hết những cuộc khủng hoảng tài chính, và do đó dẫn đến những tranh luận về
thị trường tài chính tự do trong tương lai.
Gunnar Hökmark
Đồng chủ tịch EEI và là thành viên của Nghị viện Châu Âu
Giới thiệu
Cuộc khủng hoảng tài chính ở M ỹ đã làm chao đảo nền kinh tế toàn cầu. Một số
những ngân hàng lớn nhất của thế giới đã bị phá sản và bị chính phủ kiểm soát. Thị
trường cổ phiếu sụp đổ khiến những nhà đầu tư nhỏ lo sợ bị mất vốn một khi các ngân
hàng không an toàn.
Ngày nay, nhiều nhà quan sát xem khủng hoảng như là một bằng chứng suy yếu
của thị trường tự do. Họ nghĩ rằng giải pháp nằm ở chỗ sự dụng nhiều hơn những quy
định và can thiệp của chính phủ trong thị trường tài chính. Đồng thời, có nhiều dấu
hiệu cho rằng cuộc khủng hoảng được tạo ra bởi các quy định và sự can thiệp của
chính phủ. Đây không phải là sự thất bại của thị truờng mà là sự thất bại của chính trị.
Cuộc khủng hoảng có nguồn gốc từ thị trường thế chấp của Hoa Kỳ, đặc biệt
trong việc cho vay “dưới chuẩn” tập trung vào những hộ gia đình có điều kiện tín dụng
6
yếu. Chính phủ Hoa Kỳ bước đầu làm cho những hộ gia đình có thu nhập thấp dễ dàng
sở hữu nhà thông qua tổ chức công như Fannie M ae and Freddie M ac.
Vẽ lên sự trợ cấp mạnh mẽ, Fannie M ae and Freddie Mac đã cấp bảo lãnh thế
chấp cho những cá nhân không đủ điều kiện cho vay bình thường. Đồng thời, những
quy định này cũng được đưa ra trong một số trường hợp các ngân hàng bắt buộc mở
rộng tín dụng cho những người vay mà tài sản không đảm bảo.
Không khác với cuộc khủng hoảng tài chính ở Thụy Điển những năm 1990 và
suy giảm kéo dài ở Mỹ, cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại có cái gốc từ chính sách
tiền tệ của chính phủ. Cục dự trữ Mỹ cắt giảm tỷ lệ dự trữ ở mức rất thấp sau năm
2001 để làm chậm suy giảm kinh tế, đã tạo ra bong bóng bất động sản.
Cuối cùng, các ngân hàng tin chắc rằng chính phủ sẵn sàng giải cứu họ, nếu
khủng hoảng xảy ra. Trong bối cảnh đó, các tổ chức tín dụng Mỹ mở rộng những
khoản cho vay rủi ro cao cho những người có điều kiện tín dụng thấp. Khi thị trường
nhà đất suy giảm, phần lớn các hộ gia đình không còn có khả năng trả hết những
khoản vay của họ, và khủng hoảng đã xảy ra sau đó.
Nhiều chuyên gia và nhà bình luận đã cảnh báo về cuộc khủng hoảng hiện nay.
Nhưng trong suốt giai đoạn kinh tế tăng trưởng, không ai lắng nghe những cảnh báo
này, trong đó có cả Đ ảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ.
Thị trường tự do được đặc trưng là tạo sự phá huỷ: sản phẩm cũ, công ty và
việc làm được thây thế bằng cái mới và tốt hơn. Nếu không có sự can thiệp của chính
phủ vào thị trường tài chính Mỹ có lẽ sự suy giảm đã có hạn chế và những người tham
gia thị trường sẽ chịu đựng sự mất mát.Thông qua sự can thiệp của chính phủ, sự suy
giảm đã trở thành cuộc khủng hoảng - nếu chính phủ không tiếp tục can thiệp – có thể
sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế. Do đó chính phủ can thiệp sâu
hơn.
Khủng hoảng phải được ngăn chặn và điều này có thể đưa đến sự can thiệp có
thể lặp đi lập lại trong một thời gian dài. Điều này không chỉ xảy ra ở Mỹ mà còn diễn
ra ở các tổ chức tài chính tại các quốc gia khác đã lỡ mua lại khoản tín dụng xấu. Ngày
nay các quốc gia Châu Âu đang hành động riêng lẻ, nhưng việc phối hợp hành động
trong nội bộ các nước EU đang được bàn luận. Ngoài việc kiểm soát khủng hoảng, có
7
rất nhiều lý do để tập trung cải thiện một viễn cảnh dài hạn, nơi mà vai trò của chính
phủ trong thị trường tài chính là đề ra những luật lệ, chứ không chỉ là người tham gia
thị trường.
Hoa Kỳ trước đây đã giành được lợi thế thông qua chính sách tự do kinh tế và
gia tăng mối quan hệ đến những nước công nghiệp khác. Trong những năm gần đây,
nước này đã mất đà trong cải cách thị trường, chi tiêu công đã gia tăng và những điều
chỉnh mới về công nghiệp đã được đưa vào. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ đã mất đi
chút ít về tự do kinh tế - và do đó là mất cạnh tranh – trong khi những nước khác gia
tăng cạnh tranh. Điều này đang áp dụng với phần lớn các nước Châu Âu và dĩ nhiên có
Trung Quốc, Ấn Độ và Braxin được đề cập là 3 nền kinh tế phát triển nhanh nhất.
Nhiều dự đoán rằng khủng hoảng đã đánh dấu kết thúc kỷ nguyên thịnh vượng
và thống trị toàn cầu của Hoa K ỳ. Hoa Kỳ dĩ nhiên có thể vượt qua cuộc khủng hoảng,
nhưng câu hỏi đặt ra là bằng cách nào và khi nào - và đâu là điều kiện kinh tế lâu dài
được tạo lập bởi các chính trị gia Hoa Kỳ, đặc biệt là trong thị trường tài chính. Để
thành công, các chính trị gia Mỹ phải nhận ra được nguyên nhân chính của cuộc khủng
hoảng và đánh giá những cải cách tiếp theo. Cuộc khủng hoảng này không phải là kết
quả của nền kinh tế Hoa Kỳ đang quá tự do, mà nó đến từ những phần khác nhau nơi
mà nó chưa được tự do cho đến tận bây giờ. (The crisis is not a result of the US
economy being too free, but comes from the various parts where it has not been free
until now.)
Sẽ luôn có những suy giảm trong nền kinh tế và rủi ro của các bong bóng do thị
trường tạo ra. Nhưng xoáy sâu vào lý thuyết rất phổ biến của Karl Marx hoặc JeanBaptiste Colbert, cũng không có giải pháp cho bất kỳ điều này. Thị trường tự do là
điều kiện tạo nên sự thịnh vượng, và tự do thị trường tài chính là cần thiết trên toàn
cầu của những thập niên trước đây. Thật vậy, kể từ khi cuộc khủng hoảng này xảy ra,
vai trò tạo lập của chính phủ là rất lớn, nó cung cấp một tình thế mạnh mẽ để tự do hoá
thị trường tài chính.
Kiến thức này cũng quan trọng cho Châu Âu cân nhắc, ít nhiều bởi vì cuộc
khủng khoảng cũng tác động đến chúng ta giống như vậy. Chúng ta có thể học rất
nhiều điều từ những việc đã làm tốt và những việc chưa làm tốt trong chính sách kinh
8
tế M ỹ. Mục tiêu của nghiên cứu này để mô tả nguồn gốc và những giải pháp lâu dài
cho cuộc khủng hoảng hiện nay.
Johnny Munkhammar
Giám đốc nghiên cứu, Hiệp hội doanh nghiệp Châu Âu
Nima Sanandaji
Managing Director, Captus, chuyên gia cố vấn
Từ rủi ro thế chấp đến khủng hoảng tài chính toàn cầu
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Mỹ tăng trưởng rất nhanh và đầu tư
nước ngoài chảy mạnh vào trong nước. Trong khi đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED)
đã duy trì mức lãi suất liên bang rất thấp trong một thời gian dài. Năm 2003, lãi suất
trái phiếu kho bạc kỳ hạn 3 tháng chỉ khoảng 1%. Hơn nữa, từ năm 2003-2005 FED đã
duy trì lãi suất dưới mức lạm phát kỳ vọng dẫn đến việc trợ cấp mạnh mẽ cho các
khoản vay. Điều này đã tạo ra bong bóng nhà đất.
Từ giữa thập niên 1990, thị trường cho vay dưới chuẩn bắt đầu phát triển. Theo
đó, thị trường này cung cấp các khoản vay cho những người đi vay không đáp ứng đủ
điều kiện để vay thông thường.
Sự phát triển của các khoản vay thế chấp dưới chuẩn đó đã được khuyến khích
mạnh mẽ ở góc độ chính trị thông qua các khoản trợ cấp. Thậm chí có những quy định
trong vài trường hợp bắt buộc ngân hàng phải mở rộng thế chấp. Các khoản thế chấp
dưới chuẩn đã đóng một vai trò quan trọng giúp cho số lượng những hộ gia đình Mỹ
sở hữu nhà tăng từ 65% đến 69% trong giai đoạn 1995 - 2006.
Cuối năm 2007, tổng cộng đã có hơn bảy triệu hộ gia đình Mỹ sở hữu các
khoản vay dưới chuẩn. Giá trị của các khoản vay thế chấp dưới chuẩn tại thời điểm đó
vào khoảng 1.300 tỷ đô la, gấp bốn lần so với năm 2003. Chỉ riêng trong năm 2005,
những hợp đồng thế chấp dưới chuẩn được ký có giá trị khoảng 600 tỷ đô la.
Những khoản vay dưới chuẩn rủi ro cao cùng với sự tăng trưởng quá nóng của
thị trường. Chính phủ đã tạo ra khủng hoảng, nhưng chính hoạt động cho vay quá mức
đã góp phần dẫn đến sự lây lan mạnh mẽ của khủng hoảng. Còn các chính trị gia Mỹ
9
lại làm tăng rủi ro cho một thị trường vốn đã tiềm ẩn nhiều rủi ro, hậu quả là khủng
hoảng nhanh chóng xuất hiện. Khi tăng trưởng kinh tế chững lại, thị trường nhà đất bắt
đầu đóng băng, những hộ gia đình có thu nhập thấp bắt đầu gặp khó khăn trong việc
hoàn trả và tái tục các khoản vay thế chấp của họ.
Trong quý III năm 2007, các khoản vay thế chấp dưới chuẩn chiếm tổng cộng
13% thị trường cho vay thế chấp tại Mỹ, đồng thời đã có 55% trường hợp nhà bị tịch
thu trong thời gian này. Một vài tổ chức tín dụng Mỹ chuyên cho vay dưới chuẩn đã
lâm vào khủng hoảng nặng nề. Chẳng hạn như cổ phần của New Century Financial
Corporations và Novastar Financial giảm mạnh đến 90%.
Cuộc khủng hoảng sau đó nhanh chóng lan ra khắp thị trường tài chính vốn đã
tăng trưởng quá nóng và tác động đến các tổ chức tín dụng bên ngoài Hoa Kỳ. Trong
tháng 3/2008, Bloomberg thống kê hơn 34.000 việc làm đã bị cắt giảm tại các ngân
hàng niêm yết ở phố Wall.
Trong tháng 4/2008, IMF liên tục cảnh báo rằng cuộc khủng hoảng tài chính có
thể dẫn tới một cuộc suy thoái toàn cầu. Tổ chức này thậm chí còn cho rằng đây có thể
là "cú sốc tài chính lớn nhất kể từ cuộc Đại khủng hoảng 1930".
Cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn ở M ỹ đã trở thành một vấn đề
toàn cầu. Trên khắp thế giới, những khách hàng lớn, nhỏ gửi tiết kiệm tại ngân hàng và
các nhà đầu tư bắt đầu sợ sẽ mất đi tài sản. Một số các ngân hàng nổi tiếng hàng đầu
thế giới bị phá sản, hoặc được mua lại bởi các ngân hàng khác, hoặc bị Chính phủ các
nước chi tiền mua lại nhằm nắm quyền kiểm soát, hoặc được cứu bởi các tổ chức tín
dụng công.
Những tên tuổi này bao gồm các tổ chức nổi tiếng như Bear Sterns,
Merrill Lynch đến Washington Mutual với bề dày 119 năm tuổi đến Northern Rock,
Bradford & Bing và HBOS tại Vương quốc Anh.
Trên quy mô quốc tế, người ta bắt đầu hoang mang về khả năng phá sản dây
chuyền của các ngân hàng, đó cũng là lý do vì sao các ngân hàng đang kín đáo cho vay
để hỗ trợ lẫn nhau. Vì các ngân hàng đang phụ thuộc lẫn nhau cả về các khoản vay và
cho vay, nên ngay cả những tổ chức tín dụng còn sống sót cũng đang trong tình thế
cực kỳ khó khăn.
Chính phủ Mỹ đã chi ra gói giải cứu trị giá 700 tỷ đô la để bình ổn thị trường và
bơm tiền vào các ngân hàng, cho họ một biên lãi suất cho các khoản vay tái tục. Phần
10
vốn đó một phần dùng để mua lại các khoản nợ xấu, chẳng hạn như khoản vay có thế
chấp ở các ngân hàng.
Tại châu Âu, với các biện pháp khác nhau - nhưng với mục đích tương tự - đã
được áp dụng. Chính phủ đã cam kết bảo lãnh cho các khoản tiền gửi ở các ngân hàng
ở một số nước. Tại Vương quốc Anh, Chính phủ đã hoán đổi nguồn vốn của các ngân
hàng thành vốn chủ sở hữu, tạo thuận lợi cho việc trả lại của tiền đóng thuế của người
dân trong tương lai - như là trường hợp tại Thụy Điển vào năm 1992.
Có lẽ đặc điểm của cuộc khủng hoảng này là nó đã được biết trước nhưng
không thể tránh khỏi. Trong thực tế, một số các chuyên gia nhìn thấy sự phát triển này
sớm vào năm 1999, nhưng cảnh báo của họ không được chính phủ chú ý.
Tiền Thuế - Tài trợ cho các Tổ chức tín dụng và những Quy định
tạo ra Khủng hoảng
Để hiểu được sự đảo lộn kinh tế hiện nay ở Mỹ, cần phải nghiên cứu hai tổ
chức tín dụng đóng vai trò quyết định là: Fannie Mae và Freddie Mac. The Federal
National M ortgage Association (Công ty Cho vay thế chấp Quốc gia thuộc Liên bang),
gọi tắt là Fannie Mae, được thành lập bởi Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ
sau Đại
khủng hoảng. Qua thời gian, nó phát triển thành một tổ chức tín dụng tư nhân, đồng
thời ở trạng thái là một thực thể của chính phủ.
Việc kinh doanh của Fannie Mae bao gồm bảo hiểm các khoản cho vay của các
tổ chức tín dụng khác. The Federal Home Loan Mortgage Corporation (Tập đòan cho
vay mua nhà trả góp liên bang) ( viết tắt là: Freddie M ac) nó đã được thành lập vào
1970 với cấu trúc và mục đích tương tự như Fannie Mae.
Hai tổ chức trên được chính quyền Liên bang tiếp quản vào ngày 7 tháng 9 năm
2008, khi bị ảnh hưởng nặng của cuộc khủng hoảng do các tổ chức này góp một phần
lớn. Cần nói rằng các tổ chức này trong những tháng trước đã phụ trách 70% các
khoản thế chấp tại Mỹ, thị trường trong đó nó đóng vai trò quyết định, nơi mà dấu hiệu
đầu tiên của cuộc khủng hoảng xảy ra.
Trước khi được tiếp quản bởi chính quyền Liên bang vào ngày 7 tháng 9 năm
2008, Fannie Mae và Freddie M ac là một thực thể, hai tổ chức này được thiết kế rất
riêng, vừa là một cánh tay của chính phủ với những mục tiêu chính trị từ đó họ đã
11
nhận được những khoản trợ cấp lớn, M ặt khác, các doanh nghiệp cũng kinh doanh
riêng và tìm cách tối đa hoá giá trị cổ đông.
Mục tiêu chính trị đã làm giảm chi phí dành cho các khoản thế chấp dưới chuẩn
bằng cách sử dụng trợ cấp xã hội những ảnh hưởng sau này đó là vô hiệu hóa trực tiếp
các bản phân tích rủi ro thị trường bằng cách hạ thấp 1 cách giả tạo các khoản chi phí
thế chấp những người hưởng lợi từ việc gia tăng các khoản vay thế chấp dưới chuẩn đả
châm ngòi cho 1 cuộc khủng hoảng vỡ nợ.
Một lý do tại sao Fannie Mae và Freddie Mac đã kiểm soát phần lớn thị trường
thế chấp là do họ cũng được sử dụng các khoản trợ cấp để mở rộng hoạt động. Năm
1996, Văn phòng Ngân sách Quốc hội đã nghiên cứu cho thấy Fannie M ae và Freddie
Mac đã nhận được khoảng 6.5 tỷ đô la trợ cấp vào năm 1995. Cả hai đều giữ hơn 40%
nguồn vốn này, thay vì sử dụng chúng để trợ cấp thế chấp.
Không ngạc nhiên vì các công ty rất thích như vậy do lợi nhuận biên lớn vì chi
phí vốn nhỏ. Trong năm, một cuộc khảo sát từ Cục Kho bạc Mỹ cũng khẳng định điều
này. Fannie M ae. Và Freddie M ac không chỉ được hưởng lợi từ các khoản trợ cấp của
chính phủ. Các tổ chức trong lĩnh vực tài chính nhận thức rõ ràng chính phủ liên bang
chống lưng cho các tổ chức này và họ sẽ rất không hài lòng khi hai tổ chức này sụp đổ
- giả thuyết đã được chứng minh vào ngày 07 tháng 9 năm 2008.
Lợi nhuận thì tư nhân hóa và xã hội tổn thất. Những lợi thế do các chính trị gia
tạo ra cho Fannie M ae và Freddie M ac đã làm cho chúng phát triển nhanh chóng và
mở rộng ra các tổ chức tín dụng trên thị trường tự do. Tháng 7 năm 2008 tờ New York
Times thông tin rằng hai 2 tổ chức trên đã cấp hoặc cam kết tài trợ khoảng một nửa thị
trường thế chấp, đại diện cho 12.000 tỷ đô la M ỹ.
Fannie Mae và Freddie Mac đã được nói đến đã làm gia tăng rủi ro trên thị
trường thế chấp theo ba cách:
-
Tiền thuế thông qua kênh Fannie Mae và Freddie Mac để khuyến khích những
khoản vay có rủi ro cao.
-
Mặc nhiên người ta ngầm hiểu rằng chính phủ sẽ đứng sau lưng để cứu Fannie
Mae và Freddie Mac trong trường hợp có khủng hoảng, chính vì vậy nó đã tiếp tục
kích thích rủi ro của thị trường qua hành vi.
12
-
Các tổ chức tín dụng đã đông đúc bởi Fannie M ae và Freddie Mac, do vai trò
chi phối tạo ra những sai lầm chết người của họ
Ngoài Fannie Mae và Freddie Mac, có những ngân hàng cho vay nhà liên bang ở Hoa
Kỳ. Chúng được tạo ra sau khi khủng hoảng, và cũng như Fannie Mae và Freddie
Mac, họ là các tổ chức tín dụng được tài trợ bởi thuế. Các ngân hàng nhà liên bang cho
các ngân hàng khác vay đổi lại, các ngân hàng cung cấp các khoản thế chấp cho các cá
nhân. Họ sử dụng trợ cấp thuế để giảm chi phí thế chấp và như vậy cũng đã góp phần
làm cho mở rộng tín dụng quá mức trên thị trường thế chấp Mỹ.
Thị trường tài chính Mỹ có quy định chặt chẽ, các quy định này đã góp phần
trong việc tạo ra cuộc khủng hoảng hiện nay. Các quy định của Liên bang và nhà nước
chỉ cho phép một vài tổ chức tồn tại để đánh giá các rủi ro liên quan đến các khoản vay
trên thị trường. Thị trường độc quyền này được trang bị kém để đo lường rủi ro so với
một thị trường tự do hơn có nhiều thành viên tham gia.
Đạo luật của Cộng đồng tái đầu tư được giới thiệu vào năm 1977 cũng đã châm
ngòi những rủi ro xấu trong thị trường tín dụng. Chính quyền chịu trách nhiệm đánh
giá số lượng các văn phòng chi nhánh của các ngân hàng trong các khu vực có thu
nhập thấp và có bao nhiêu khoản vay được cấp ở đó. Nếu các khoản vay được cấp bị
coi là quá ít, ngân hàng có nguy cơ bị xử phạt. Đê tránh bị phạt các ngân hàng sẽ mở
rộng các khoản tín dụng cho những người không ít có khả năng chi trả cho các khoản
vay. Năm 1995. chính quyền Clinton sửa đổi luật tái đầu tư Cộng đồng để gia tăng áp
lực lên các ngân hàng cho vay có rủi ro cao.
Người ta cho rằng thị trường có những rủi ro vì mặt trái của nó. Nhưng trong
một thị trường với nhiều đối thủ cạnh tranh và không có sự can thiệp của chính phủ,
động cơ lợi nhuận sẽ không bao giờ có dẫn đến việc cho vay ở những người không thể
trả lại các khoản vay của họ. Hành vi chấp nhận rủi ro như vậy chỉ có thể được thực
hiện bởi chính quyền, với tiền của người khác - tiền thuế của dân.
Các chuyên gia đã dự đoán chính sách tạo ra k hủng hoảng như
thế nào…
Phần lớn những chỉ trích trong những năm qua đã dự báo đối với những cuộc
khủng hoảng tài chính do chính phủ bao cấp cho các công ty Fannie M ae và Freddie
13
Mac có thể tạo ra. M ột ví dụ là có một bài báo đã đăng trên tờ N ew York Times năm
1999. Bài báo đã diễn tả những kế hoạch ban đầu nhằm sử dụng Fannie Mae và
Freddie Mac để tạo ra sự dễ dàng cho vay thế chấp. “Bằng cách mở rộng các hình thức
cho vay mà nó sẽ mua lại, Fannie Mae khuyến khích các ngân hàng cấp các khoản vay
nhiều hơn đến với người dân với tiêu chuẩn tín dụng thấp”. Điều này, dẫn đến kỳ vọng
đưa đến tăng đầu cơ mua nhà đối với những hộ dưới chuẩn và thu nhập thấp”, đáp lại
việc thắt chặt từ chính quyến Clinton.
Nhưng cũng có sự ủng hộ cho các chính sách này từ bên trong khu vực tài
chính tư nhân. Ngân hàng tư nhân thấy rằng khả năng của việc mở rộng thị phần của
họ đối với những điều kiện tín dụng thấp. Khoản cho vay mà thông thường có thể quá
rủi ro trở nên có lợi nhuận một khi họ được tài trợ bởi tiền thuế và được cam kết tài trợ
bởi các tổ chức được chính phủ bao cấp. Tuy nhiên, 9 năm qua nó đã nhận ra rằng
chính sách xã hội như thế nguy hiểm như thế nào. Một bài báo tương tự lưu ý Fannie
Mae trong vai trò mới đã tạo ra nhiều rủi ro hơn trong lĩnh vực tài chính như thế nào,
mà có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng trong suy thoái kinh tế
Vào những năm của thập kỷ 80, thật là nguy hiểm khi chính phủ ra tay giải cứu
các khu vực tài chính. Peter.J.Wallison của học viện tổ chức Mỹ và dự báo tài chính,
cảnh báo người đọc:”nếu các định chế tài chính bị phá sản [do các khoản vay dưới
chuẩn], chính phủ sẽ tham gia và giải cứu chúng”. Wallison tiếp tục phát triển quan
điểm của mình về khủng hoảng mà ông ta dự báo. Năm 2001, ông ta biên tập 1 quyển
sách về rất nhiều vấn đề tạo ra bởi Fannie Mae và Freddie Mac trong hệ thống tài
chính M ỹ. Ba năm sau, ông ta xuất bản một quyển sách có tên là Tư nhân hoá Fannie
Mae và Fredie Mac và Ngân hàng cho vay mua nhà liên bang- Tại sao và như thế nào,
đồng tác giả với Thomas A.Stanton và Bert Ely.
Các tác giả đã rất rõ ràng trong những cảnh báo đối với đọc giả lưu ý đặc biệt
Fannie Mae và Freddie Mac, nhưng ngân hàng cho vay mua nhà liên bang đã lơ đi một
khủng hoảng trong tương lai: “Chính phủ đã hỗ trợ các công ty trong phân phối thị
trường nhà ở rất ít để chất lượng của hệ thống tài chính M ỹ, nhưng tạo ra rủi ro cho
những người nộp thuế và nền kinh tế khi cả một hệ thống không thể giải quyết bởi quy
định”
14
Được chú ý bởi nhà kinh tế Thomas Sowel, N.Gregory M ankiw (Chủ tịch hội
đồng tư vấn kinh tế của Tổng thống Mỹ) cảnh báo trong năm 2004 khu vực tài chính
mong chính phủ giải cứu các định chế tài chính trong trường hợp có khủng hoảng.
Mankiw nhận ra rằng điều này tạo ra “thúc đẩy cho các công ty chấp nhận rủi ro tương
ứng với gia tăng trong doanh thu”. Cùng lúc đó, giá của những rủi ro trên giảm xuống,
khi chính phủ sử dụng tiền của những người nộp thuế điều tiết sang.
Trong số những nhà chỉ trích có Alan Greenspan, sau đó là Chủ tịch của Cục dự
trữ liên bang Mỹ. Trả lời chất vấn trước Hội đồng thượng nghị viện về ngân hàng, Nhà
đất và các vấn đề liên quan vào tháng 4/2005, ông ta đưa ra những dự báo rõ ràng về
việc các chính sách xã hội thông qua các tổ chức cho vay có thể dẫn tới 1 tương lai
khủng hoảng. Greenspan lưu ý rằng:”các nhà đầu tư có thể đi đến nhận định rằng
chính phủ sẽ không để các công ty cổ phần lớn sụp đổ”. Đã dẫn đến định giá hơn giá
trị của tài sản đảm bảo và đáng chú ý là tỷ lệ thế chấp tài sản thấp hơn trên thị trừơng
tự do.
Greenspan cũng lưu ý rằng chính phủ chống lưng cho Fannie Mae và Fredie
Mac là lý do quan trọng giải thích tại sao họ đã giữ vai trò quan trọng của thị trường
thế chấp. Đó là chính phủ liên bang đã cho phép họ mở rộng thị phần của thị trường
thế chấp hộ gia đình từ 5,6% từ năm 1990 đến 23% trong năm 2003. Trong phần trình
bày của mình, Greespan giải thích cơ chế có thể dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính.
Trong một thị trường mà những người chủ nợ và các nhà đầu tư tin rằng người vay nợ
ở vị trí có điểm tựa. Tuy nhiên, hành động của Fannie Mae và Fredie M ac đã làm vô
hiệu cơ chế thị trường.
“Quy chế GSEs về khía cạnh thị trường đã làm cho các công ty được bao cấp
trở nên yếu không thể tồn tại được. Bởi vì trên thị trường các công ty tương tự như
GSEs giao dịch định giá rủi ro hầu hết dựa trên nhận định của GSE, đặc biệt trong mối
quan hệ với chính phủ hơn là cái làm được của các định chế, các nhà làm luật không
thể trông cậy vào quy luật của thị trường đối với các rủi ro hệ thống”.
Khi Fannie Mae và Fredie Mac còn ở quy mô nhỏ, rủi ro chúng có thể gây ra
cho hệ thống tài chính là giới hạn. Từ khi trở thành các định chế tài chính, nhờ tiền của
những người nộp thuế, ngày càng lớn, nó đòi hỏi “sự tăng trưởng theo bề rộng” theo
cách mà chính phủ bao cấp cho vay, các định chế được chính phủ điều tiết, và bị kiểm
15
soát vai trò trên thị trường. Greenspand cảnh báo tình huống đó tồn tại có thể “đe dọa
sự ổn định của Thị trường tài chính” và cũng cắt nghĩa Fannie Mae và Freddie Mac
tạo ra sự tiện lợi cho thị trường thế chấp thông qua hoạt động cho vay của họ là quá
mức so với thông thường
Cuối cùng ông ta lưu ý rằng việc chủ tịch của Freddie Mac trong năm 1989 tuyên bố
trước quốc hội Mỹ rằng có sự bảo hiểm rủi ro các hoạt động của công ty trước khi nó
phát triển rộng ra. Sự thay đổi này sau năm 1989 khi các công ty bị kiểm soát bởi sự sở
hữu của cổ đông tư nhân, những người sử dụng mối quan hệ gần gũi với chính phủ để
mở rộng hoạt động của họ.
Có lẽ sự phê phán mạnh mẽ nhất, đối với các chính sách gây ra khủng hoảng và
chính sách tài chính (mà Greenspan chịu trách nhiệm lớn) khuyến khích dẫn đến gian
lận cho vay từ các nhà quan sát một thị trường thân thiện. Tổng thống tiền nhiệm ứng
cử Ron Paul và nhóm cố vấn thị trường tự do như Viện Cato và Viện Mises đã chỉ
trích mạnh mẽ hành động của Đảng dân chủ cũng như Đảng Cộng hòa thời gian gần
đây.
Trong năm 2005, LewRockwell.com (là một trong những webzines nổi tiếng
với những hồ sơ công bố độc lập và liên kết chặt chẽ với viện M ises) đã công bố bài
diễn văn của Ron Paul trước Quốc hội Hoa kỳ, nơi ông cảnh bảo cuộc khủng hoảng
sắp tới.
“Tôi hy vọng rằng các đồng nghiệp của tôi cùng tôi bảo vệ những người nộp thuế từ
việc phải giải cứu Fannie Mae và Fredie Mac khi bong bóng cho vay mua nhà sụp
đổ”
Các phê bình gay gắt cũng nhắm vào chính quyền Tổng thống Bush và cả hai đảng
Dân chủ và Cộng hòa, các thành viên của Quốc hội về việc đã quá hào phóng trong chi
tiêu tiền đóng thuế của người dân.
Vậy thì, trước khi cuộc khủng hoảng lan rộng, Chủ tịch Cục dự trữ liên bang
Mỹ, cố vấn kinh tế của Tổng thống và một chuyên gia trên thị trường thế chấp phải
đánh giá 1 cách cẩn thận tại sao chính sách chính phủ có thể dẫn đến 1 cuộc khủng
hoảng tài chính và xác định sự kết hợp như thế nào đã mở đường cho lợi nhuận tư
nhân và tổn thất xã hội.Trên thực tế, một sự thay đổi chính trị sẽ tác động hoàn toàn
16
lên những vấn đề được tạo ra bởi một chính sách tiền tệ trợ cấp cho vay kết hợp với sự
can thiệp của chính phủ.
Các chính trị gia sẽ tiến hành các cải cách cần thiết nhưng tất cả đã hoàn hảo.
…Nhưng các nhà chính trị đã bỏ qua những cảnh báo
Trong Nhà trắng, đã sớm có những sự thấu hiểu rằng cách hành xử của Fannie
Mae và Freddie M ac sẽ đưa đến khủng hoảng lớn. M ột bài báo trên tờ N ew York Post
chỉ ra rằng tiền cơ sở năm 2002 mà chính phủ tài trợ cho vay các tổ chức đã lớn đến
mức những vấn đề tài chính của chúng có thể sinh ra những khó khăn to lớn cho toàn
bộ khu vực tài chính.
Trong năm 2003 chính quyền Bush đã cố gắng thuyết phục Quốc hội tạo quyền
giám sát và điều tiết Fannie M ae và Freddie Mac. Kế hoạch đưa ra nhằm kiểm soát
chặt chẽ hơn các tổ chức tín dụng. Nhưng thuế tài chính của các tổ chức này có thể giữ
lại, như một sự bảo đảm ngầm rằng chính phủ có thể can thiệp vào nếu các tổ chức
gặp vấn đề.
Tuy nhiên, Barney Frank, sau đó là Democrat, chủ tịch của Hội đồng Tài chính
Quốc gia đã phản đối những sáng kiến này. Frank tin rằng tình hình tài chính của
Fannie Mae và Freddie Mac cơ bản là đảm bảo và bày tỏ rằng ông ta không thể thấy
một dấu hiệu mất kiểm soát nghiêm trọng nào. “Hai thực thể - Fannie M ae và Freddie
Mac – không đối diện với bất kỳ khủng hoảng tài chính nào”. Frank giải thích. Hơn
nữa ông ta biện dẫn:
“Càng nhiều người thổi phồng những vấn đề này, càng nhiều sức ép lên các công ty
này, tài trợ mua nhà ở mức độ nhỏ hơn chúng ta thấy”
Frank đã nhận được sự ủng hộ từ Rep.Melvin L.Watt (D), người đã tuyên bố:
“Tôi không thấy gì hơn là một ván bài đang tiến hành ở đây, di chuyển từ trung gian
này sang trung gian khác và đang trong quá trình suy yếu quyền lực mặc cả của
những gia đình nghèo và khả năng nhận được tài trợ mua nhà.”
Chín năm qua, có những dấu hiệu cảnh báo rõ ràng khủng hoảng đang đến,
nhưng các phương pháp đo lường được đưa ra bởi chính quyền Bush để hạn chế sự tàn
phá của chính sách được đưa qua kênh Fannie Mae và Freddie Mac đã bị giới hạn
trong việc tạo ra một quyền lực điều tiết mới.
17
Sau đó giải pháp không cơ bản vấn đề bơm tài trợ vào thị trường thế chấp đang
gia tăng sự liều lĩnh 1 cách nguy hiểm, thêm vào việc chính phủ là người bảo lãnh cho
Fannie Mae và Freddie Mac càng thúc đẩy cho vay có rủi ro tăng. Ngay cả một nỗ lực
nhỏ để điều tiết cũng đã bị ngưng lại bởi Quốc hội khi nó gặp phải sự phản đổi của xã
hội vì những hộ gia đình có thu nhập thấp mua nhà dễ dàng hơn.
Một lý do quan trọng nữa giải thích tại sao Fannie Mae và Freddie Mac có thể
tiếp tục làm bất kể rủi ro là sự can thiệp của chính phủ làm gia tăng những rủi ro trên
thị trường thế chấp, những rủi ro này không hoàn toàn là do các chính trị gia tại thời
điểm nền kinh tế Mỹ đang phát triển 1 cách nhanh chóng.
Tuy nhiên Greenspan, chủ tịch của Fed, được Đảng Dân chủ và Đảng Cộng
Hòa đánh giá là một nhà kinh tế xuất sắc, ngay cả khi những nhận xét của ông bị thờ ơ.
Khi nền kinh tế đang vận hành tốt, các nhà chính trị quan tâm nhiều hơn việc đạt được
những mục tiêu chính sách xã hội trong ngắn hạn hơn là ngăn ngừa một cuộc khủng
hoảng tiềm tàng.
Cũng có thể do sự thiếu hiểu biết tầm quan trọng của việc không vận dụng định
lượng các biến rủi ro thị trường, đặc biệt khi có bàn tay tác động của chính phủ làm gia
tăng mạnh mẽ rủi ro.
Cuối cùng, một giải thích quan trọng, đó là Fannie Mea và Freddie Mac là
những tổ chức đã chi tiêu đáng kể ảnh hưởng đến các quyết định của chính trường Mỹ
- ví dụ những tổ chức này đã dẫn đầu trong quyên góp cho chiến dịch tranh cử của
Obama – điều đó có thể giúp giải thích rằng họ có khả năng tăng trưởng bằng những
chính sách đặc biệt và trợ cấp thuế.
Vì vậy việc chính quyền Bush cố gắng kiểm soát Fannie Mac và Freddie Mac
trong năm 2003 bằng những bằng chứng không được làm sáng tỏ là bằng chứng của
rủi ro có thể nhìn thấy trước. Đề xuất cải cách không có sức mạnh hiệu quả và bản
thân Bush cũng thông qua kênh chính sách xã hội để thực hiện sự can thiệp của chính
phủ vào thị trường thế chấp. Trong bài diễn văn có giá trị vào mùa hè năm 2002, Bush
tuyên bố:
“Chúng ta cần hơn 5.5 triệu nhà được sở hữu đến năm 2010- triệu là tối thiểu số nhà
sở hữu đến 2010. (...)Nó sắp đạt mức trung bình nhưng chúng ta phải cố gắng để đạt
18
được mục tiêu, tất cả chúng ta. Và bằng tất cả chúng ta, tôi muốn nói không chỉ là
chính phủ liên bang mà khu vực tư cũng vậy”
26
Khủng hoảng lan rộng, với sự tiếp tay của thị trường tài chính thế giới, từ khu
vực thế chấp nhà của M ỹ đến nhiều tổ chức tài chính khác. Bao gồm các chính phủ
trên thế giới cũng tiếp tay tạo ra khủng hoảng. Nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc với
thặng dư mậu dịch đã mang đến cho chính phủ quỹ dự trữ dồi dào. Sau đó, họ đầu tư
vào các công cụ tài chính Mỹ, đẩy mức cho vay lên cao và thổi phồng bong bóng.
Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đề xuất vào ngày 21 tháng 10 rằng Châu Âu
nên tạo ra nguồn dự trữ dồi dào. Theo đó, chính phủ các nước Châu Âu nên mua các
công ty để tránh sự sở hữu của nước ngoài. Tác hại của sở hữu nước ngoài vẫn còn
không rõ ràng. Nhưng điểm chính là mối bận tâm của chính phủ - như là quỹ dự trữ
dồi dào
– góp phần tạo ra khủng hoảng, điều đó có nghĩa là đòi hỏi cao hơn cũng
không phải là giải pháp. Trước khi thiết lập ra con đường bảo hộ các ngành công
nghiệp trong nước, nên nhớ chính xác là những loại chính sách này tạo ra 1 cuộc suy
thoái trong những năm 30 như thế nào. Và trước khi đưa ra chính sách quốc gia đó nên
bắt đầu cạnh tranh từ các công ty xã hội hóa, một điều nên nhớ là các ông chủ tư nhân
chịu thử thách tốt hơn trong điều hành công ty hơn là chính phủ.
Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản.
Nhiều người cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay là kết quả của tự do
kinh tế . Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã nói ví von rằng cuộc khủng hoảng này
xuất phát việc các nền kinh tế thế giới không được điều tiết hiệu quả, và thời kỳ này sẽ
chấm dứt ngay.
Nhiều nhà quan sát đã khẳng định rằng sau cuộc khủng hoảng này chúng ta nên
đưa ra nhiều quy định hơn, tăng sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, tăng thuế
và từ bỏ ý tưởng thị trường tự do.
Theo biên tập Aftonbladet của tờ nhật báo lớn nhất ở Scandinavia, cuộc khủng
hoảng tài chính hoàn toàn có thể đổ lỗi cho sự tự do kinh tế, và chỉ ra rằng thị trường
tự do cơ bản là không bền vững. Bài báo trích dẫn tác phẩm "Khủng hoảng tài chính
của chủ nghĩa Marx" đã chứng minh quan điểm của hệ tư tưởng đối lập trong việc giải
thích cuộc khủng hoảng.
19
Thực tế là cuộc khủng hoảng ở M ỹ là kết quả của sự can thiệp quá sâu của
chính phủ vào các mục tiêu chính sách xã hội mà phần lớn các chính sách này không
được thảo luận bởi những người coi nó như là một bằng chứng của sự sụp đổ chủ
nghĩa tư bản. Hơn nữa, cơn khủng hoảng này được coi là hậu quả của lòng tham: mọi
thứ ở Mỹ từ chính sách chăm sóc y tế, giáo dục cho đến mức thuế bị cáo buộc là quá
tự do.
Chuyên gia Peter J. Wallison - người mà trong năm 1999 đã nhìn thấy trước
được sự can thiệp của chính phủ vào thị trường thế chấp bất động sản có thể gây ra
một cuộc khủng hoảng trong tương lai, đồn thời viết hai cuốn sách về rủi ro mà đại
diện là những hoạt động của Fannie Mae và Freddie Mac - trao đổi ý kiến với một
đồng nghiệp rằng hoàn toàn là phi lý khi đổ lỗi cuộc khủng hoảng là do thiếu các quy
định.
Trong ba thập kỷ qua đã có sự bãi bỏ các quy định quan trọng của nền kinh tế
Mỹ, nhưng không phải trong lĩnh vực tài chính:
"Hầu như mọi điều luật về tài chính, chẳng hạn như Cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên
bang, Đạo luật Cải cách 1991 - được thông qua sau vụ sụp đổ tiền tiết kiệm và cho vay
ở cuối thập niên 1980 - đã thắt chặt đáng kể các quy định của ngân hàng ".
Nhà bình luận tự do Johan Norberg hỏi trên tờ Swedish daily Expressen:
"Chúng ta không nên bắt đầu một cuộc nghiên cứu hàng chục ngàn trang các quy định
đã tồn tại và những thứ mà 12.190 người đã dành tất cả thời gian chỉ để điều chỉnh thị
trường tài chính ở mức độ liên bang và những gì họ đã làm gì khi xảy ra khủng
hoảng? Và rồi chúng ta sẽ thấy rằng họ đã làm thổi phồng quả bong bóng, ít nhất thì
cũng hăm hở như những người khác. Cái khác biệt duy nhất là họ đã có một “cái bơm”
lớn hơn".
Ngay cả trong thời gian trước cuộc khủng hoảng tài chính, các quy định và sự
can thiệp của Chính phủ được coi như là bằng chứng cho sự thất bại của chủ nghĩa tư
bản. Milton Friedman - người đoạt giải thưởng Nobel - đã giải thích trong một cuốn
sách đồng tác giả với Anna J. Schwartz: bằng cách tạo ra giảm phát thông qua chính
sách tiền tệ, kinh tế đi xuống đã trở thành một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.
20
- Xem thêm -