Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Tiểu luận quản lý nhà nước phân biệt hành chính điều hành và hành chính tài phán...

Tài liệu Tiểu luận quản lý nhà nước phân biệt hành chính điều hành và hành chính tài phán để làm rõ công việc của hành chính nhà nước

.DOC
16
122
122

Mô tả:

Mục lục Lời mở đầu................................................................................................................2 I. Tình huống............................................................................................................3 1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống:...................................................................3 2. Diễn biến của tình huống:.................................................................................3 II. Giải quyết tình huống:........................................................................................8 1. Phân tích xử lý tình huống:..............................................................................8 2. Cơ sở lý luận:.....................................................................................................9 III. Những kiến nghị..............................................................................................13 IV. Kết luận............................................................................................................14 Lời mở đầu Hệ thống hành chính nhà nước là tổng thể các cơ cấu tổ chức và định chế nhà nước có chức năng thực thi quyền hành pháp, quản lý công việc hàng ngày của nhà nước. Nó được tạo thành bởi một hệ thống các pháp nhân có quyền lập quy, có thẩm quyền ra những quyết định hành chính và quản lý điều hành, tổ chức, kiểm tra các tổ chức và các hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước và của công dân. Xét về nội dung công việc của hành chính nhà nước, cần phân biệt rõ hành chính điều hành và hành chính tài phán. Hành chính điều hành thực hiện chức năng quản lý hàng ngày dựa trên các nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, có nhiệm vụ và quyền hạn dự đoán tình hình, ra quyết định về mặt (kế hoạch, chính sách cụ thể, chủ trương, biện pháp, ...), tổ chức chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra. Về mặt pháp luật đó là những văn bản dưới luật để thực hiện chức năng quản lý. Về mặt chính trị là phục tùng và phục vụ chính trị, chấp hành và thực hiện những quyết định mang ý nghĩa chính trị của cơ quan có thẩm quyền. Trong việc thực hiện các chức năng quản lý đó, hành chính điều hành phải thể hiện, giữ gìn, phát huy đầy đủ bản chất của một nhà nước dân chủ, pháp quyền, tôn trọng các quyền con người và quyền công dân đã được quy định trong pháp luật. Mọi sự vi phạm quyền con người và quyền công dân, dưới dạng hành động thực tế, trái với pháp luật nói chung và luật hành chính nói riêng đều xem là hành vi bất hợp pháp. Trong tiểu luận này tôi xin được đưa ra một tình huống để minh hoạ cho nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước Việt nam “phân biệt hành chính điều hành và hành chính tài phán để làm rõ công việc của hành chính nhà nước”. Vì thời gian và trình độ có hạn, tiểu luận này không thể tránh khỏi những hạn chế và sai sót. Rất mong nhận được sự đóng góp và nhận xét chân thành quý báu của các Thầy Cô, các chuyên gia và các bạn học viên, để tôi hoàn thiện hơn tiểu luận này. I. Tình huống 1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống: Xuất phát từ nguyện vọng chung là muốn có điện sinh hoạt, ngày 17 tháng 12 năm 1997 các hộ nông dân thuộc thị trấn Xuân mai, Chương mỹ, Hà Tây, đã thống nhất thành lập Ban điện và cử 5 người có trách nhiệm giao dịch, liên hệ với các cơ quan chức năng và ngành điện lực thuộc khu vực nói trên. Trong ban đại diện có ông Nguyễn Văn Lung làm tổ trưởng và bà Nguyễn Thị Phương làm thủ quỹ, đều trú tại khu Xuân mai, huyện Chương mỹ, tỉnh Hà Tây. Sau khi ban đại diện được thành lập, các xã đã họp và các hộ dân đã tự nguyện đóng góp mỗi hộ 200.000 đồng để Ban điện có kinh phí sử dụng giao dịch, liên hệ với các cơ quan chức năng làm đường dây tải điện sinh hoạt cho các hộ dân. Từ cuối năm 1997 đến năm 1999, các xã nói trên đã thu được số tiền đóng góp tự nguyện của các hộ dân là 42.800.000đồng. Các hộ dân đã nhất trí giao số tiền này cho Ban điện quản lý, sử dụng số tiền trên cho các chi phí trong các quan hệ giao dịch, liên hệ với các cơ quan chức năng để sớm có điện cho hộ dân sử dụng; nếu không thực hiện được thì Ban điện phải hoàn trả 100% số tiền các hộ dân đã đóng góp. Thực hiện cam kết nói trên, Ban điện làm đơn, tờ trình và đã giao dịch, làm việc với các cơ quan chức năng ở địa phương và ngành điện Trung ương để xin xây dựng đường dây tải điện. Do vậy đến dịp tết năm 1999, đường dây điện đã được xây dựng xong, các hộ dân ở hai xã nói trên đã có điện thắp sáng, đáp ứng nguyện vọng của các hộ dân. 2. Diễn biến của tình huống: Đến năm 2000, do khiếu nại của một số người ở hai xã nói trên về việc Ban điện sử dụng số tiền đóng góp của các hộ trong hai xã không đúng nguyên tắc, ngày 05-12-2000, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện Chương mỹ ra Quyết định số 1068/QĐ - CT chuyển hồ sơ vụ khiếu kiện đến Công an huyện Chương mỹ để tiến hành điều tra theo pháp luật. Ngày 12-11-2001, Công An huyện Chương mỹ có Báo cáo kết thúc điều tra số 311 với nội dung: căn cứ vào Quyết định số 94/1998/BTC ngày 30 tháng 06 năm 1998 của Bộ Tài Chính quy định về chế độ công tác phí, Công an huyện Chương mỹ chỉ chấp nhận các khoản chi sau đây theo chế độ công tác phí hiện hành đối với cán bộ, viên chức được cử đi công tác: - Tiền đi lại ngủ nghỉ của hai ông Lung và bà Phương là 10.700.000đồng . - Tiền mở đường để lắp đặt đường dây nhánh là: 12.350.000 đồng Tổng cộng số tiền hai khoản trên là: 23.050.000 đồng. Số tiền còn lại là 19.750.000 đồng, Công An huyện Chương mỹ không chấp nhận vì không có đủ chứng từ hợp lệ theo quy định của Bộ tài Chính. Ngày 22 tháng 8 năm 2001, Công An Huyện Chương mỹ kết hợp với Uỷ Ban nhân dân huyện Chương mỹ tổ chức cuộc họp với các hộ dân thuộc khu Tân xuân. Tại cuộc họp này, đại diện của 210/214 hộ tham gia họp biểu quyết đồng ý không thu hồi khoản tiền 19.750.000 đồng giao cho ông Lung và bà Phương sử dụng để đi liên hệ xây dựng đường dây tải điện, đại diện của 4/214 số hộ tham gia cuộc họp đề nghị thu hồi và xử lý theo pháp luật. Ngày 27 tháng 08 năm 2001, Công An huyện Chương mỹ tiếp tục tổ chức cuộc họp với các hộ dân thuộc hai xã nêu trên. Cũng tại cuộc họp này, 208/214 hộ dân tham gia biểu quyết không thu hồi số tiền đã giao cho ông Lung và bà Phương sử dụng để liên hệ xây dựng đường dây tải điện; đại diện của 2/214 hộ không có ý kiến, đại diện của 4/214 hộ đồng ý thu hồi để xây dựng quỹ của xã. Căn cứ kết quả điều tra và ý kiến của nhân dân hai xã, Công an huyện Chương mỹ kết luận chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Lung và bà Phương nên đã chuyển hồ sơ đến Uỷ ban Nhân dân huyện Chương mỹ để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 02-01-2002, Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ đã ra Quyết định số 01/2002/QĐ-UB thu hồi sung vào ngân sách huyện Chương mỹ để đầu tư xây dựng một số công trình tập thể theo đề nghị của hai xã với tổng số tiền là 19.750.000đồng (là số tiền đóng góp xây dựng đường dây điện của nhân dân hai xa thuộc huyện Chương mỹ) mà hai ông bà Lung và Phương bị kết luận là chi không có chứng từ theo quy định của Bộ Tài chính. Sau khi nhận được quyết định trên của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ ngày 10-01-2002 và ngày 24-01-2002 ông Lung và bà Phương đã làm đơn khiếu nại. Nhưng hết thời gian giải quyết khiếu nại lần đầu mà khiếu nại không được giải quyết, nên vào ngày 15 và 16-05-2002 đã khởi kiện Quyết định số 01/2002/QĐUB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ tại Toà án nhân dân huyện Chương mỹ và Toà án nhân dân huyện Chương mỹ đã thụ lý vụ án. Ngày 22-08-2002, Toà án nhân dân huyện Chương mỹ đã ra Quyết định số 02/QĐ-HC đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân. Ông Lung và bà Phương kháng cáo quyết định đình chỉ nói trên. Tại Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 22-08-2002 Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây đã huỷ Quyết định sơ thẩm số 02/QĐ-HC ngày 22-08-2002 của Toà án nhân dân huyện Chương mỹ và chuyển hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân huyện Chương mỹ để giải quyết lại với lý do: Toà án cấp sơ thẩm đã không xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự ...; lý do để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết không rõ ràng; việc thu thập chứng cứ không đúng nguyên tắc... Ngày 28-11-2002, Tào án nhân dân huyện Chương mỹ ra Quyết định số 03/QĐ-ĐC-HC đình chỉ việc giải quyết vụ án vì Quyết định số 01//2002/QĐ-HC ngày 02-01-2002 không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân. Ông Lung và bà Phương Kháng cáo. Tại Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 Toà án nhân dân tỉnh Hà tây giữ lại quyết định sơ thẩm số 03/QĐ-ĐC-HC ngày 28-11-2002 của Toà án nhân dân huyện Chương mỹ về phần đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính với lý do: “Quyết định số 01/2002/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ bị khởi kiện không phải là loại quyết định thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án”. Ngoài ra, tại quyết định số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 Toà án nhân dân tỉnh Hà tây còn sửa lại quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về án phí đối với Ông Lung và bà Phương. Tại Quyết định số 03/KN-AHC ngày 30-06-2003, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 0201-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Hà tây và đề nghị Toà Hành chính toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng huỷ Quyết định sơ thẩm số 03/QĐ-ĐC-HC ngày 28-11-2002 của Toà án nhân dân huyện Chương mỹ, Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Hà tây, chuyển hồ sơ vụ kiện về cấp sơ thẩm xét xử từ đầu theo thủ tục chung” với các lý do chính sau: Quan hệ tài chính giữa nhân dân hai xã trong việc liên hệ xây dựng đường dây điện với Ban điện là quan hệ dân sự; trường hợp nhân dân tự nguyện đóng góp để liên hệ làm đường điện sinh hoạt của nhân dân khu Tân xuân là việc làm tự nguyện của dân, các hộ không yêu cầu Ông Lung và bà Phương phải nộp lại số tiền đã chi phí. Do vậy, ủa ban nhân dân căn cứ vào Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày 06-04-1999 của Chính Phủ để ra Quyết định số 01/2002/QĐ-UB nagỳ 02-01-2002 để thu hồi vào ngân sách huyện khoản tiền 19.750.000đồng mà Ông Lung và bà Phương chi không có hoá đơn chứng từ là không đúng pháp luật, cần xem xét huỷ quyết định trên. Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh là thu hồi tài sản. Tuy về từ ngữ trong quyết định hành chính và điều luật có khác nhau nhưng về nội dung của việc thu hồi sung ngân sách huyện là giống nhau. Vì chỉ có tịch thu tài sản mới sung công quỹ. Do vậy quyết định của Uỷ ban nhân dân về thu hồi số tiền 19.750.000đồng là mà Ông Lung và bà Phương chi phí là quyết định hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân theo quy định tại (khoản 7 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính). Toà án nhân dân Tỉnh Hà tây ra Quyết định phúc thẩm số 01/ QĐ-PT-HC ngày 02-012003 giữ nguyên quyết định sơ thẩm trên vì cả hai cấp đều cho rằng quyết định hành chính số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân là không đúng pháp luật. Tại quyết định số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003 Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Toà hành chính tối cao đã quyết định: Bác kháng nghị số 03/KN-AHC ngày 30-06-2003 của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên Quyết định hành chính phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 của án nhân dân tỉnh Hà tây. Tại Quyết định số 09/KH-AHC ngày 25-11-20003 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định số 01/QĐ-PT-HC ngày 06-08-2003 của Hội đồng xét xử Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử huỷ các quyết định của cấp xét xử cơ thẩm, xét xử phúc thẩm và quyết định giám đốc thẩm nêu trên của Hội đồng xét xử Toà án nhân dân tối cao để chuyển hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục chung với các lý do chính như sau: Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ áp dụng Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày 16-04-1999 của Chính Phủ để ra Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-022002 để thu hồi 19.750.000 đồng sung vào ngân sách của huyện Chương mỹ mà Ông Lung và bà Phương đã chi không đúng pháp luật và can thiệp quá sâu vào vào quan hệ dân sự giữa Ban điện và các hộ dân. Xét về thẩm quyền: Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ là thu hồi tài sản. Tuy về từ ngữ dùng trong quyết định hành chính trên đều có và điều luật có khác nhau nhưng về nội dung của việc thu hồi lại sung ngân sách huyện là tịch thu tài sản. Vì trong thực tế có tịch thu tài sản mới có sung công quỹ, còn thu hồi tài sản thì phải trả cho người có quyền sở hữu. Trong trường hợp vụ việc này, Uỷ ban nhân dân Chương mỹ không đầu tư bằng nguồn ngân sách cho nhân dân liên hệ xin đường điện, mà nhân dân tự nguyện đóng góp nên. Do đó, chính các hộ dân mới là người định đoạt số tiền mà họ đã giao cho Ban điện chứ không phải Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ. Vậy Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ thực chất là quyết định tịch thu tài sản của ông Lung và bà Phương có được từ việc thảo thuận của các hộ dân. Do vậy, Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ là quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại khoản 7 điều 11, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Tại quyết định số 02/2004/HĐTP-HC ngày 27-03-2004 của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao đã quyết định: bác kháng nghị số 09/KN-AHC của Viện trưởng Viện liểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên quyết định giám đốc thẩm số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003 của Toà Hành chính. II. Giải quyết tình huống: 1. Phân tích xử lý tình huống: Theo Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ là quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về hình thức (tiêu đề) của Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 0201-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ thì đây là quyết định về việc thu hồi tiền đóng góp làm đường điện cho Thị trấn Xuân mai, chi sai mục đích sung vào ngân sách huyện Chương mỹ” Còn nội dung của quyết định là “thu hồi sung vào ngân sách huyện khoản tiền mà Ông Lung và bà Phương chi sai mục đích không có chứng từ hợp pháp (từ nguồn đóng góp xây dựng đường điện của nhân dân Thị trấn Xuân mai) là 19.750.000 đồng để đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo đề nghị của hai xã nói trên. Như vậy xét về cả hình thức và nội dung thì Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ không phải quyết định tịch thu tài sản (của ông Lung và bà Phương) nên việc khiếu kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính. Số tiền trên không phải là tài sản riêng của Ông Lung và bà Phương mà là tiền của nhân dân hai xã đóng góp mà có và tự nguyện giao cho Ban điện để liên hệ làm đường điện cho hai xã nói trên. Ông Lung và bà Phương chỉ được giao quản lý, sử dụng số tiền tiền này. Vì vậy, nếu người có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định Ông Lung và bà Phương chi tiêu số tiền trên không đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc các ông này nộp lại (thu hồi lại), số tiền trên. Trong trường hợp này, Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ đã quyết định thu hồi lại số tiền 19.750.000 đồng, mà Uỷ ban nhân dân huyện cho rằng Ông Lung và bà Phương chi không đủ chứng từ hợp pháp, sung vào ngân sách huyện để đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo yêu cầu của hai xã nói trên. Vì vậy không thể đồng nhất khái niệm thu hồi tài sản với khái niệm tịch thu tài sản đối với số tiền nói trên với lý do “thu hồi sung vào ngân sách huyện” có nghĩa là tịch thu tài sản. Toà án nhân dân huyện Chương mỹ (tại quyết định hành chính sơ thẩm số 03/QĐ-ĐC-HC ngày 28-11-2002); Toà án nhân dân tỉnh Hà tây (tại quyết định hành chính phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003) và Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao (tại Quyết định số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003) đã căn cứ vào điểm g, khoản 1 Điều 41 Pháp lênh Thủ tục giải quyết các vụ án để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của Ông Lung và bà Phương đối với Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà bằng vụ án hành chính là có căn cứ và đúng pháp luật. Như vậy, Ông Lung và bà Phương chỉ là những người được giao quản lý và sử dụng tiền. Do đó nếu người có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định Ông Lung và Bà Phương chi tiêu số tiền này mà không đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc ông Lung và bà Phương nộp lại số tiền trên. Việc Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao đã ra quyết định số 01/GĐTHC ngày 06-08-2003 đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của Ông Lung và bà Phương không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính là có căn cứ và đúng pháp luật. 2. Cơ sở lý luận: Nhà nước, xét về mặt bản chất, là tổ chức quyền lực chính trị, có tính giai cấp, thực hiện chức năng giai cấp. Thông qua nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được hợp pháp hoá thành ý chí nhà nước. Thông qua nhà nước, giai cấp hoặc liên minh giai cấp thực hiện sự thống trị xã hội trên các mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng.Bản chất giai cấp của nhà nước cũng được thể hiện thông qua các quan hệ đối ngoại. Bộ máy nhà nước ta là hệ thống, thống nhất các cơ quan quyền lực nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc chung thống nhất, nhằm thực hiện chức năng, niệm vụ chung của nhà nước. Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, là quản lý công việc của Nhà nước. Do đó quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do các cơ quan trong hệ thống Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, nhằm duy trì phát triển cao các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, thoả mãn nhu cầu hợp pháp của con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hệ thống hành chính nhà nước là tổng thể các cơ cấu tổ chức và định chế nhà nước có chức năng thực thi quyền hành pháp, quản lý công việc hàng ngày của nhà nước. Nó được tạo thành bởi một hệ thống các pháp nhân có quyền lập quy, có thẩm quyền ra những quyết định hành chính và quản lý điều hành, tổ chức, kiểm tra các tổ chức và các hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước và của công dân. Xét về nội dung công việc của hành chính nhà nước. Pháp luật công nói chung và luật hành chính nói riêng mang tính một chiều, không bình đẳng giữa hai bên: một bên là cơ quan nhà nước hay chức trách nắm công quyền và một bên là công dân, có quyền và nghĩa vụ được ghi trong Hiến Pháp và pháp luật, phải tuân thủ pháp luật và chịu sự quản lý của cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác, cơ quan hành chính nhà nước sinh ra để phục vụ dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Để đảm bảo tính dân chủ cao của nền hành chính và xét xử kịp thời những vi phạm pháp luật hành chính của các cơ quan, các công chức hành chính đối với công dân, sự ra đời của tài phán hành chính chính là một tất yếu khách quan. Tài phán hành chính ở nước ta hiện nay có những đặc điểm của tài phán hành chính nói chung vừa phản ánh những nét đặc thù phù hợp với bản chất và đặc tính của nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam: - Tài phán hành chính là tổ chức hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính phát sinh khi có đơn khởi kiện vụ án hành chính giữa cơ quan công quyền và công dân, tổ chức. - Hoạt động tài phán hành chính phải tuân theo trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng hành chính quy định chứ không phải tuân theo thủ tục hành chính. - Cơ quan tài phán hành chính ở nước ta là Toà hành chính thuộc hệ thống tào án nhân dân. - Đối tượng của tài phán hành chính ở nước ta là các quyết định hành chính bị công dân khởi kiện sau khi được cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục hành chính nhưng không thoả mãn yêu cầu của họ. - Bên bị khởi kiện trong vụ án hành chính luôn là cơ quan nhà nước hoặc cán bộ công chức nhà nước. Thẩm quyền xét xử hành chính của toà án: Tại Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được sửa đổi bổ sung thì thẩm quyền giải quyết các vúan hành chính như sau: - Khiếu kiện quyết định xử phạt hành chính; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp tháo dỡ nhà ở, công trình, vật liệu kiến trúc kiên cố khác; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng; cơ sở giáo dục ... - Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống. - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất kinh doanh. - Khiếu kiện hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng thu, trưng mua, tịch thu tài sản; - Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu phí, lệ phí; - Các khiếu kiện khác theo quy định pháp luật. Như vậy, áp dụng vào tình huống nêu trên ta thấy: Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ là quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về hình thức (tiêu đề) của Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ thì đây là quyết định về việc thu hồi tiền đóng góp làm đường điện cho Thị trấn Xuân mai chi sai mục đích sung vào ngân sách huyện Hà tây” Còn nội dung của quýêt định là “thu hồi sung vào ngân sách huyện khoản tiền mà Ông Lung và bà Phương chi sai mục đích không có chứng từ hợp pháp (từ nguồn đóng góp xây dựng đường điện của nhân dân Thị trấn Xuân mai) là 19.750.000 đồng để đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo đề nghị của hai xã nói trên. Như vậy xét về cả hình thức và nội dung thì Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ không phải quyết định tịch thu tài sản (của ông Lung và bà Phương) nên việc khiếu kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính. Số tiền trên không phải là tài sản riêng của Ông Lung và bà Phương mà là tiền của nhân dân hai xã đóng góp mà có và tự nguyện giao cho Ban điện để liên hệ làm đường điện cho hai xã nói trên. Ông Lung và bà Phương chỉ được giao quản lý, sử dụng số tiền tiền này. Vì vậy, nếu người có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định Ông Lung và bà Phương chi tiêu số tiền trên không đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc các ông này nộp lại (thu hồi lại), số tiền trên. Trong trường hợp này, Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ đã quyết định thu hồi lại số tiền 19.750.000 đồng, mà Uỷ ban nhân dân huyện cho rằng Ông Lung và bà Phương chi không đủ chứng từ hợp pháp, sung vào ngân sách huyện để đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo yêu câud của hai xã nói trên. Vì vậy không thể đồng nhất khái niệm thu hồi tài sản với khái niệm tịch thu tài sản đối với số tiền nói trên với lý do “thu hồi sung vào ngân sách huyện” có nghĩa là tịch thu tài sản. Toà án nhân dân huyện Chương mỹ (tại quyết định hành chính sơ thẩm số 03/QĐ-ĐC-HC ngày 28-11-2002); Toà án nhân dân tỉnh Hà tây (tại quyết định hành chính phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003) và Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao (tại Quyết định số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003) đã căn cứ vào điểm g, khoản 1 Điều 41 Pháp lênh Thủ tục gải quyết các vụ án để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của Ông Lung và bà Phương đối với Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 Uỷ ban nhân dân huyện Chương mỹ không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà bằng vụ án hành chính là có căn cứ và đúng pháp luật. III. Những kiến nghị Để khắc phục những hạn chế nêu trên, tôi xin được đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước: 1. Hoàn thiện hơn hệ thống thể chế hành chính, cơ chế chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính. 2. Xoá bỏ về cơ bản các thủ tục mang tính rườm rà, quan liêu, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân. 3. Xác định và thực hiện được các quy định mới về phân cấp quản lý hành chính giữa Nhà nước giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương. 4. Đào tạo, lựa chọn, sử dụng đội ngũ công chức có chất lượng, cơ cấu hợp lý chuyên nghiệp, hiện đại. Cán bộ, công chức phải có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân. 5. Nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động tài phán hành chính để bảo vệ hoặc phục hồi quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước. Kết luận Nền hành chính nhà nước là bộ phận trọng yếu của hệ thống chính trị của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong xã hội. Quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện quan trọng và tập trung nhất của toàn bộ hoạt động của nhà nước trong qua trình phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Đối tượng quản lý hành chính nhà nước là toàn dân, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, tinh thần, tư tưởng,... Chính vì tầm quan trọng đó đã đòi hỏi phải cải cách nền hành chính nhà nước. Đó không chỉ là sự đòi hỏi từ bên ngoài đối với nền hành chính nhà nước mà còn là sự đòi hỏi của chính bản thân nền hành chính. Đó cũng chính là cách thức làm cho bộ máy hành chính nhà nước hoạt động có hiệu quả, nhằm xây dựng nền hành chính đáp ứng đòi hỏi của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững với các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Chương trình cải cách tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 ban hành kèm theo Quyết định số 136/QĐ-TTG ngày 17-09-2001 của Thủ tướng Chính Phủ đã đưa ra mục tiêu chung là: xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo cuả Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Theo quyết định số 94/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 4 năm 2006 phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2006-2010 cũng có nội dung cải cách như: cải cách về thể chế, cải cách về tổ chức, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công, hiện đại hoá nền hành chính nhà nước... Tuy nhiên, dù bằng bất cứ hình thức hay phương pháp nào cũng đều nhằm mục đích làm cho bộ máy hành chính nhà nước hoạt động có hiệu quả, nhằm xây dựng nền hành chính đáp ứng đòi hỏi của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững với các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Do phạm vi của tiểu luận rất rộng lớn và phức tạp, trình độ nhận thức cũng như về thời gian còn hạn chế, mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự đóng góp và nhận xét chân thành quý báu của các Thầy Cô và các bạn học viên, tiểu luận này hoàn thiện hơn. Cũng thông qua tiểu luận luận này, xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các Thày cô, các bộ phận quản lý đào tạo của Học Viện Hành chính Quốc gia cũng như của Trường Đại học Lâm nghiệp đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành khoá học.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan