Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận quan điểm của đảng ta về vị trí, vai trò (2)...

Tài liệu Tiểu luận quan điểm của đảng ta về vị trí, vai trò (2)

.DOC
41
706
79

Mô tả:

Tiểu luận quan điểm của đảng ta về vị trí, vai trò
Häc viÖn chÝnh trÞ-hµnh chÝnh quèc gia hå chÝ minh Häc viÖn x©y dùng ®¶ng TIÓU LUËN MÔN : CÔNG TÁC kiÓm tra, gi¸m s¸t cña ®¶ng §Ò tµi: Quan điểm của Đảng ta về vị trí, vai trò và những biện pháp tiến hành công tác kiểm tra, giám sát của Đảng từ Đại hội II đến nay Häc viªn Líp : : Chuyªn ngµnh : Xây dựng ĐCSVN ~ Hà Nội, 11/2011 ~ Häc viÖn chÝnh trÞ-hµnh chÝnh quèc gia hå chÝ minh Häc viÖn x©y dùng ®¶ng TIÓU LUËN MÔN : CÔNG TÁC kiÓm tra, gi¸m s¸t cña ®¶ng §Ò tµi: Quan ®iÓm cña §¶ng ta vÒ vÞ trÝ, vai trß vµ nh÷ng biÖn ph¸p tiÕn hµnh c«ng t¸c kiÓm tra, gi¸m s¸t cña §¶ng tõ §¹i héi II ®Õn nay Häc viªn Líp : : Chuyªn ngµnh : Xây dựng ĐCSVN ~ Hà Nội, 11/2011 ~ MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU NéI DUNG Trang 4 6 I. Quan ®iÓm cña §¶ng ta vÒ vÞ trÝ, vai trß c«ng t¸c kiÓm tra, gi¸m s¸t cña §¶ng tõ §¹i héi II ®Õn nay. 6 1. Khái niệm kiÓm tra, gi¸m s¸t cña §¶ng 6 9 2. VÞ trÝ, vai trß c«ng t¸c kiÓm tra, gi¸m s¸t cña §¶ng II. BiÖn ph¸p tiến hµnh c«ng t¸c kiÓm tra, gi¸m s¸t cña §¶ng tõ §¹i héi II ®Õn nay 20 KẾT LUẬN 35 38 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU Công tác kiểm tra, giám sát là nhu cầu cần thiết đối với hoạt động của con người và đối với mọi tổ chức. Quá trình hình thành, hoạt động và phát triển của một tổ chức đòi hỏi phải thực hiện công tác kiểm tra, giám sát để xác định mục đích hoạt động đúng đắn, sự tuân thủ nguyên tắc, chấp hành nội quy, quy định của các thành viên gắn kết trong một tập thể. Thông qua kiểm tra, giám sát để kịp thời chấn chỉnh, bổ sung thúc đẩy quá trình hoạt động theo chiều hướng phát triển của tổ chức. Đặc biệt đối với tổ chức Đảng, công tác kiểm tra, giám sát là một khâu quan trọng trong quy trình lãnh đạo của Đảng, là những chức năng lãnh đạo của Đảng, là một bộ phận quan trọng của công tác xây dựng đảng. Kiểm tra, giám sát được tiến hành thường xuyên, đúng nguyên tắc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, các nghị quyết của Đảng được xác định đúng đắn, ngày càng hoàn thiện và chấp hành triệt để, thực sự gắn liền với cuộc sống. Kiểm tra, giám sát vừa góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, làm cho sự lãnh đạo gắn với thực tiễn hơn, vừa đảm bảo sự thống nhất tuyệt đối giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời nói với việc làm, giúp cho các cấp ủy Đảng khắc phục được bệnh quan liêu, chủ quan duy ý chí trong quá trình lãnh đạo. Nếu Đảng làm tốt công tác kiểm tra, giám sát sẽ ngăn chặn được sự chia rẽ, tình trạng mất đoàn kết, các biểu hiện vô tổ chức, vô kỷ luật và đảm bảo cho nguyên tắc tập trung dân chủ được tuân thủ nghiêm túc, góp phần giáo dục, bảo vệ, nâng cao uy tín đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong tiến tình cách mạng của Đảng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát. Khi Đảng lãnh đạo cách mạng giành được chính quyền và trở thành đảng cầm quyền thì công tác kiểm tra, giám sát lại càng được coi trọng hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Khi đã có chính sách đúng, sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”. [16, tr. 520] Các văn kiện của Đảng ta từ Đại hội II (1951) đến nay, mặc dù đề cập công tác kiểm tra, giám sát ở góc độ này hay góc độ khác, nhưng tựu trung lại đều khẳng định vị trí, vai trò hết sức to lớn của công tác kiểm tra, giám sát trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Không những chỉ trong văn kiện, Điều lệ đảng mà ngay cả trong hoạt động thực tiễn của các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở đều xác định rõ vị trí, vai trò quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Để phát huy vai trò, tác dụng kiểm tra, giám sát trong từng thời kỳ, tùy theo tình hình, yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng mà Đảng ta đề ra những quan điểm, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp trong chỉ đạo toàn Đảng tiến hành công tác kiểm tra, giám sát nhằm làm cho công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng ngày càng được đổi mới, hoàn thiện, phù hợp, nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả đáp ứng được yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Trong giai đoạn hiện nay, đứng trước những yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công tác xây dựng đảng bên cạnh những kết quả đạt được còn bộc lộ những mặt hạn chế yếu kém, chưa ngang tầm với yêu cầu của thời kỳ mới. Trong đó, chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp còn nhiều hạn chế, bất cập, do nhiều tổ chức đảng vẫn còn nhận thức chưa đầy đủ vai trò, vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, nhất là trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát theo các quy định của Đảng và trong việc thực hiện chức năng tham mưu về cấp ủy về kiểm tra, giám sát. Từ thực tế đó, cùng với việc tự đổi mới, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phải đồng thời tiến hành nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Chính vì vậy, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương 5 khóa X của Đảng, việc tuyên truyền, học tập, nghiên cứu, nắm vững và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là vấn đề được các cấp, các ngành và cán bộ, đảng viên quan tâm và công tác kiểm tra, giám sát ngày càng giữ vị trí, vai trò quan trọng trong công tác xây dựng đảng. NỘI DUNG I. Quan điểm của Đảng ta về vị trí, vai trò công tác kiểm tra, giám sát của Đảng từ Đại hội II đến nay. 1.1.Khái niệm kiểm tra, giám sát trong Đảng: 1.1.1. Khái niệm kiểm tra Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Kiểm tra là xem xét thực chất, thực tế; kiểm soát là kiểm tra, xem xét nhằm ngăn ngừa những sai phạm các quy định” [2, tr. 937] – tài liệu kiểm tra. Còn theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Kiểm tra (luật) là một chức năng quản lý, một khâu trong quy trình quản lý, có chức năng xem xét tình hình và kết quả thực tế thi hành pháp luật, chính sách, chủ trương của Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội được giao”. [3, tr. 565] Theo Từ điển Luật học: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét; kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn ngừa việc làm sai trái với thỏa thuận, với quy định”. [4, tr. 264] Ngoài ra, kiểm tra cũng là công tác thuộc nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên đối với cấp dưới, của thủ trưởng đối với nhân viên. Việc đánh giá, xác định, nhận xét đúng, sai, tốt, xấu…phải được căn cứ vào những tiêu chí, văn bản có giá trị hiện hành so với thực tế cụ thể của đối tượng kiểm tra. Từ cách hiểu về khái niệm kiểm tra nói trên, có thể nhận định khái niệm công tác kiểm tra của Đảng như sau: Công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động của Đảng, được tiến hành đối với tổ chức đảng và đảng viên, nhằm nắm vững tình hình; nhận xét, đánh giá việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, các quy định, quyết định của Đảng; xác định sự đúng đắn hay vi phạm của các hành vi có liên quan đến kỷ cương, kỷ luật của Đảng và đưa ra hình thức xử lý kịp thời, đúng đắn. 1.1.2. Khái niệm giám sát: Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Giám sát là theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ”. [2, tr.728] Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Giám sát là một hình thức hoạt động của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nhằm bảo đảm pháp chế hoặc sự chấp hành những quy tắc chung nào đó”. [3, tr.112] Trong Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính [5, tr.261] và Từ điển Luật học [4, tr.174]: “Giám sát còn được hiểu là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh”. Mặc dù mỗi cách diễn đạt có sự khác nhau, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở điểm giám sát là sự theo dõi, quan sát, xem xét hoạt động. Từ sự phân tích đó, chúng ta có thể hiểu giám sát là hoạt động theo dõi, quan sát, xem xét hoạt động của các tổ chức có thẩm quyền mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để bắt buộc và hướng các hoạt động của các tổ chức và cá nhân chịu sự giám sát thực hiện đúng những điều đã quy định. Đối với Đảng, giám sát của Đảng là việc các cấp ủy, tổ chức Đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Công tác giám sát là nhiệm vụ của toàn Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ giám sát theo quy định. Tổ chức đảng cấp trên được giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; đảng viên được tham gia giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền. Giám sát là theo dõi, xem xét đối tượng có thực hiện đúng các quy định mà đối tượng đó phải thực hiện hay không để trước hết nhằm nhắc nhở, đôn đốc thực hiện và là cơ sở để quyết định có tiến hành kiểm tra hay không. Muốn thực hiện tốt công tác kiểm tra thì phải thường xuyên có giám sát. Vậy là, kiểm tra và giám sát có mối quan hệ chặt chẽ nhau và khái niệm của chúng cũng có điểm tương đồng. Vì vậy, để hiểu rõ hơn khái niệm chúng ta cần phân biệt rõ những điểm giống và khác nhau giữa kiểm tra và giám sát. Kiểm tra và giám sát có điểm giống nhau ở chỗ đều là công việc nội bộ Đảng do cấp ủy, tổ chức đảng và Ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện; đều nhằm đạt được mục đích là nắm vững và đánh giá đúng thực trạng tình hình, từ đó để phòng ngừa, điều chỉnh, uốn nắn mọi hành vi liên quan của đối tượng được kiểm tra, giám sát, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vị chính trị và công tác xây dựng đảng; đều có nội dung như nhau – việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Về điểm khác nhau: Giám sát được tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình hoạt động và phát triển của tổ chức và cá nhân, nên có nội dung rất rộng, bao gồm: giám sát về sinh hoạt, đạo đức, lối sống; giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao, việc thực hiện các quy định, quy chế…nên giám sát mang tính chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm nhiều hơn so với kiểm tra. Về sự khác nhau; trước hết là đối tượng, chủ thể kiểm tra rộng hơn chủ thể giám sát, tổ chức đảng và đảng viên vừa là chủ thể kiểm tra vừa là đối tượng kiểm tra. Đối với giám sát, đảng viên chỉ là đối tượng giám sát và chỉ được tham gia giám sát khi được tổ chức đảng có thẩm quyền phân công. Đối tượng giám sát rộng hơn đối tượng kiểm tra, vì bao gồm cả thường trực cấp ủy, các tiểu ban, hội đồng, tổ công tác do cấp ủy các cấp đề ra. Về phương pháp và hình thức: giám sát không đi sâu thẩm tra, xác minh, không xem xét thi hành kỷ luật như một cuộc kiểm tra. Thông qua quan sát, theo dõi để phát hiện vấn đề, phản ánh với tổ chức đảng và cá nhân nhằm kịp thời cảnh báo, ngăn ngừa, tránh để xảy ra vi phạm. Còn đối với kiểm tra, đó là sự tiến hành theo quy trình, coi trọng thẩm tra, xác minh; sau kiểm tra có kết luận cuộc kiểm tra, có đánh giá, nhận xét ưu khuyết điểm, vi phạm (nếu có) và xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên (nếu có vi phạm đến mức phải xử lý). Vậy, xét về nội hàm, “giám sát” rộng hơn “kiểm tra”, “kiểm soát”; trong hoạt động giám sát đã bao hàm cả hoạt động kiểm tra và kiểm soát. 1.2. Vị trí, vai trò công tác kiểm tra, giám sát của Đảng: Trên cơ sở quán triệt các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát, trong quá trình 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và nhận thức đúng đắn rằng: kiểm tra, giám sát là công việc không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo và quản lý, diễn ra trong tất cả các khâu, các quy trình lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Chúng ta có thể nhấn mạnh rằng không có kiểm tra, giám sát thì coi như không có sự lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của Đảng. Từ đó đã khẳng định vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của kiểm tra, giám sát. Kiểm tra, giám sát là một tất yếu khách quan, là một biểu hiện nghiêm túc của hoạt động có ý thức của mọi tổ chức nói chung và của Đảng Cộng sản nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ vai trò của kiểm tra, giám sát: “Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn “pha”. Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra” [16, tr.521]. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng gắn liền với sự trưởng thành và phát triển của Đảng. Trong Mục V, Điều lệ vắn tắt tại Hội nghị thành lập Đảng năm 1930 đã đề cập đến kiểm tra, giám sát bằng cụm từ “điều tra các việc” và quy định: “… Trách nhiệm của đảng viên và các đảng bộ là giữ kỷ luật Đảng một cách rất nghiêm khắc. Tất cả đảng viên đều phải chấp hành các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, của đảng đại hội, của Trung ương và thượng cấp cơ quan… Đối với vấn đề phạm kỷ luật thì do toàn bộ chi bộ hoặc các cấp đảng bộ tra xét. Các cấp ủy viên có thể đặt ra, đặc biệt ủy viên để tra xét những vấn đề phạm kỷ luật của đảng…” [17, tr. 126 – 127]. Trong Nghị quyết chính trị của Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng năm 1935 đã khẳng định: “Cần giữ kỷ luật sắt cho Đảng, những phần tử đi trái đường lối chính trị chung của Đảng, của Quốc tế Cộng sản mà không chịu sửa lỗi, những kẻ không phục tùng nghị quyết, điều lệ, phá hoại kỷ luật của Đảng thì nhất thiết phải khai trừ” [18, tr.25]. Muốn giữ gìn kỷ luật sắt thì cần phải thực hiện tốt kiểm tra, giám sát. Trong giai đoạn này, mặc dù Đảng ta chưa lập bộ máy cơ quan kiểm tra chuyên trách nhưng Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng, quan tâm theo dõi, trực tiếp chỉ đạo chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát. Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là Ban Thường vụ Trung ương đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát. Cấp ủy các cấp trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Phải nghiêm ngặt kiểm tra, các địa phương phải kiên quyết thực hành những nghị quyết của Đảng. Kiên quyết chống lại cái thói nghị quyết một đường, thi hành một nẻo”[18, tr.267]. Bác còn chỉ rõ kiểm tra, giám sát muốn đạt kết quả tốt thì phải kiểm soát có hệ thống, phải thường làm, tiến hành từ trên xuống, từ dưới lên; người đi kiểm soát phải là người rất có uy tín. Thời kỳ đầu này, vị trí, vai trò kiểm tra, giám sát của Đảng chưa được thể hiện rõ nhưng cũng được đánh dấu bằng một sự kiện quan trọng vào ngày 16/10/1948, Ban kiểm tra Trung ương được thành lập – cơ quan kiểm tra chuyên trách của Đảng. Sự ra đời này đã đảm bảo cho mọi việc của Đảng được thấu suốt từ trên xuống, chính sách của Đảng được thực thi đầy đủ và cũng khẳng định được rằng Đảng ta quan tâm hơn đến vị trí, vai trò của kiểm tra, giám sát. Từ sự ra đời của Ban kiểm tra Trung ương, Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II thông qua: “Ban chấp Trung ương, các xứ ủy, khu ủy (hoặc liên khu ủy), thành ủy, tỉnh ủy phải cử ra một số ủy viên lập thành ban kiểm tra của cấp mình”. Đại hội Đảng đã xác định công tác kiểm tra là một mặt của công tác xây dựng Đảng do đó chỉ đạo thành lập ban kiểm tra các cấp để làm tham mưu cho cấp ủy về kiểm tra quá trình hoạt động của Đảng ở các cấp đó. Kiểm tra là cơ sở để các cấp ủy sâu sát tình hình thực tế, điều đó có nghĩa là lãnh đạo phải gắn với kiểm tra, không có kiểm tra coi như là không có sự lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [16, tr. 520]. Theo Bác, kiểm tra, giám sát đã trở thành một trong ba nội dung quan trọng để đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn giúp Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo. Qua kiểm tra, giám sát giúp Đảng nắm được tình hình tổ chức, thực hiện và kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những sai lầm, thiếu sót. Trong Chỉ thị số 108/CT – BBT ngày 15 tháng 10 năm 1958 đã phát triển thêm một bước về vị trí, vai trò của công tác kiểm tra. Đảng ta khẳng định: “Công tác kiểm tra là một trong những công tác lãnh đạo chủ yếu không thể buông lỏng”. Từ quan điểm này cho chúng ta thấy rằng kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, là bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng đảng. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960), Đảng ta đã yêu cầu phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng để giữ gìn kỷ cương, kỷ luật của Đảng, tăng cường bảo vệ Đảng và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong Báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ Đảng của Ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam, Đảng đã xác định: “Phải tăng cường kiểm và giám sát của Đảng đối với cán bộ và cơ quan Nhà nước, giữ gìn kỷ luật nghiêm minh, xử lý thích đáng đối với những phần tử quan liêu gây tác hại nghiêm trọng cho Đảng và Nhà nước” [20, tr.703] và yêu cầu: “Muốn lãnh đạo tốt, tổ chức cơ sở của Đảng còn phải tăng cường việc kiểm tra, xem xét công tác của tổ chức chính quyền và của tổ chức quần chúng trong mọi mặt trong công tác của đơn vị cơ sở, đặc biệt là công tác sản xuất và chuyên môn, để kịp thời phát hiện những khuyết điểm và khó khăn mà có chủ trương uốn nắn và khắc phục, kịp thời phát hiện những kinh nghiệm thành công hoặc thất bại mà bồi bổ cho công tác lãnh đạo của mình. Lãnh đạo mà không kiểm tra thì lãnh đạo sẽ trở thành quan liêu” [3, tr.87]. Đây có thể được xem là một bước phát triển của công tác kiểm tra, giám sát. Công tác kiểm tra, giám sát đã trở thành khâu rất quan trọng vì nó là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng, tổ chức đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền thì hơn bao giờ hết Đảng cần phải quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát. Trong Chỉ thị số 38/CT – BBT ngày 10 tháng 01 năm 1962 đã xác định: “Nếu không làm tốt công tác kiểm tra, thì không những kỷ luật của Đảng lỏng lẻo, ảnh hưởng đến đoàn kết nhất trí trong Đảng, mà còn hạn chế sức chiến đấu của Đảng, ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng”. Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ, trong điều kiện Đảng cầm quyền dễ dẫn đến tình trạng thoái hóa, biến chất, quan liêu, hủ hóa, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hách dịch, tham nhũng, hối lộ… nếu thiếu tu dưỡng, rèn luyện nên Đảng ta cảnh báo: Muốn tích cực bảo vệ cán bộ thì cần phải kiểm tra. Trong điều kiện Đảng cầm quyền với vai trò lãnh đạo toàn diện, Đảng không chỉ tiến hành kiểm tra, giám sát trong phạm vi tổ chức Đảng mà còn tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức chính quyền, nhà nước và các tổ chức đoàn thể quần chúng, kể cả việc kiểm tra trên lĩnh vực kinh tế, sản xuất, kinh doanh…Đảng còn nhấn mạnh công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải được tiến hành thường xuyên bằng nhiều biện pháp và đây là một công tác khó khăn phức tạp. Tại các Đại hội IV, V, VI, VII của Đảng, thời kỳ Đảng lãnh đạo xây dựng CNXH trong điều kiện đất nước đã thống nhất và từng bước thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng và Nhà nước. Đây là một nội dung không thể thiếu được để thực hiện vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử của mình trước giai cấp và dân tộc là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản, xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Thêm vào đó, có quan tâm tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát mới góp phần thiết thực và có hiệu quả vào việc phòng ngừa, khắc phục những nguy cơ có thể nảy sinh của Đảng cầm quyền. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, trong Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng đã chỉ ra vị trí. vai trò của công tác kiểm tra của Đảng trong tình hình mới: “Để tăng cường kỷ luật và giữ gìn sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng, cần đặc biệt coi trọng việc tăng cường công tác kiểm tra của Đảng” [4, tr. 123]. Qua đó cho chúng ta thấy rằng Đảng đã xác định tính chất đặc biệt của công tác kiểm tra và đòi hỏi phải có sự quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra. Tuy trong Điều lệ Đảng và các văn kiện của Đảng ít nói trực tiếp giám sát nhưng thực tế các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra vẫn kết hợp tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Giai đoạn này, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát được khẳng định trong việc hình thành cơ chế, lề lối làm việc. Bởi vì, qua kiểm tra sẽ giúp cho cấp ủy các cấp chấn chỉnh, uốn nắn cơ chế, lề lối làm việc của mình có hiệu quả hơn, đó là một trong những điều kiện góp phần phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Văn kiện Đảng đã khẳng định tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát: “Qua công tác kiểm tra, phải rút ra những kinh nghiệm để xây dựng thành các chế độ công tác nhằm phát huy ưu điểm, ngăn chặn khuyết điểm”[4, 125]. Từ đó, Đảng ta chỉ rõ: “Tổ chức chu đáo, thường xuyên và có hệ thống công tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách, ngăn ngừa xảy ra sai lầm, ngăn ngừa các vụ vi phạm nguyên tắc. Không kiểm tra coi như không lãnh đạo” [4, 121] Kế thừa những thành tựu qua các kỳ đại hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát: “Đảng phải tổ chức tốt công tác kiểm tra, một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Thời gian qua, công tác kiểm tra chưa được coi trọng, chưa tổ chức tốt và chưa thành chế độ, nền nếp chặt chẽ. Có những cấp ủy Đảng đề ra chủ trương rồi dừng lại ở những chủ trương ấy, mà không tổ chức và kiểm tra việc thực hiện. Vì vậy, nhiều công việc tiến hành chậm trễ, nhiều chủ trương đúng không được thực đầy đủ, nhiều lệch lạc chậm được sửa chửa. Hiện nay, hơn lúc nào hết, phải tăng cường kiểm tra, nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra. Kiểm tra việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng ở các cấp, các ngành; kiểm tra việc giữ gìn phẩm chất cách mạng và sự hoạt động của cán bộ, đảng viên, nhân viên trong bộ máy nhà nước; bảo vệ những cán bộ có phẩm chất tốt, có năng lực, có triển vọng; phát hiện nhanh những nhân tố mới; sửa chửa kịp thời những thiếu sót, khiến cho sự lãnh đạo luôn luôn cụ thể sắc bén” [5, tr ] Từ sự khẳng định trên, Đảng kết luận: “Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo”[5, tr.123]. Từ đó, chúng ta có thể nhận định rằng kiểm tra, giám sát đã trở thành cánh tay đắc lực của Đảng, giúp Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo. Nó đã trở thành “công tác trọng yếu”, là yếu tố quan trọng gắn liền với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng còn được Văn kiện Đại hội V xác định là một hoạt động khoa học: “Công tác này phải được nâng lên trình độ khoa học, đảm bảo kịp thời, chính xác và có hiệu quả cao” [5, 122]. Điều này hoàn toàn hợp lý, vì sự lãnh đạo của Đảng là một khoa học, mà công tác kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Do đó, thừa nhận tính chất khoa học của công tác kiểm tra mới nâng công tác kiểm tra ngang tầm với yêu cầu của sự lãnh đạo của Đảng và công tác kiểm tra, giám sát mới có thể đi sâu vào chuyên môn để đạt độ chính xác và có hiệu quả cao. Đến Đại hội VI, bước vào giai đoạn thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Đảng ta tiếp tục khẳng định và thừa nhận: “Kiểm tra là một chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng, là một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện. Đó cũng là biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu. Mọi tổ chức từ cơ quan của Đảng, nhà nước đến đoàn thể quần chúng, mọi lĩnh vực hoạt động từ kinh tế, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại không có ngoại lệ, đều phải đặt dưới sự kiểm tra của tổ chức Đảng có thẩm quyền. Trung ương Đảng và các cấp ủy Đảng phải nắm chắc công tác kiểm tra, sử dụng kết quả kiểm tra vào việc chỉ đạo thực hiện các nghị quyết. Mỗi cấp ủy, trong từng thời gian, đều phải có chương trình kiểm tra, tập trung vào những công tác chủ yếu, những đơn vị trọng điểm; sử dụng và phát huy vai trò của ủy ban kiểm tra và các ban của Đảng, kết hợp kiểm tra Đảng với thanh tra nhà nước và kiểm tra của quần chúng; kiểm tra phải đi tới kết luận rõ ràng và xử lý đúng đắn”. [6, Đại hội VI tiếp tục các quan điểm về kiểm tra, đồng thời nhấn mạnh thêm cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng trong tình hình mới. Một số chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng cũng đã đề cập đến việc thực hiện giám sát của cấp ủy hoặc giao cho các ban của cấp ủy theo dõi việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, nên việc thực hiện giám sát trong Đảng còn hạn chế, chủ yếu chỉ tập trung thực hiện nhiệm vụ kiểm tra. Trong các nhiệm kỳ Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động. Đất nước ta đang đứng trước nhiều thời cơ thuận lợi, nhưng cũng có nhiều thách thức, khó khăn và bốn nguy cơ đối với Đảng, chế độ ta không được xem thường. Bên cạnh việc tập trung đánh giá thành tựu, kết quả đạt được, cũng như khuyết điểm tồn tại và nguyên nhân của công tác xây dựng đảng, công tác kiểm tra và kỷ luật của mỗi nhiệm kỳ, Đảng ta đều khẳng định vị trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đồng thời sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, kỷ luật đảng; đề ra phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng trong từng nhiệm kỳ đại hội. Điều lệ Đảng do Đại hội VII thông qua nhấn mạnh: “Tổ chức tốt việc kiểm tra thực hiện các quyết định của Đảng. Mọi cán bộ là đảng viên trong cơ quan nhà nước phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện sáng tạo nghị quyết của Đảng, gương mẫu chấp hành pháp luật của nhà nước….Tăng quyền hạn của Ủy ban kiểm tra các cấp, chú trọng kiểm tra việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kiểm tra tư cách đảng viên kể cả cấp ủy viên cùng cấp, xem xét xử lý kỷ luật đảng viên và các tổ chức Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng” [7, . Đến Đại hội VIII của Đảng, Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra. Lần đầu tiên Điều lệ Đảng khẳng định: “Kiểm tra là một chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng”, “Công tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng”. Bên cạnh đó, Đảng còn xác định nhiệm vụ: “ Các tổ chức Đảng, trước hết là cấp ủy Đảng, Bộ chính trị và các ban thường vụ cấp ủy, cần tự mình tiến hành kiểm tra và sử dụng các ban để tổ chức thường xuyên việc kiểm tra”, “củng cố kiện toàn bộ máy kiểm tra các cấp, chú trọng, đào tạo đội ngũ kiểm tra về đường lối, quan điểm, pháp luật, kinh tế, về nghiệp vụ và phong cách làm việc. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có phẩm chất chính trị tốt, công tâm, trong sạch, đủ năng lực, kể cả năng lực kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng”. Bên cạnh đó, Đảng cũng quan tâm đến công tác giám sát phải được tiến hành song song với công tác kiểm tra: “Các tổ chức cơ sở Đảng phải động viên và tổ chức nhân dân thường xuyên tham gia xây dựng Đảng; giám sát phê bình cán bộ, đảng viên; giới thiệu những người xứng đáng để kết nạp vào đảng, bầu vào các cấp ủy và chính quyền; giúp tổ chức đảng làm tốt công tác công tác kiểm tra, phát hiện đấu tranh với những hành vi tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn khác… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị; đề ra đường lối, chính sách bảo vệ đất nước; nắm vững tổ chức và cán bộ để bảo đảm thực hiện có kết quả đường lối của Đảng. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc. Đảng lãnh đạo phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của nhà nước chứ không điều hành thay nhà nước. Đảng và mọi đảng viên đều hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật và chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII). Đồng thời Đảng còn nhấn mạnh yêu cầu cần phải tăng cường công tác giám sát, kể cả trong Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị: “Sử dụng đồng bộ hệ thống giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là sự giám sát của tổ chức đảng, trước hết là từ chi bộ, sự giám sát của nhân dân và các cơ quan đại diện nhân dân, sự giám sát của công luận” [13, tr. 30]. Đến năm 2001, tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: “Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy, của ủy ban kiểm tra các cấp, tập trung vào các nội dung chủ yếu: thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên” [9, . Trong đó, Đảng còn chú ý: “Phát huy vai trò giám sát, góp ý kiến của nhân dân, thu hút trí tuệ của nhân dân trong quá trình thực hiện chiến lược” (văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX). Vậy là, Đảng cần “sự giám sát nội bộ Đảng” và chịu “sự giám sát của nhân dân” để ngăn ngừa sự suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên và ngăn ngừa các nguy cơ của một đảng cầm quyền. Mặc dù, Đảng ta đã xác định vai trò quan trọng của công tác giám sát: “Có giám sát tốt mới có thể đánh giá đúng, lựa chọn đúng và đặc biệt là kịp thời ngăn ngừa những sai phạm ngay từ khi mới có những dấu hiệu vi phạm; đó cũng là phương thức quan trọng để bảo vệ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, được nhân dân tin yêu” [14, tr. 246]; tuy nhiên, theo quy định của Điều lệ Đảng, từ Đại hội IX trở về trước các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp chủ yếu là thực hiện chức năng kiểm tra, còn chức năng nhiệm vụ trong giám sát chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, chưa được thực hiện theo chương trình, kế hoạch cũng như quy trình, biện pháp cụ thể và đặc biệt chưa bố trí được lực lượng tiến hành thường xuyên. Thấy rõ được vai trò và tính cấp bách của công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng trong tình hình hiện nay, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Trong Điều lệ Đảng đã khẳng định: “Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức Đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng” [11, ]. Đồng thời, Đảng ta cũng nhấn mạnh việc kiểm tra, giám sát trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy đảng, phải gắn công tác kiểm tra với công tác giám sát, có giám sát mới phát hiện được vấn đề, mới khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm ngay từ lúc mới manh nha. Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ một trong những nguyên nhân làm hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng là: “Công tác kiểm tra trong Đảng còn yếu, chất lượng và hiệu quả kiểm tra chưa cao; nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện và khắc phục... Công tác giám sát trong Đảng và giám sát của nhân dân đối với các hoạt động của Đảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm, chưa đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới”. [10, Từ đó Đảng ta đã rút ra một trong năm bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng là: “Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời sai lầm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm chất của cán bộ, đảng viên...” [10, tr. 278]. Vị trí, vai trò kiểm tra, giám sát càng được khẳng định khi chức năng, nhiệm vụ của giám sát quy định trong các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư như trước đây đã được “luật hóa” trong Điều lệ Đảng. Điều 32 Điều lệ Đảng quy định cụ thể chủ thể, đối tượng, nội dung giám sát. Bộ Chính trị đã ban hành Quy định thi hành Điều lệ Đảng (số 23 – QĐ/TW, ngày 30 -10 - 2006) và Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII, Điều lệ Đảng khóa X (Quyết định số 25 – QĐ/TW, ngày 24 -11- 2006); Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ (Quyết định số 58 – QĐ/TW, ngày 07 – 5 - 2007); Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban hành các hướng dẫn cụ thể về thực hiện công tác giám sát của các cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, các ban của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp và của chi bộ... Đặc biệt, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng (NQ số 14 – NQ/TW, ngày 30 – 7 - 2007) càng khẳng định Đảng ta đã khẳng định vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát. Trong Nghị quyết số 14, Đảng đã xác định rõ mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, chủ trương, giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới. Nghị quyết đã chỉ rõ ba mục tiêu của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, trong đó mục tiêu bao trùm nhất là tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, sự đoàn kết thống nhất và đảm bảo thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, tránh các nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân của đảng cầm quyền, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X. Tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và hành động trong Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, trước hết là trong cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp. Từng bước hoàn thiện quan điểm, nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Nhìn chung, công tác kiểm tra giám sát có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng. Nó đã trở thành một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng; là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng đảng; là nhiệm vụ của toàn Đảng, là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên. Thực tiễn hoạt động 80 năm qua của Đảng cũng đã chứng minh: Nhờ có công tác kiểm tra, giám sát mà nội bộ Đảng luôn giữ được trong sạch, vững mạnh, sức mạnh lãnh đạo của Đảng luôn được tăng cường, sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng luôn giành được những thắng lợi to lớn. Đó chính là những cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục củng cố, xây dựng, hoàn thiện mọi mặt, hoàn thành tốt vai trò, sứ mệnh lịch sử trong giai đoạn mới. II. Biện pháp tiến hành công tác kiểm tra, giám sát của Đảng từ Đại hội II đến nay. Biện pháp (giải pháp) kiểm tra, giám sát của Đảng được hiểu là cách làm, cách tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ thể, một công việc cụ thể có liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng, nhằm giúp cho Đảng kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những sai lầm, thiếu sót, phát huy những ưu điểm để tiếp tục
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan