PHẦN I. LỜI MỞ ĐẦU
Quản lý hành chính Nhà nước được xem là một hoạt động thực thi quyền
hành pháp trong việc chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính Nhà
nước đối với các chủ thể quản lý và các quá trình xã hội, cũng như hành vi hoạt
động của con người, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người và duy trì
sự ổn định, phát triển của xã hội theo một trật tự pháp luật. Do đó đòi hỏi đội
ngũ cán bộ, công chức, nhất là công chức lãnh đạo phải có năng lực, trình độ,
hiểu biết pháp luật, nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước cùng với tinh thần, trách nhiệm để xử lý, giải quyết nhiều vấn đề phát sinh
trong hoạt động quản lý, hướng tới xây dựng “Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do dân và vì nhân dân”, với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong công tác quản lý Nhà nước hiện nay lĩnh vực đất đai là vấn đề rất
nhạy cảm, phức tạp, bởi vì đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu sản
xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn
phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân đã tốn bao công sức, xương máu
mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay.
Hiện nay, việc quản lý đất đai đã và đang là một trong những vấn đề mang
tính thời sự nóng bỏng mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm ưu tiên hàng đầu. Qua
từng thời kỳ cách mạng, chính sách đất đai của Nhà nước ta cũng có những thay
đổi phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Nhất là trong công cuộc đổi
mới hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thì vấn đề đất đai, hơn lúc nào hết cần phải có những sửa đổi, bổ sung
nhằm giúp các quan hệ về đất đai vận động và phát triển.
Thực tế cho thấy, những năm gần đây việc khiếu nại, tố cáo của công dân về
tranh chấp đất đai, đòi lại đất diễn ra ngày càng nhiều và có chiều hướng gia tăng,
nội dung vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp. Nguyên nhân của những khiếu nại
trên phần lớn là do nhân dân thiếu hiểu biết về Luật đất đai và các văn bản của
Nhà nước liên quan đến lĩnh vực đất đai, bên cạnh đó cũng có không ít những
1
trường hợp các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện chưa đúng chức năng, trách
nhiệm quản lý đất đai dẫn đến nhiều vụ kiện rắc rối, kéo dài làm giảm sút lòng tin
của nhân dân đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Do đó đòi hỏi các các cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực này phải thực
hiện tốt việc tiếp dân, tích cực giải quyết tốt các kiến nghị, khiếu nại của công
dân, phải thật sự là “người đầy tớ trung thành” của nhân dân, coi đây là nhiệm
vụ thiết thực để đảm bảo quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Nhìn chung, thời gian qua các cấp chính quyền, cơ quan hành chính Nhà nước
đã có những bước chuyển biến tích cực, có sự quan tâm rõ nét, giải quyết kịp thời
các vụ khiếu kiện, ban hành các Quyết định đúng pháp luật, phù hợp với tình hình
thực tế và được nhân dân đồng tình ủng hộ. Song bên cạnh những mặt đã làm
được, vẫn còn một số nơi như các cơ quan, ban, ngành và nhất là một số địa
phương chưa làm tròn trách nhiệm của mình, chưa thật sự tôn trọng, lắng nghe và
nắm bắt thông tin từ nhân dân, dẫn đến một số vụ kiện các cơ quan chức năng xử lý
thiếu khách quan, xử lý trên cơ sở có “tình” mà không có “lý” hoặc ngược lại nên
các bên đương sự không thi hành mà tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến cấp cao hơn.
Trên cơ sở kiến thức Quản lý hành chính Nhà nước được tiếp thu tại lớp và
được sự cho phép của Nhà trường, tôi chọn nội dung “Giải quyết khiếu nại về việc
tranh chấp đất đai xảy ra tại xã Phượng Mao, Quế Võ, Bắc Ninh năm 2014”.
Hy vọng nội dung này phần nào phản ánh thực trạng hoạt động quản lý
hành chính Nhà nước ở một cơ quan hành chính nhà nước và một số địa
phương; hướng xử lý, giải quyết khi phát sinh một vấn đề quản lý cũng như phát
sinh khiếu nại của công dân.
Bố cục phần viết được chia làm 3 phần:
1. Lời mở đầu
2. Nội dung
3. Kết luận và kiến nghị
2
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Mô tả tình huống
1.1. Tóm tắt nhân thân và nội dung đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị T, ở
Thôn Mao Dộc, Xã Phượng Mao
Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1937, ở Thôn Mao Dộc, Xã Phượng Mao,
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh (con ông Nguyễn Văn H và bà Đoàn Thị Q); hiện
đang sống ở Thôn Mao Dộc, Xã Phượng Mao, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, có
nội dung khiếu nại như sau:
Bà T khiếu nại đòi quyền sử dụng 1923 m2 đất, tại thửa đất số 925 và 926, tờ
bản đồ số 2, Xã Phượng Mao, có nguồn gốc là thổ cư của cha mẹ Bà để lại tại
Thôn Mao Dộc, Xã Phượng Mao (hiện nay do Trường Mẫu giáo Thôn Mao Dộc
quản lý, sử dụng) với các lý do: Năm 1977, ông Hoàng Văn K, lúc bấy giờ là Đội
trưởng sản xuất số 2 của Hợp tác xã nông nghiệp Phượng Mao (cũ) đến hỏi mượn
đất để làm trại chứa phân của HTX, Bà đồng ý cho mượn, đến năm 1979 ông K
trả lại, gia đình Bà và ông Nguyễn Văn C cùng hợp tác sản xuất hoa màu đến năm
1981. Năm 1982, ông Trần Văn Sửu- Chủ tịch UBND Xã Phượng Mao yêu cầu
Bà ký giao cho chính quyền, Bà không đồng ý nhưng chính quyền vẫn thực hiện
thu (không lập bằng văn bản). Từ đó Bà đã khiếu nại nhưng không được xem xét
giải quyết kéo dài đến nay.
Bà Nguyễn Thị T cho rằng: Nguyện vọng của Bà là đề nghị cấp có thẩm
quyền xem xét trả lại khu vườn cho gia đình Bà. Nếu nguyện vọng trên không
được giải quyết thì trả lại một phần diện tích khu vườn gồm có giếng nước mồ
mả và các tài sản có trên đất để Bà xây dựng nhà thờ.
1.2. Quá trình xem xét, giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Năm 2014, bà Nguyễn Thị T phát sinh đơn khiếu nại đến UBND huyện
Quế Võ, khiếu nại của bà T được Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện xem xét
trả lời tại Công văn số 55/TNMT ngày 04/4/2015 khẳng định: “nội dung đơn
thỉnh cầu của bà Nguyễn Thị T đòi lại đất do cha mẹ Bà để lại là trái với pháp
luật về đất đai hiện hành”. Bà T không đồng ý với nội dung trả lời của Phòng
TNMT, tiếp tục khiếu nại đến UBND huyện. Ngày 24/9/2015, UBND huyện
3
Quế Võ ban hành Quyết định số 1792/QĐ-UB giao Trưởng phòng Tài nguyên Môi trường huyện xác minh, kết luận và đề xuất biện phảp giải quyết khiếu nại
vụ việc tranh chấp đất thổ cư trên. Ngày 18/02/2016, Phòng Tài nguyên - Môi
trường huyện có Báo cáo số 32/BC-TNMT về kết quả thẩm tra xác minh và có
đề xuất Chủ tịch UBND huyện với nội dung: Thửa đất số 925 và 926 tờ bản đồ
số 2, Xã Phượng Mao trước năm 1975 chung một thửa đất, nguồn gốc của cha
mẹ bà T sử dụng và lưu hạ cho Bà từ trước năm 1975. Từ năm 1975 - 1982 bà T
vẫn tiếp tục sử dụng. Từ năm 1982 đến nay UBND Xã Phượng Mao trưng thu
làm trại họp đội và xây dựng Trường Mẫu giáo, khi thu hồi chỉ nói bằng miệng,
không có Quyết định hoặc văn bản thu hồi của UBND Xã Phượng Mao. Bà T
không chấp nhận giao đất và khiếu kiện đến nay chưa được cơ quan có thẩm
quyền giải quyết. Hiện nay tại thửa đất 925, diện tích 734 m 2 là đất màu, UBND
xã quản lý cho mượn để sản xuất chưa xây dựng công trình trên đất. Thửa 926
diện tích 1189 m2 UBND xã đã xây dựng Trường Mẫu giáo và đã đăng ký theo
Chỉ thị 245/TTg; cũng trong thửa đất 926 có hai ngôi mộ xây dựng cơ bản của
cha bà T là ông Nguyễn Văn H và ông cố bà T là ông Nguyễn Văn V và một cái
giếng nước đã có từ trước năm 1975.
Đối với UBND Xã Phượng Mao cũng không thể sử dụng hết diện tích của
hai thửa đất 925 và 926 mà nên công nhận quyền sử dụng cho bà T một phần đất
để bà T xây dựng nhà thờ và chăm nom mồ mả họ tộc là phù hợp với đạo lý của
dân tộc Việt Nam.
Từ những kết luận trên, Phòng TNMT huyện kiến nghị: Lấy tổng diện tích
của hai thửa đất là 1923 m2 chia hai, công nhận quyền sử dụng đất cho bà T là 957
m2 tại thửa đất số 925, tờ bản đồ số 2, Xã Phượng Mao; vì hiện nay có hai ngôi mộ
của cha và ông cố bà T nằm trong thửa đất 926 sát thửa 925 để bà T có điều kiện
bảo vệ, trông coi mồ mả và xây dựng nhà thờ họ tộc. Diện tích còn lại của thửa đất
là 966 m2, UBND Xã Phượng Mao quản lý, sử dụng vì trong thửa đất này đã có
Trường Mẫu giáo Thôn Mao Dộc, hiện nay đang sử dụng dạy học cho học sinh.
Sau Báo cáo số 32/BC-TNMT ngày 18/02/2016 của Phòng TNMT huyện,
lãnh đạo huyện Quế Võ và Xã Phượng Mao đã có cuộc họp ngày 04/5/2016 bàn
4
biện pháp giải quyết yêu cầu của bà T. Tham dự cuộc họp có ông Lê Văn K (Bí
thư Đảng ủy xã) và ông Nguyễn Thanh V (Chủ tịch UBND xã) đã “thống nhất
giao trả diện tích đất vườn của bà Nguyễn Thị T. Vận động bà T đóng góp cho
UBND Xã Phượng Mao số tiền từ 35 triệu đến 40 triệu để UBND xã xây dựng
Trường Mẫu giáo cho con em Xã Phượng Mao học hành tại cuộc họp này, Chủ
tịch UBND huyện Quế Võ kết luận “giao cho Văn phòng HĐND&UBND huyện
và Phòng TNMT huyện tổ chức buổi làm việc với bà T nhằm vận động thực hiện
yêu cầu của lãnh đạo Xã Phượng Mao”. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch
UBND huyện, ngày 11/5/2016 Phòng TNMT, Văn phòng HĐND&UBND
huyện, Bí thư Đảng ủy xã và Chủ tịch UBND Xã Phượng Mao đã làm việc với
bà Nguyễn Thị T và thống nhất “bà T có trách nhiệm hỗ trợ cho UBND Xã
Phượng Mao số tiền 30 triệu đồng. UBND Xã Phượng Mao giao lại toàn bộ diện
tích 1923 m2 đất, tại thửa đất số 925 và 926, tờ bản đồ số 2, Xã Phượng Mao, kể
cả Trường Mẫu giáo hiện có trên thửa 926, UBND xã cũng giao cho bà T quản
lý và sử dụng. Thời gian bà Nguyễn Thị T nộp tiền cho UBND Xã Phượng Mao
chậm nhất trước ngày 15/5/2016. Thời gian UBND Xã Phượng Mao bàn giao
Trường Mẫu giáo cho bà T trước ngày 30/8/2016 về diện tích 1923 m 2 bà T có
trách nhiệm đến UBND Xã Phượng Mao đăng ký kê khai quyền sử dụng đất
theo biểu mẫu qui định, UBND Xã Phượng Mao trình UBND huyện công nhận
quyền sử dụng đất cho bà T trước ngày 30/5/2016”.
Ngày 12/5/2016, bà T đã nộp đủ 30 triệu đồng vào ngân sách của Xã Phượng
Mao. ‘Đến ngày 13/5/2016, Bí thư Đảng ủy xã và Chủ tịch UBND Xã Phượng
Mao đồng ký Báo cáo số 03/BC-ĐN đề nghị “tạm dừng thực hiện biên bản làm
việc ngày 11/5/2016 với lý do: chính quyền địa phương chưa thống nhất, thiếu
dân chủ và minh bạch. Đề nghị UBND huyện chủ trì và tổ chức họp rộng rãi,
gồm các thành phần ở địa phương; toàn bộ Ban chấp hành Đảng ủy, thành viên
UBND Xã và UBMTTQVN xã để tham dự và khách quan hơn.
Tiếp đến ngày 31/5/2016, Đảng ủy xã, HĐND, UBND, UBMTTQVN xã
có kiến nghị số 29/KN-UB về việc không thực hiện nội dung cuộc hòa giải giữa
đồng chí Lê Văn K - Bí thư Đảng ủy xã và đồng chí Nguyễn Thanh V - Chủ tịch
5
UBND xã với bà Nguyễn Thị T ngày 11/5/2016 với lý do: Ông Lê Văn K - Bí
thư Đảng ủy và ông Nguyễn Thanh V - Chủ tịch UBND xã ký trong biên bản
hòa giải là quan điểm cá nhân của hai ông, chưa qua bàn bạc tập thể. Tập thể
không thống nhất cách giải quyết trên. Đất bà T đòi lại là không đúng theo Luật
Đất đai qui định vì từ năm 1977 đất này không có người quản lý và sử dụng, nên
địa phương đã dựa vào xây dựng trại phân, sau đó xây dựng nhà họp đội sản
xuất và chuyển sang xây dựng Trường Mẫu giáo cho đến bây giờ. Nếu giải
quyết trả lại đất cho bà T sẽ gây xáo trộn lớn ở địa phương sẽ có nhiều người
tiếp tục gửi đơn đòi lại đất, hậu quả sẽ khó lường trước (có thể xảy ra điểm
nóng).
Ngày 08/6/2016, UBND Xã Phượng Mao có Báo cáo số 31/BC-UB báo
cáo UBND huyện Quế Võ về việc không thực thi biên bản hòa giải giữa bà
Nguyễn Thị T và UBND Xã Phượng Mao.
Mãi đến ngày 11/4/2017 Hội đồng tư vấn xử lý hành chính của huyện tổ
chức cuộc họp để xem xét vụ việc này. Tại cuộc họp, Bí thư Đảng ủy xã và Chủ
tịch UBND Xã Phượng Mao một lần nữa vẫn đề nghị UBND huyện nên trưng cầu
ý kiến của đảng viên và nhân dân địa phương; Phòng TNMT huyện đề nghị
chuyển lên UBND tỉnh giải quyết theo thẩm quyền của Luật Đất đai năm 2015
qui định. Kết luận của Chủ tọa cuộc họp: chuyển UBND tỉnh giải quyết theo thẩm
quyền.
Ngày 09/5/2017, UBND huyện Quế Võ có Báo cáo số 34/BC-UB báo cáo
UBND tỉnh “về vụ tranh chấp quyền sử dụng đất giữa cá nhân với tổ chức để
UBND tỉnh giải quyết theo thẩm quyền” nêu rõ:
- Căn cứ Luật Đất đai năm 2015 và khoản 2 Điều 160 Nghị định
181/2016/NĐ- CP ngày 29/10/2016 của Chính phủ, UBND huyện Quế Võ
không đủ thẩm quyền ban hành Quyết định giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất giữa bà Nguyễn Thị T với UBND Xã Phượng Mao.
Từ những diễn biến nêu trên nên bà Nguyễn Thị T tiếp tục khiếu nại lên cấp cao
hơn.
6
2. Mục tiêu tình huống
- Ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị T đảm bảo
theo qui định của pháp luật, đồng thời đảm bảo hài hòa giữa lợi ích nhà nước với
lợi ích của công dân, của tập thể, đảm bảo sự hợp lý, hợp tình trong việc giải quyết
vụ việc.
- Kịp thời lập đầy đủ hồ sơ, thủ tục cần thiết trình cấp có thẩm quyền cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trường Mẫu giáo Thôn Mao Dộc, Xã
Phượng Mao, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Khắc phục được tình trạng đòi lại đất cũ của ông, bà lưu hạ trên địa bàn
huyện trong tình hình hiện nay.
- Đảm bảo tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
đất đai tại địa phương.
- Ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả:
3.1. Nhận thấy:
Về tính chất thì đây là việc bà Nguyễn Thị T khiếu nại đòi quyền sử dụng đất
có nguồn gốc cũ của gia đình Bà thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND huyện
Quế Võ; việc xác định đây là vụ tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị
T với UBND Xã Phượng Mao để chuyển lên UBND tỉnh là không đúng tính chất
vụ việc; vì quan hệ giữa UBND Xã Phượng Mao với bà Nguyễn Thị T trong
trường hợp này là quan hệ quản lý hành chính nhà nước về đất đai mà bà T khiếu
nại các hành vi quản lý nhà nước về đất đai của ỤBND Xã Phượng Mao trước đây
chưa đúng, gây thiệt hại cho Bà và hiện nay Bà đề nghị UBND huyện là cơ quan có
thẩm quyền công nhận quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất nêu trên cho Bà theo
pháp luật đất đai hiện hành.
Qua tình huống trên, ta thấy toàn bộ diện tích đất của ông Nguyễn Văn H
(cha bà T) lưu hạ tại Thôn Mao Dộc, Xã Phượng Mao gồm thửa 505 diện tích 04
sào 01 thước và thửa 448 diện tích 07 sào 01 thước (theo số hiệu cũ), hiện nay là
số thửa 925 và 926, tờ bản đồ số 2, Xã Phượng Mao đều được chính quyền Xã
Phượng Mao quản lý, giao cho Hợp tác xã nông nghiệp Phượng Mao sử dụng từ
7
năm 1977, khi Hợp tác xã nông nghiệp Phượng Mao vừa mới thành lập.
Theo trình bày của Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch UBND Xã Phượng Mao thì
việc xã quản lý thửa đất thổ cư của gia đình bà T vào năm 1977 là chấp hành
Chỉ thị số 08 của Huyện ủy Bình Sơn lúc đó (nay không còn lưu giữ), là thu hồi
toàn bộ những người có đất vườn mà không có nhà ở để đưa vào sử dụng tập
thể. Lúc đó hộ bà T là hộ thương nghiệp đã có vườn nhà ở riêng, vườn cha mẹ
để lại cho Bà không có nhà ở nên xã cũng thu hồi giao cho Hợp tác xã nông
nghiệp Phượng Mao sử dụng. Khi chính quyền quản lý thửa đất thổ cư số hiệu
505 (cũ) trên đất hoàn toàn không có nhà ở; đất đang sử dụng vào mục đích
nông nghiệp, người đang trực tiếp sản xuất trên đất là ông Nguyễn Văn C (người
ở liền kề khu vườn).
Qua diễn biến việc sử dụng cho thấy từ năm 1977 đến nay, toàn bộ phần
đất mà bà T khiếu nại đòi công nhận quyền sử dụng đã được chính quyền Xã
Phượng Mao bố trí sử dụng vào việc công; đã kê khai, đăng ký quyền sử dụng
theo quy định của pháp luật đất đai.
Việc bà T trình bày và được ông Hoàng Văn K xác nhận rằng: Năm 1977
ông Sở là Đội trưởng sản xuất mượn đất thổ cư của gia đình Bà T để xây dựng
trại phân, đến năm 1979 thì trả lại cho Bà sản xuất. Đến năm 1982 chính quyền
Xã Phượng Mao cưỡng ép để lấy đất làm nhà họp Đội là không đúng vì lời khai
hai bên không giống nhau và những cán bộ có trách nhiệm của Xã Phượng Mao
lúc bấy giờ xác định lời khai của ông Sở là không có căn cứ.
Việc Phòng Tài nguyên - Môi trường kết luận từ năm 1975 đến năm 1982
bà T vẫn trực tiếp quản lý canh tác thửa đất, đến năm 1982 Xã Phượng Mao mới
trưng dụng quản lý diện tích đất này là không chính xác.
Bà Nguyễn Thị T trình bày rằng đã phát sinh đơn khiếu nại đòi quyền sử
dụng thửa đất từ năm 1982, nhưng không có bằng chứng xác đáng để khẳng
định việc xác nhận của ông Lâm Văn T không đủ cơ sở để công nhận. Theo hồ
sơ thì bà Nguyễn Thị T phát sinh khiếu nại từ năm 1996.
Tại thời điểm năm 1977 bà Nguyễn Thị T đã có vườn nhà ở riêng với
chồng con tại Thôn Mao Dộc, Xã Phượng Mao và là hộ kinh doanh thương
8
nghiệp; thửa đất có số hiệu 505 nguyên là thổ cư của ông Nguyễn Văn H lưu hạ
lại, đến lúc này không còn nhà ở; hộ bà T lúc đó cũng không đủ điều kiện trực
canh, mà để lại cho ông Nguyễn Văn C canh tác. Căn cứ vào Quyết định số
188/CP ngày 25/9/1976 của Hội đồng Chính phụ về chính sách xóa bỏ triệt để
tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột của thực dân phong kiến ở
Miền Nam Việt Nam nêu rằng: “Vận động tiểu chủ sống ở đô thị có ruộng đất
phát canh thu tô hiến ruộng. Nếu họ không hiến hoặc hiến không hết thì UBND
thành phố, tỉnh ra lệnh trưng thu hoặc trưng mua tùy theo thái độ chính trị của
mỗi người. Gia đình nào chuyển Về làm ăn, sinh sống ở nông thôn thì chính
quyền và Nông hội để lại cho họ một phần ruộng đất theo mức bình quân nhân
khẩu của nông dân trong nông thôn, xã” và thực tiễn thi hành chính sách vận động
đưa ruộng đất vào Hợp tác xã nông nghiệp Phượng Mao nói riêng và ở tỉnh Bắc
Ninh nói chung thì việc UBND Xã Phượng Mao quản lý, sử dụng thửa đất nêu
trên là có cơ sở, phù hợp với chính sách thực tiễn lúc đó. Bà T cũng đã chấp nhận
tuân theo chính sách chung. Đến khi đổi mới, chính sách có thay đổi, năm 1996
bà T mới phát sinh đơn đòi lại quyền sử dụng.
Vì vậy, hiện nay không thể xem xét yếu tố không có Quyết định thu hồi của
cơ quan có thẩm quyền để cho rằng việc quản lý đó là không đúng để hoàn trả
đất cho bà T thửa đất có diện tích 1923 m2 nhưng chỉ mới bố trí cho một Trường
Mẫu giáo Thôn Mao Dộc nên Trường còn để nhiều diện tích bỏ trống; Trường
Mẫu giáo Thôn Mao Dộc cũng chưa được cơ quan có thẩm quyền công nhận
quyền sử dụng đất. Do đó, UBND Xã Phượng Mao cần rà soát lại quy hoạch sử
dụng đất tại vị trí nêu trên, xác định vị trí cần thiết để bố trí cho Trường đủ tiêu
chuẩn mặt bằng; diện tích còn lại thì có thể xem xét, vận dụng công nhận cho bà
Nguyễn Thị T (vì nhà nước chưa giao cho người khác sử dụng); diện tích cụ thể
phân định công nhận cho Trường và cho bà T do UBND huyện Quế Võ xem xét
và quyết định; phần đất công nhận cho Trường, UBND huyện cần trình UBND
tỉnh Bắc Ninh quyết định trước khi UBNĐ huyện Quế Võ công nhận phần đất
còn lại cho bà T.
3.2. Nguyên nhân
9
Quá trình khiếu kiện về đất đai của bà Nguyễn Thị T đến các cấp có thẩm quyền
do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể nêu lên một số nguyên nhân chủ ỵếu sau:
- Thứ nhất: Do công tác quản lý đất đai của các cấp, các ngành chức năng ở
địa phương từ huyện đến cơ sở còn buông lỏng, thiếu chặt chẽ; việc rà soát, cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân còn
nhiều hạn chế, chưa kịp thời nên dẫn đến sự khiếu nại của công dân đến cơ quan
hành chính nhà nước.
- Thứ hai: Việc tham mưu của Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện Quế
Võ cho UBND huyện trong quá trình giải quyết, xử lý vụ việc này chưa chặt
chẽ, thiếu nhất quán trong việc xem xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị biện pháp
giải quyết nên dẫn đến việc khiếu nại của công dân còn kéo dài.
- Thứ ba: Việc UBND huyện Quế Võ cho chủ trương hòa giải giữa UBND
Xã Phượng Mao với bà Nguyễn Thị T không có cơ sở pháp lý nên dẫn đến sự
phản ứng của Đảng bộ Xã Phượng Mao và UBND huyện Quế Võ không thể đưa
ra quyết định, ảnh hưởng đến kỷ cương nhà nước; bà T có cớ để đưa ra yêu cầu
phải thực hiện đúng biên bản hòa giải ngày 11/5/2016 và tiếp tục khiếu nại lên
cấp trên.
3.3. Hậu quả
Do cán bộ, công chức không làm tròn trách nhiệm của mình trong việc
tham mưu giải quyết dứt điểm khiếu kiện của bà Nguyễn Thị T; việc đề xuất,
kiến nghị còn dựa trên cảm tính, chưa áp dụng cơ bản các qui định của pháp luật
về đất đai để tham mưu giải quyết nên công dân có cớ để tiếp khiếu; làm mất uy
tín của cơ quan nhà nước, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với các cấp chính
quyền, làm suy giảm tính pháp lý của pháp luật, pháp chế XHCN, kỷ cương
phép nước không được thực hiện nghiêm túc.
Một khi sự việc khiếu kiện của bà Nguyễn Thị T liên quan đến hai thửa đất
nêu trên không được giải quyết dứt điểm theo hướng thấu tình, đạt lý thì việc
khiếu kiện sẽ kéo dài, làm ảnh hưởng đến vấn đề dạy và học ở Trường Mầu giáo
Thôn Mao Dộc, dư luận nhân dân có nhiều vấn đề phức tạp, gây mất ổn định
tình hình an ninh trật tự tại địa bàn khu dân cư và trên địa bàn của Xã Phượng
10
Mao.
4. Xây dựng phương án và lựa chọn phương án
* Phương án 1
Trong tổng diện tích 1923 m2 của thửa đất số 925 và 926, tờ bản đồ số 2
(nay gộp chung là thửa đất số 48, loại đất CD/K, tờ bản đồ số 5, bản đồ đo mới
năm 2015 Xã Phượng Mao) thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cụ thể là
UBND Xã Phượng Mao và Phòng TNMT huyện phối hợp với nhau) tiến hành
lập các thủ tục cần thiết để đề nghị công nhận quyền sử dụng đất cho Trường
Mẫu giáo Thôn Mao Dộc; ngoài phạm vi diện tích công nhận cho Trường Mẫu
giáo, UBND huyện xem xét Quyết định công nhận quyền sử dụng cho bà
Nguyễn Thị T theo thẩm quyền (nếu còn diện tích đất).
+ Ưu điểm
- Không gây xáo trộn lớn về tình hình khiếu nại, đòi lại quyền sử dụng đất
trước đây tại địa phương.
- Giải quyết nhanh, dứt điểm được việc khiếu nại của bà Nguyễn Thị T; vì
phù hợp với nguyện vọng trước đây của bà T là trả lại một phần diện tích khu
vườn gồm có giếng nước, mồ mả và các tài sản có trên đất để Bà xây dựng nhà
thờ.
- Vụ việc được giải quyết một cách hợp tình, hợp lý, phù hợp, hài hòa giữa
lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân với nhau.
+ Nhược điểm
- Chưa áp dụng triệt để pháp luật về đất đai để giải quyết vụ việc.
- Việc giải quyết còn hướng về tình cảm, phong tục tập quán (để làm nhà thờ).
* Phương án 2
- Toàn bộ diện tích 1923 m2 của thửa đất số 925 và 926, tờ bản đồ số 2, Xã
Phượng Mao: Lập các thủ tục để trình cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho Trường Mẫu giáo Thôn Mao Dộc, Xã Phượng Mao,
nhằm xây dựng, tu sửa lại Trường Mẫu giáo khang trang hơn phục vụ cho việc
dạy học con em tại địa phương.
- Ra Quyết định bác đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị T, vì trường hợp đòi
11
lại đất của gia đình Bà là không phù hợp với qui định của pháp luật về đất đai,
cụ thể là sau thời gian đất nước hoàn toàn giải phóng, lúc này hộ gia đình bà
Nguyễn Thị T là hộ thương nghiệp, làm ăn, sinh sống bằng nghề buôn bán tại
Xã Phượng Mao, huyện Quế Võ nên căn cứ vào Quyết định số 188/CP ngày
25/9/1976 của Hội đồng Chính phủ về chính sách xóa bỏ triệt để tàn tích chiếm
hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột của thực dân phong kiến ở Miền Nam
Việt Nam nêu rằng: “Vận động tiểu chủ sống ở đô thị có ruộng đất phát canh thu
tô hiến rộng. Nếu họ không hiến hoặc hiến không hết thì UBND thành phố, tỉnh
ra lệnh trưng thu hoặc trưng mua tùy theo thái độ chính trị của mỗi người. Gia
đình nào chuyển về làm ăn, sinh sống ở nông thôn thì chính quyền và Nông hội
để lại cho họ một phần ruộng đất theo mức bình quân nhân khẩu của nông dân
trong nông thôn, xã”. Bên cạnh đó bà Nguyễn Thị T không cung cấp được bất cứ
tài liệu nào có liên quan đến việc kê khai, đăng ký và nộp thuế cho Nhà nước từ
năm 1975 đến nay đối với hai thửa đất mà Bà khiếu nại.
+ Ưu điểm
- Giải quyết dứt điểm được việc khiếu nại của bà Nguyễn Thị T; ổn định
được tình hình khiếu nại, khiếu kiện phức tạp, nóng hiện nay về tình hình tranh
chấp, đòi lại đất ông bà trên địa bàn huyện.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai tại địa
phương, đảm bảo pháp chế XHCN.
+ Nhược điểm
- Vụ việc chưa được giải quyết một cách thấu lý, đạt tình.
- Công dân có thể khiếu nại lên cấp trên cao hơn hoặc khởi kiện ra Tòa án gây
kéo dài, đồng thời công tác thu hồi, sử dụng đất của địa phương có thể khó khăn.
* Phương án lựa chọn
Qua dẫn dắt tình huống và qua phân tích nguyên nhân, hậu quả, ưu, nhược
điểm của hai phương án đưa ra ở trên, bản thân nhận thấy lựa chọn phương án 1
là phương án tối ưu, hiệu quả nhất, để xử lý, giải quyết dứt điểm vụ việc khiếu
nại của công dân như đã nêu ở trên.
12
Tổ chức thực hiện phương án lựa chọn
- Giao Chủ tịch UBND huyện Quế Võ xem xét hoàn chỉnh hồ sơ trình
UBND tỉnh công nhận quyền sử dụng đất cho Trường Mẫu giáo Thôn Mao Dộc,
cụ thể:
+ Hồ sơ trình cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho Trường Mẫu giáo Thôn Mao Dộc, phải nộp tại Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh để Sở tham mưu cho UBND tỉnh xem xét, quyết định.
- Ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại đòi quyền sử dụng đất của bà
Nguyễn Thị T theo đúng thẩm quyền, cụ thể: Căn cứ vào Điều 4, Nghị định
181/2016/NĐ- CP ngày 29/10/2016 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm
2015, Chủ tịch UBND huyện Quế Võ bác đơn khiếu nại của bà T đòi công nhận
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 925 và 926, tờ bản đồ số 2 (nay gộp chung là
thửa đất số 48, diện tích 1923 m2, loại đất CD/K, tờ bản đồ số 5, bản đồ đo mới
năm 2015 Xã Phượng Mao).
+ Sau khi có Quyết định của Chủ tịch UBND huyện về việc giải quyết bác
đơn khiếu nại đối với bà Nguyễn Thị T thì giao cho Trưởng phòng TNMT huyện
chủ trì, phối hợp với UBND Xã Phượng Mao mời bà T để truyền đạt Quyết định
của Chủ tịch UBND huyện cho bà T; việc thực hiện truyền đạt Quyết định phải
lập thành Biên bản cụ thể để lưu vào hồ sơ theo qui định.
+ Giao Phòng TNMT, UBND Xã Phượng Mao mời bà Nguyễn Thị T tiến
hành giao đất, cắm mốc giới diện tích đất cụ thể khi có Quyết định của Chủ tịch
UBND huyện Quế Võ công nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị T.
- Giao UBND Xã Phượng Mao có trách nhiệm sớm hoàn trả 30 triệu đồng
cho bà Nguyễn Thị T: Khi hoàn trả phải lập đầy đủ các thủ tục cần thiết và phải
chịu chi trả lãi suất tiền quỹ tiết kiệm không kỳ hạn của Ngân hàng thương mại
trên địa bàn kể từ khi nhận tiền hỗ trợ của bà T đến khi hoàn trả.
- Kiểm điểm Trưởng phòng TNMT huyện, vì tham mưu cho UBND huyện
trong việc giải quyết vụ việc chưa đảm bảo theo qui định của pháp luật về đất
đai, chưa chặt chẽ, thiếu nhất quán trong việc xem xét, đánh giá, kết luận, kiến
nghị giải quyết.
13
- Giao Chánh Thanh tra huyện đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện
Quyết định của Chủ tịch UBND huyện Quế Võ và báo cáo kết quả cho Chủ tịch
UBND huyện.
14
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về tranh chấp đất đai là một hoạt động quan
trọng đối với các cơ quan chức năng và địa phương cơ sở, Đảng ta đã khẳng
định: “Đất đai là một trong bốn nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước
trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”. Vấn đề đất đai rất “nhạy
cảm” và “nóng bỏng”. Do đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức thực thi công vụ
quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai phải có đầy đủ phẩm chất chính trị, nghiệp
vụ, năng lực chuyên môn vững vàng nhằm đáp ứng được công tác quản lý nhà
nước về đất đai thực tế diễn ra trên địa bàn mình phụ trách, giải quyết và tham
mưu giải quyết tốt mọi công việc phát sinh liên quan đến lĩnh vực đất đai một
cách thấu tình, đạt lý, đảm bảo công bằng dân chủ, được nhân dân đồng tình ủng
hộ và tin tưởng, hạn chế việc khiếu kiện kéo dài, tái khiếu và khiếu nại vượt cấp,
góp phần ổn định tình hình chung trên địa bàn huyện Quế Võ.
Hoạt động quản lý Nhà nước tốt, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống của
nhân dân ấm no, hạnh phúc. Hoạt động quản lý Nhà nước yếu kém, đời sống vật
chất lẫn tinh thần của nhân dân không được cải thiện, phát sinh nhiều tiêu cực,
dẫn đến khiếu nại hoặc tố cáo gây phức tạp xã hội trong hoạt động quản lý hành
chính Nhà nước.
Huyện Quế Võ trong những năm qua, số đơn khiếu nại, tố cáo phát sinh
ngày càng nhiều, có nhiều vụ phức tạp, nhất là ở những địa bàn Khu kinh tế,
Khu công nghiệp bắt đầu phát triển, giá trị đất đai trên thị trường biến động rất
nhiều, ngày càng có giá trị, tình trạng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diễn ra
phức tạp, đó là nhu cầu, qui luật tất yếu của xã hội phát triển; đòi hỏi công tác
quản lý nhà nước về đất đai của các cấp chính quyền và các ngành chức năng ở
địa phương phải luôn tập trung nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ phục
vụ cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp; tham mưu
giúp Chủ tịch UBND huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực
đất đai nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.
Qua phân tích và giải quyết tình huống nêu trên, chúng ta thấy được thực
15
trạng quản lý và sử dụng đất hiện nay, hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp
đất đai nêu trên vẫn còn nhiều bất cập, phát sinh nhiều vấn đề phức tạp, dẫn đến
khiếu nại, khiếu kiện của công dân. Một phần do năng lực, trình độ chuyên môn,
kiến thức pháp lụật cùng với tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân
của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay, nhất là công chức lãnh đạo; một phần
do hiểu biết, nắm bắt pháp luật của người dân và những hạn chế khuyết tật của
nền kinh tế thị trường hiện nay.
Qua quá trình phân tích nguyên nhân, hậu quả và các phương án xử lý
tình huống cụ thể trên đây, có thể đưa ra một số kiến nghị sau đây:
1. Trong công tác quản lý nhà nước về đất đai ở các địa phương hiện nay,
một số cán bộ, công chức còn thiếu trách nhiệm trong khi thi hành công vụ;
công tác quản lý, sử dụng đất đai còn buông lỏng, nên cần tăng cường công tác
bồi dưỡng nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới.
2. Xây dựng tủ sách pháp luật đầy đủ tại các trụ sở UBND xã, thị trấn. Tăng
cường pháp chế XHCN trên mọi lĩnh vưc hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước nhất là lĩnh vực đất đai.
3. Kịp thời phổ biến các văn bản quản lý Nhà nước cấp trên xuống tận cơ sở
để cấp cơ sở căn cứ vào đó mà áp dụng hoặc vận dụng vào quá trình hoạt động
quản lý hành chính Nhà nước ở cấp địa phương mình.
4. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính, đổi mới phong cách làm việc
của cán bộ, công chức nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về đất đai.
16
- Xem thêm -