THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở TẠI HUYỆN BÌNH AN HIỆN NAY
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
3
II. PHẦN NỘI DUNG
4
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀNGHIÊN CỨU
4
1. Khái niệm, phân loại, vai trò, yêu cầu
7
1.1. Quan niệm về công chức tại Việt Nam
7
1.2. Phân loại công chức
8
1.3 Vai trò của công chức QLNN về kinh tế
9
2. Yêu cầu đối với đội ngũ công chức QLNN về kinh tế
10
2.1. Yêu cầu về phẩm chất.
10
2.2. Yêu cầu về năng lực
11
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở TẠI HUYỆN BÀU BÀNG HIỆN NAY
16
I. Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ công chức QLNN về kinh
tế tại huyện Bàu Bàng tỉnh Bình Dương
16
1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội
16
1.2. Hạ tằng kỷ thuật
18
1.3. Công nghiệp - Đô thị
19
1.4. Thương mại – Dịch vụ
19
1.5 Nông nghiệp
19
1.6. Giáo dục
20
1.7. Y tế
20
2. Đặc điểm về kinh tế của huyện Bàu Bàng
21
3. Quá trình hình thành và phát triển đội ngũ công chức QLNN về kinh tế
giai đoạn 2014 – 2017
22
4. Chất lượng công chức QLNN về kinh tế ở huyện Bàu Bàng
22
5. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành trong Huyện Bàu
Bàng.
23
2
II. Thực trạng công tác đánh giá, quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý tại
huyện Bàu Bàng.
23
1. Thực trạng công tác đánh giá cán bộ giai đoạn 2014 - 2017.
23
2. Thực trạng công tác quy hoạch cán bộ quản lý huyện Bàu Bàng trong giai
đoạn 2014 – 2017
23
3. Kết quả đạt được và những vấn đề hạn chế, tồn tại của công chức quản lý
nhà nước tại huyện Bàu Bàng.
24
3.1 Kết quả đạt đươc
3.2 Hạn chế - tồn tại
25
25
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
26
III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
28
3
PHẦN MỞ ĐẦU
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém” [1] - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dạy như vậy.
Trong công tác cán bộ, đánh giá đúng cán bộ là khâu tiền đề đầu tiên để
quyết định bố trí, sử dụng cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ làm cơ sở cho việc quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, bố trí để phát huy được tiềm năng đội ngũ
cán bộ, để bản thân cán bộ có phương hướng đúng trong phấn đấu, rèn luyện; là cơ
sở để thực hiện đúng chính sách cán bộ, biểu dương, tôn vinh những cán bộ hoàn
thành xuất sắc trách nhiệm được giao, có đóng góp, có cống hiến cho đất nước, cho
địa phương, đơn vị; đồng thời phê bình những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ,
không nêu gương, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với tổ chức Đảng. Đánh giá
đúng cán bộ là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng tình đoàn kết, thống nhất
trong cơ quan, địa phương, đơn vị, góp phần ổn định chính trị, động viên, phát huy
được tính tích cực của nhân dân, cán bộ vào sự nghiệp chung. Ngược lại nếu đánh
giá sai cán bộ, nhất là người đứng đầu dễ gây ra những phân tâm trong cán bộ, ảnh
hưởng đến đoàn kết nội bộ, làm giảm lòng tin, có khi mất cả phong trào ở mỗi địa
phương, ngành, đơn vị.
Trong những năm qua đã có nhiều cấp ủy, nhiều chính quyền, người đứng
đầu các ban, bộ, ngành, địa phương, đơn vị đã làm tốt công tác đánh giá cán bộ;
nhưng trong thực tế vẫn còn một bộ phận chưa làm tốt công tác này. Đề tìm hiểu rõ
hơn về vấn đề trong bài tiểu luận này tôi sẽ đưa ra một số nội dung “phân tích, đánh
giá công chức quản lý huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương”. Trong quá trình thực
hiện tiểu luận sẽ không tránh được những thiếu sót rất mong quý Thầy, Cô Trường
Đại học Hàng Hải Việt Nam, Thầy Chủ nhiệm bộ môn, các anh,chị học viên đóng
góp ý kiến để Tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian tới./.
Trân trọng!
4
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Lý luận chung về vấn đề nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ và tiêu chuẩn để đánh giá, xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là một trong những nội dung quan trọng
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Người. Đó chính là mẫu hình của
người đứng đầu một cơ quan, đơn vị hoặc một địa phương. Theo truyền thống tốt
đẹp của mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, những tiêu chí đó đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết, bổ sung, nâng lên thành những tiêu chí lý luận để
đánh giá người cán bộ lãnh đạo.
Vấn đề đánh giá cán bộ nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý trong tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh có một vị trí cực kì quan trọng. Vì nó là điểm khởi đầu làm
cơ sở cho việc bố trí, sử dụng đúng cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: đánh
giá cán bộ là xác định đúng ai tốt, ai xấu, mặt nào mạnh, mặt nào yếu; khả năng
công tác của họ thế nào để từ đó mà bố trí, sử dụng cho "đúng người, đúng việc".
Khi đánh giá cán bộ phải có quan điểm khách quan, toàn diện, biện chứng
và làm thường xuyên để gắn với quá trình hoạt động của người cán bộ. Người cho
rằng, con người là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội khách quan, những hoàn cảnh
khách quan không tác động, tạo ra con người như mọi cá nhân giống nhau. Chính
điều đó đã tạo nên một xã hội phong phú, đa dạng với những nhân cách, hành động
khác nhau. Ví dụ: có người lúc phong trào lên thì hăng hái tham gia, lúc phong trào
cách mạng gặp khó khăn thì hoang mang, dao động, thậm chí phản bội, đầu hàng.
Những người như thế thường tỏ ra ngoan ngoãn, hăng hái nhằm che đậy việc làm
sai trái của mình. Nếu tổ chức và những người lãnh đạo không đi sâu sát, xem xét
kỹ thì sẽ có nhận xét, đánh giá cho họ là người tốt.
Điều đó thật tai hại, thậm chí gây tổn thất lớn cho Đảng, cho cách mạng.
Ngược lại có những cán bộ có thể có lúc trước đã có sai lầm, nhưng không phải họ
sai lầm mãi. Đó là người rất mực trung thành với Đảng với dân. Vậy, nếu đánh giá
theo cảm tính, mặc cảm thì sẽ không khuyến khích được cán bộ làm việc tốt. Vì
vậy, Người nhắc nhở: "Nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một
lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ..." [1].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại di sản quý báu cho Đảng ta là khoa học và
nghệ thuật đánh giá và sử dụng cán bộ. Nhấn mạnh sự cần thiết phải đánh giá cán
bộ vào những lúc cách mạng có sự chuyển giai đoạn. Người chỉ rõ có trường hợp
5
trong kháng chiến thì chiến đấu anh dũng. Nhưng khi sống trong cuộc sống thành
thị thì lại mất lập trường và sa vào con đường tội lỗi. Ngay từ lâu, Người đã cảnh
báo cán bộ chú ý bom đạn địch không nguy hiểm bằng "đạn bọc đường". Vì nó hại
mình mà mình không nhìn thấy nó. Đồng thời, Người đã chỉ ra cho cán bộ phòng
tránh và nhận diện loại cán bộ "giữ các địa vị, cố tranh cho được làm uỷ viên này,
chủ tịch kia... lo ăn ngon, mặc đẹp, lo chiếm của công làm của tư, lợi dụng địa vị và
công tác của mình mà buôn bán phát tài, lo việc riêng hơn việc công, đạo đức cách
mạng thế nào, dư luận chê bai thế nào cũng mặc" [2].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra việc đánh giá cán bộ trước hết thuộc về
Đảng. Bởi vì, Đảng ta là Đảng cầm quyền. Đảng là người lãnh đạo, tổ chức toàn bộ
quá trình cách mạng. Vì vậy, cơ quan quản lý cán bộ, cấp uỷ quản lý đảng viên có
thẩm quyền. Cán bộ cấp trên đánh giá cán bộ cấp dưới; thủ trưởng đánh giá nhân
viên. Quần chúng đánh giá cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên và cấp uỷ đánh giá
quần chúng. Sự đánh giá đó là nhiều chiều, nhiều mối quan hệ qua lại để có những
nhận xét, đánh giá xác đáng.
Người đã chỉ ra hạn chế của Đảng trong việc đánh giá cán bộ, đảng viên.
Trong "sửa đổi lối làm việc " viết vào tháng 10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
như sau: "Từ trước đến nay, Đảng ta chưa thực hành một cách thường xuyên xem
xét cán bộ. Đó là một khuyết điểm to". Như vậy, Đảng không thể không đánh giá
cán bộ một cách thường xuyên liên tục. Đồng thời, Đảng không đánh giá cán bộ là
Đảng mắc phải khuyết điểm lớn. Người yêu cầu Đảng phải "nuôi dạy" cán bộ cho
tốt, không nên "nuông chiều" hoặc"bỏ mặc cán bộ". Đánh giá cán bộ thuộc về trách
nhiệm của chính đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp uỷ các cấp. Đánh giá cán bộ
phải là người đủ tư cách, có trách nhiệm, có lương tâm. Người làm công tác tổ
chức, đánh giá cán bộ thì trước tiên phải biết tự đánh giá mình một cách đúng đắn.
Bởi vì có một lô gic và biện chứng: "Nếu không biết sự phải trái ở mình thì chắc
không thể nhận rõ cán bộ tốt hay xấu". Người đã vạch ra và phê phán một số chứng
bệnh của cán bộ lãnh đạo khi đánh giá cán bộ cấp dưới như: tự cao tự đại, ưa phỉnh
nịnh, đem lòng yêu, ghét hoặc hẹp hòi, ích kỷ cá nhân mà gán ghép cho mọi người.
Vậy, muốn đánh giá đúng cán bộ, người cán bộ lãnh đạo cấp trên phải biết tự sửa
mình trước để hoàn thiện mình; và khi người lãnh đạo càng ít khuyết điểm thì cách
xem xét cán bộ càng đúng đắn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Biện pháp quan trọng khi đánh giá cán bộ
là đánh giá, chọn lọc cán bộ một cách khách quan. Mặt khác, khi đánh giá cán bộ là
dựa vào tinh thần tự phê bình và phê bình. Đó là tinh thần tự kiểm điểm phê bình
6
của cá nhân người cán bộ lãnh đạo; sau đó được tập thể cấp uỷ và đơn vị góp ý kiến
xây dựng theo tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng. Có như vậy mới tránh được
bệnh chủ quan, phiến diện trong việc đánh giá cán bộ .
Khi đề cập đến tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ, Người cho rằng: "cán bộ nào,
phong trào ấy". Đó chính là xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác, lao động và
học tập mà người cán bộ tham gia. Người cũng chỉ rõ: Nếu một đơn vị, một địa
phương kém thì khó có thể đánh giá có một đội ngũ cán bộ tốt. Còn thường khi có
một đội ngũ cán bộ tốt thì dứt khoát là đơn vị hoặc địa phương đó sẽ vững mạnh và
khá tốt. Cụ thể khi đánh giá về tiêu chuẩn người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: phải là người có đủ đức, tài. Đồng thời, Người cũng nêu rõ mối quan hệ biện
chứng của hai yếu tố đó: Có tài mà không có đạo đức cách mạng thì tài giỏi đến
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Ngược lại, có đạo đức tốt nhưng không
có tài thì làm việc gì cũng khó. Người nêu cao giá trị truyền thống của dân tộc đó là
cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Đó chính là phẩm chất quan trọng hàng đầu
đối với bất kỳ một người cán bộ nào trong tất cả các tiến trình của lịch sử cách
mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt và nghiêm khắc chỉ ra nguy
cơ tham nhũng - một "bệnh" nguy hiểm của một bộ phận cán bộ có chức có quyền,
làm hỏng đội ngũ cán bộ cách mạng. Vì vậy, Người đã cảnh báo để cán bộ cảnh
giác đề phòng và nên tránh xa những hiện tượng tiêu cực đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định có đánh giá đúng cán bộ mới có cơ sở để bố
trí, sử dụng cán bộ đúng vào những công việc và vị trí phù hợp. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh cho rằng: Người làm việc ở cơ quan đánh giá cán bộ nhất là những người
đứng đầu phải là người có phẩm chất đạo đức trong sáng, gương mẫu, có tinh thần
tự phê bình và phê bình đúng đắn. Người chỉ rõ: "muốn biết rõ cán bộ, muốn đối
đãi một cách đúng đắn các hạng người, trước hết phải sửa những khuyết điểm của
mình.[3]. Người còn dạy rằng: trong việc đánh giá, nhận xét cán bộ. " Chẳng những
xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối với người khác như thế
nào. Ta nhận họ tốt, còn phải xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay không "[4].
Trong quá trình đánh giá cán bộ cũng cần phải tính đến lợi ích của Đảng,
của dân tộc. Bởi vì, bất kỳ việc đánh giá một cán bộ lãnh đạo, quản lý nào cũng đều
nhằm thực hiện phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho một yêu cầu nào đó. Như vậy
việc đánh giá cán bộ mới có ý nghĩa. Song cũng với yêu cầu này mà công tác đánh
giá cán bộ thực hiện tốt trong những năm qua. Chẳng hạn như muốn đề bạt, bổ
nhiệm hoặc luân chuyển cán bộ thì phải thực hiện việc đầu tiên là lên kế hoạch,
đánh giá, nhận xét về một cán bộ nào có những mặt mạnh, mặt yếu nào. Từ đó mới
7
sắp xếp, luân chuyển vào vị trí công tác thì mới phù hợp. Nhất là ở những cương vị
chủ chốt phải lãnh đạo, quản lý những lĩnh vực yêu cầu chuyên môn, sở trường thì
nhất thiết phải nắm, hiểu được khả năng chuyên môn của cán bộ đó đến mức độ
nào để có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Như vậy, đánh giá cán bộ còn phải do yêu cầu công việc, lợi ích của Đảng,
nhân dân để đánh giá, luân chuyển cán bộ, đưa cán bộ vào vị trí công việc mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhắc nhở: "cất nhắc cán bộ phải vì công tác, tài năng, vì
cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, nhất định công việc chạy. Nếu
vì lòng yêu ghét, vì thân thích nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối
lôi thôi trong Đảng. Như thế là có tội với đồng bào" [5]. Từ cơ sở lý luận đến thực
tiễn cho thấy: việc đánh giá cán bộ có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng nhưng để
đánh giá được đúng cán bộ cũng là một việc vô cùng khó khăn. Hồ Chủ tịch cũng
đã đề cập đến vấn đề này và khẳng định: "biết người cố nhiên là rất khó".
Trong thời gian qua, thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong
xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhận xét đánh giá cán
bộ ngày càng dân chủ, khách quan, công khai hơn trước. Nhưng vẫn còn là việc
đánh giá chung chung ở một số cơ quan cấp uỷ đảng và chủ yếu nêu ưu điểm. Có
tình trạng còn né tránh. Việc đánh giá cán bộ hàng năm có khi chưa được bổ sung
lưu giữ vào hồ sơ cán bộ. Như vậy, vô hình chung là đã buông lỏng quản lý cán bộ,
theo dõi cán bộ sẽ không được liên tục, hệ thống và sẽ khó khăn cho việc đề bạt, bổ
nhiệm hoặc điều động, luân chuyển cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận xét
rõ ràng. Chẳng những xem xét công tác của họ mà còn phải xét cách sinh hoạt của
họ. Chẳng những phải xem xét cách nói, cách viết của họ mà còn phải xem xét việc
làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không. Phải biết ưu điểm của
họ, mà cũng phải biết khuyết điểm của họ, không nên chỉ xem công việc của họ
trong một lúc, mà phải xem công việc của họ từ trước đến nay. Biết rõ ràng cán bộ,
mới có thể cất nhắc cán bộ một cách đúng mực "[6].
1. Khái niệm, phân loại, vai trò, yêu cầu
1.1. Quan niệm về công chức tại Việt Nam
Công chức là một khái niệm đã xuất hiện lâu đời (vào cuối thế kỷ XIX). Ở
Việt Nam, khái niệm công chức xuất hiện vào năm 1950, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc
lệnh số 76/SL về việc ban hành Quy chế công chức vào ngày 20/5/1950. Theo đó,
công chức được hiểu là “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân
8
tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong hay
ngoài nước đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường hợp do Chính phủ
quy định”. Sắc lệnh 76 quan niệm về công chức rất hẹp, chỉ bao gồm những người
làm việc cho các cơ quan của Chính phủ.
Trong những năm xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước
nhà và ngay cả sau ngày đất nước thống nhất (1975), nhà nước ta thực hiện cơ chế
nhân sự theo khối thuộc các nước XHCN Liên Xô và Đông Âu. Tất cả những người
làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
đơn vị tổ chức sản xuất kinh doanh của nhà nước đều được gọi chung là cán bộ
công nhân viên chức.
Theo quan điểm này thì khái niệm công chức không được xác định. Cán bộ,
công nhân viên là những người được tuyển dụng, giao giữ một nhiệm vụ, trong
biên chế nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, làm việc trong các cơ
quan Đảng, đoàn thể, nhà nước, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước và các
tổ chức xã hội mà nhà nước cấp biên chế. Cán bộ và nhân viên trong thời kỳ này
được phân biệt thông qua trình độ và tuyển dụng thông qua cơ chế xét tuyển.
Những người có trình độ từ trung cấp trở lên gọi là cán bộ, còn lại những người có
trình độ thấp hơn gọi là nhân viên.
Từ khi đất nước đổi mới, quan niệm về công chức được định hình lại.
“Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ
thường xuyên trong một công sở nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong
nước hay ngoài nước đã được xếp vào một ngạch công chức, bậc công chức, được
hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp” (Điều 1 Nghị định 169/1990/NĐ-HĐBT
ngày 25/5/1991 về công chức nước CHXN Việt Nam).
1.2. Phân loại công chức
Quan niệm công chức QLNN về kinh tế
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thỡ một số đối tượng
công chức được quan tâm và có vai trò hết sức quan trọng gúp thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của đất nước đó chính là đội ngũ công chức QLNN về kinh tế. Các
công chức QLNN về kinh tế mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của một công
chức nói chung và họ là những công chức làm việc trong lĩnh vực QLNN về kinh tế
thuộc bộ máy hành chính nhà nước.
Theo quy định của pháp luật, công chức làm việc ở các cơ quan, lĩnh vực
khác nhau, để phục vụ cho việc nghiên cũng như QLNN đối với công chức, đó có
9
những cách phân loại công chức theo từng hệ tiêu chí. Các tiêu chí phân loại này áp
dụng với cả công chức nói chung và công chức QLNN về kinh tế nói riêng.
- Phân loại theo vị trí công tác của công chức, bao gồm:
+ Công chức lãnh đạo, đây là đội ngũ công chức có vị trí đặc biệt quan
trong trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, là người đứng đầu tổ
chức kinh tế của nhà nước, có thẩm quyền ra các quyết định quản lý trong lĩnh vực
do mình phụ trách và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định hành
chính và hành vi hành chính của mình. Bên cạnh đó, họ cũng là người đại diện cho
quyền lợi hợp pháp của tập thể nguời lao động mà họ lãnh đạo. Trách nhiệm của
các công chức lãnh đạo về kinh tế là giải quyết những vấn đề chung cho sự phát
triển của cả hệ thống mà họ thực hiện chức năng quản lý, họ tập trung thực hiện
những vấn đề chính yếu và mang tầm vĩ mô.
+ Công chức chuyên môn - chuyên gia, đây là những người được đào tạo
chuyên môn và có sự am hiểu sâu sắc về một lĩnh vực chuyên môn nào đó, họ là các
chuyên viên đảm trách các vấn đề về chuyên môn. Các chuyên gia này ngày càng có
vai trũ quan trọng trong bộ máy QLNN về kinh tế và họ là những người tham mưu,
giúp việc cho công chức lãnh đạo trong quá trỡnh ra quyết định quản lý.
+ Nhân viên tác nghiệp trực tiếp, đây là đội ngũ công chức có mặt ở hầu
hết các cấp quản lý kinh tế khác nhau, các khâu khác nhau của quá trình quản lý.
Họ là những người tinh thông nghiệp vụ, trực tiếp tham gia vào các công việc cụ
thể và họ là người chuẩn bị các thông tin đầy đủ và chính xác cho các chuyên gia
và các công chức lãnh đạo trong việc ra các quyết định quản lý.
1.3 Vai trò của công chức QLNN về kinh tế
Trong hoạt động QLNN núi chung và hoạt động QLNN về kinh tế nói riêng
thì nhân tố con người là một trong 5 yếu tố có tính chất quyết định đến hiệu lực và
hiệu quả của quá trình quản lý. Xét cả về mặt lý luận và thực tế tfhi yếu tố con
người được coi là yếu tố quan trọng nhất vì con người là mục tiêu vừa là động lực
chính của sự phỏt triển xã hội, đồng thời con người cũng là mục đích của hoạt động
quản lý. Trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, con người luôn được đặt
vào vị trí trung tâm của mọi sự thay đổi vì nó được xem là nguồn lực quan trọng
khai thông mọi nguồn lực khác.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của thế giới, nhiều quốc gia
đã nhận ra một vấn đề mang tính nền tảng, đó là nhân tố con người. Vị trí quan
trọng của con người trong chiến lược phát triển kinh tế sôi động của các quốc gia
10
đó trong những năm qua đã được khẳng định và đã ghi nhận một nguyên lý: “Ngày
nay, mức độ giàu nghèo của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào tài nguyên mà
còn phụ thuộc vào lao động trí tuệ, vào sự chuẩn bị về đội ngũ lao động, hệ thống
đào tạo, trình độ văn hoá và dân trí. Trong sự phát triển sôi động ấy có ba nhân vật
trung tâm quyết sự thành đạt, thịnh vượng hay trì trệ của một quốc gia là: “Chính
khách, đội ngũ chuyên gia và cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế”. Rõ ràng nhân tố con
người nói chung, cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng là vấn đề quan trọng, nhân tố
quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia và theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Bất cứ chính sách công tác gì nếu
có cán bộ tốt thì thành công" [7].
Sự thành công hay thất bại của các hoạt động kinh tế suy cho cùng là do
con người quyết định. Sự vận hành của hệ thống các chính sách và công cụ quản lý
kinh tế vĩ mô được tiến hành trong khuôn khổ hệ thống thể chế và phụ thuộc vào
guồng máy hoạt động của bộ máy nhà nước. Công chức quản lý kinh tế là người
vận hành, điều khiển và thực thi chính bộ máy đó.
Nói cách khác, tính hiệu quả của hệ thống các chính sách, công cụ quản lý
kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào 2 điều kiện cơ bản:
- Thứ nhất, cơ chế vận hành của nền kinh tế.
- Thứ hai, khả năng và trình độ của đội ngũ công chức quản lý .
Hai yếu tố này có mối quan hệ tương tác với nhau và có liên quan tới hàng
loạt các nhân tố kỹ thuật, văn hoá, xã hội, trong đó khả năng trình độ của đội ngũ
công chức quản lý kinh tế đóng vai trò quyết định nhất [8].
Quan hệ của công chức quản lý kinh tế với cơ chế quản lý là mối quan hệ
phức tạp. Công chức quản lý trực tiếp tạo lập ra cơ chế quản lý nhưng đến lượt nó,
cơ chế quản lý lại tác động trở lại, chi phối việc hình thành, phát triển bộ máy và
cán bộ. Cơ chế quản lý dân chủ, khoa học là sản phẩm của trí tuệ. Nó phát huy
được mọi khả năng sáng tạo, tái sản xuất ra bộ máy và công chức quản lý tài năng,
hiệu quả bộ máy và cán bộ đó lại tiếp thu, hoàn thiện cơ chế quản lý dân chủ, khoa
học hơn. Ngược lại cơ chế quản lý quan liêu là sản phẩm của bộ máy, cán bộ quan
liêu nó cản trở mọi tài năng sáng tạo, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của cả
đất nước. Bộ máy cán bộ quan liêu lại tiếp tục sản xuất ra cơ chế quản lý quan liêu,
thiếu dân chủ. Đó là cái vòng luẩn quẩn rất nguy hiểm, có thể làm cho đất nước trì
trệ kém phát triển, thậm chí dẫn đến khủng hoảng và suy tàn. Do nhiều nguyên
nhân, nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là sự tồn tại của cơ chế quan liêu. Cuộc đấu
11
tranh gay go quyết liệt giữa hai xu hướng đổi mới và trì trệ, tích cực và tiêu cực,
được biểu hiện dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau trong tất cả lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội. Đó cũng là cuộc đấu tranh trong đội ngũ công chức quản
lý , thậm chí là sự đấu tranh trong bản thân mỗi người cán bộ. Hiện nay xu hướng
tích cực, đổi mới theo quan điểm đúng đắn của Đảng đã được khẳng định, thành
một xu thế tất yếu nhưng vẫn còn những hạn chế, chưa đồng bộ đang đòi hỏi phải
được bổ sung hoàn thiện và tiếp tục cải cách một cách mạnh mẽ hơn, triệt để hơn.
Điều đó đặt ra yêu cầu rất nặng nề, và cấp bách đối với đội ngũ công chức quản lý
kinh tế.
- Công chức quản lý trực tiếp thực hiện và góp phần hoàn thiện đường lối
đổi mới. Xây dựng đường lối đổi mới đã là quan trọng, nhưng thực hiện đường lối
đó, biến thành những kết quả hiện thực trong đời sống xã hội lại càng quan trọng
hơn. Nếu không được triển khai thực hiện tốt thì những quan điểm đường lối đúng
đắn đó vẫn chỉ là những ý tưởng, sự mong muốn tốt đẹp. Ở CHNCND Lào hiện
nay, cơ chế quản lý kinh tế cũ đã căn bản bị xoá bỏ, nhưng cơ chế thị trường chưa
phát triển đầy đủ, chưa đồng bộ nờn cũn nhiều rối loạn và nhiều tiêu cực. Cơ chế
quản lý mới đang hình thành và trong tình trạng vận động, phát triển. Quan điểm
đổi mới kinh tế mới là tầm định hướng lớn, quá trình triển khai đòi hỏi tính chất thử
nghiệm, cần có những điều chỉnh, sửa sai rất quan trọng. Đây là một thực tế rất khó
khăn phức tạp, đòi hỏi đội ngũ công chức quản lý kinh tế, những người trực tiếp
triển khai, thực hiện đường lối đổi mới phải biến đường lối thành hiện thực vừa góp
phần quan trọng vào điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới. Trong điều
kiện đó hiệu lực của bộ máy và năng lực của công chức quản lý trực tiếp quyết
định sự thành công của công cuộc đổi mới.
- Công chức quản lý kinh tế trực tiếp tạo lập môi trường, sử dụng các công
cụ kinh tế quan trọng để tác động, quản lý, điều tiết nền KTTT. Trong cơ chế cũ sự
tác động này chủ yếu bằng mệnh lệnh, kế hoạch tập trung cao độ, sự hoạt động của
nền kinh tế phụ thuộc vào công tác kế hoạch, không có và không cần các công cụ
điều tiết, thực lực kinh tế theo đúng nghĩa đầy đủ. Chuyển sang nền kinh tế nhiều
thành phần, sự tác động, quản lý, điều tiết nền kinh tế chủ yếu phải là sự tác động
kinh tế, vừa phải tạo môi trường vừa phải sử dụng các công cụ quản lý kinh tế quan
trọng như tài chính, tiền tệ, doanh nghiệp lớn để điều tiết sự vận động của toàn bộ
nền kinh tế. Định hướng phát triển và hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế
trực tiếp do việc sử dụng các công cụ, nguồn lực kinh tế chi phối và việc điều
chỉnh, vận động hàng ngày của đời sống kinh tế - xã hội.
12
2. Yêu cầu đối với đội ngũ công chức QLNN về kinh tế
2.1. Yêu cầu về phẩm chất.
Được thể hiện trên 2 mặt: phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức.
a. Về phẩm chất chính trị
Biểu hiện phẩm chất chính trị của các cán bộ lãnh đạo về kinh tế là phải
nắm vững, quán triệt được quan điểm, đường lối phát triển kinh tế xã hội, xây dựng
CNXH theo quan điểm đổi mới của Đảng. Ở từng cấp quản lý, phải biết cụ thể hoá
đường lối, quan điểm vào nội dung quản lý, biểu hiện ở việc làm, kết quả cụng hiến
vào sự phát triển kinh tế của từng vùng, từng ngành, từng địa phương trong sự phát
triển kinh tế của đất nước. Mặt khác, khi xem xét đánh giá phẩm chất chính trị của
từng công chức quản lý phải dựa vào việc xem người đó đó đóng góp, cống hiến
được gì vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cho nhân dân, cho ngành,
các yêu cầu về phẩm chất chính trị cho mỗi công chức quản lý cần phải có là:
- Phải có quan điểm, lập trường chính trị vững vàng, có bản lĩnh và kiên
định trong tư tuởng và các công việc được giao.
- Có ý chí và khả năng làm giầu cho cá nhân, tập thể và cho cả xã hội.
- Có khả năng tự hoàn thiện, tự quản lý, tự đánh giá kết quả công việc của
bản thân đánh giá con người trong tổ chức do mình quản lý theo những tiêu chuẩn
về phẩm chất chính trị.
b. Về phẩm chất đạo đức
Một người cán bộ, lãnh đạo về kinh tế, trước hết phải sống và làm việc theo
những tiêu chuẩn đạo đức của một công dân, phải lấy tiêu chuẩn đạo đức là sống và
làm việc theo pháp luật và những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản trong xã. Đồng thời
với vai trò của một người cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên môn về kinh tế, tư cách
là nhà lãnh đạo phải chăm lo công việc của đơn vị do mình quản lý, họ phải là tấm
gương cho người dưới quyền, người lao động và nhân dân nói chung noi theo, do
đó đòi hỏi mỗi công chức quản lý kinh tế phải là người liêm khiết, khiêm tốn,
trung thực, thắng thắn, không vụ lợi, thực hiện sự bình đẳng giữa cống hiến và
hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm.
13
2.2. Yêu cầu về năng lực
Năng lực là khả năng hoàn thành có kết quả một loại hoạt động nhất định.
Năng lực công chức quản lý kinh tế phải có là năng lực chuyên môn và năng lực tổ
chức quản lý.
a. Về năng lực chuyên môn
Khi chuyển sang nền KTTT, có rất nhiều sự thay đổi và nó cũng đặt ra rất
nhiều thách thức, do đó đòi hỏi những nhà quản lý kinh tế phải có chuyên mụn mới
có thể thực hiện có hiệu lực, hiệu quả công việc của mình.
Trước hết, công chức quản lý kinh tế phải cú kiến thức chuyên môn về lĩnh
vực được giao quản lý, nhờ đó họ biết tập hợp các chuyên gia giỏi giao đúng việc
và tạo điều kiện cho họ phát huy khả năng chuyên môn của mình.
Đồng thời họ phải có kiến thức về KTTT, nắm vững bản chất cũng như cơ
chế vận động của nền kinh tế đó, nắm vững và có thể sử dụng các công cụ điều tiết
thị trường trong quá trình quản lý của mình cũng như trong quá trình ra quyết định
quản lý, họ sẽ có được sự quyết định đúng đắn nhất trên cơ sở các quyết định đó
xuất phát từ thực tế sản xuất, kinh doanh, thực tế địa phương, thực tế đời sống kinh
tế - xã hội, tránh giáo điều, sách vở.
b. Về năng lực tổ chức quản lý
Đội ngũ công chức quản lý là những người trực tiếp tổ chức, điều hành bộ
máy quản lý để phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác tiến hành các hoạt động
kinh tế cụ thể. Do đó, đối với mỗi công chức quản lý về kinh tế cần có những yêu
cầu cụ thể về năng lực quản lý và tổ chức, năng lực này thể hiện trên một số khía
cạnh như năng lực thực tế, năng lực phân tích các tình huống quản lý, năng lực ra
quyết sách và giải quyết các vấn đề, năng lực phối hợp hành động. Do đó khi là
công chức quản lý về kinh tế thì phải là người có bản lĩnh, kiên quyết, nhạy bén,
linh hoạt, khả năng quan sát, đặc biệt là phải có khả năng khái quát hoá mọi vấn đề
trong phạm vi quản lý và tổ chức do mình quản lý. Là người năng động, sáng tạo,
tháo vát, nhanh nhạy, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, biết lường trước
mọi tình huống có thể xảy ra để tận dụng mọi thời cơ thuận lợi cho tổ chức. Công
chức quản lý kinh tế ở góc độ quản lý tổ chức phải biết sử dụng và khai thác triệt
để mọi tiềm năng của tổ chức, đoàn kết được mọi người trong tổ chức hoạt động
hết mình vì mục tiêu chung [28].
14
Ngoài ra, các công chức quản lý kinh tế ở từng cấp, từng ngành khác nhau
cần phải có kiến thức khác nhau theo từng lĩnh vực chuyên môn.
Trong trường hợp người công chức quản lý kinh tế được đào tạo từ các
trường không thuộc khối kinh tế nhưng khi làm các nhiệm vụ quản lý kinh tế thì
phải được bồi dưỡng, đào tạo để bổ sung kiến thức về quản lý kinh tế trước khi bổ
nhiệm vào các chức vụ quản lý kinh tế, mức độ đào tạo, bồi dưỡng này tuỳ thuộc
vào vị trí, yêu cầu của những vị trí được bổ nhiệm.
Ngoài những kiến thức chung nhất về quản lý kinh tế thì đối với mỗi một
đối tượng cụ thể cần xác định rõ cơ cấu kiến thức dành cho từng đối tượng. Chẳng
hạn đối với những người quản lý những đơn vị có tính chất đa ngành thì họ phải
được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức rộng, bao quát, có khả năng xây dựng chiến lược
và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, hoạch định chính sách quản lý
kinh tế, phương hướng đầu tư, hay nói cách khác họ phải có kiến thức liên ngành,
trang bị đầy đủ kiến thức về cả kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô. Đối với những
người quản lý ở những đơn vị sản xuất kinh doanh cụ thể thì họ phải có những kiến
thức về quản trị kinh doanh cụ thể.
+ Về trình độ chuyên môn và cơ cấu
Nhìn chung, đội ngũ công chức quản lý về kinh tế phải có trình độ tối thiểu
là tốt nghiệp đại học và phải được bồi dưỡng về kiến thức khoa học quản lý. Đồng
thời tuỳ thuộc vào chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng cấp, ngành để quy định cơ
cấu trỡnh độ chuyên môn.
+ Về cơ cấu
- Cơ cấu về độ tuổi phải bảo đảm sự kế tiếp liên tục giữa các thế hệ, không
để tỡnh trạng cú sự hụt hẫng, xa cách giữa cỏc thế hệ trong tổ chức, và thiếu những
thế hệ kế cận.
- Cơ cấu về giới tính cần bảo đảm tỷ lệ nữ thích hợp trong các cơ quan quản
lý về kinh tế.
- Cơ cấu về thành phần dân tộc, nhất là tại các địa phương có nhiều dân tộc
khác nhau.
- Cơ cấu về phân bổ hợp lý đội ngũ công chức quản lý kinh tế ở các ngành,
các cấp và các vựng lãnh thổ khác nhau.
- Cơ cấu ngành nghề đào tạo ở từng cơ quan quản lý kinh tế ở trung ương
và địa phương.
15
2.3 Yêu cầu về tác phong làm việc
- Nghiêm túc trong công việc và thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, những
vấn đề quan trọng, công chức của ngành cần phải được thông qua, bàn bạc trong
ban lãnh đạo, có sự phân công công việc, giao quyền và nghĩa vụ cho từng người
một cách rõ ràng.
- Làm việc có kế hoạch, có trọng điểm, có mục tiêu và tạo điều kiện trong
việc tổ chức thực hiện, có sự kiểm tra và tổng kết đánh giá công việc, rút kinh
nghiệm nhằm phát huy những mặt tốt, khắc phục những mặt yếu kém một cách kịp
thời.
- Biết phối hợp sự lãnh đạo của Đảng với việc tăng cường tính nghiêm minh
của tổ chức chính quyền nhà nước và phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng,
kết hợp sự lãnh đạo theo ngành chiều dọc với trách nhiệm của tổ chức theo chiều
ngang nhằm làm cho công việc được thực hiện một cách linh hoạt.
- Biết lắng nghe ý kiến, gần gũi và biết học hỏi quần chúng, biết chăm lo và
nâng cao đời sống cả về mặt vật chất và mặt tinh thần của quần chúng.
16
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KINH TẾ Ở TẠI HUYỆN BÀU BÀNG HIỆN NAY
I. Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ công chức QLNN về
kinh tế tại huyện Bàu Bàng tỉnh Bình Dương
1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội
1.1. Về vị trí địa lý:
Bàu Bàng có diện tích 340,02 km2, nằm ở phía Bắc tỉnh Bình Dương cách
trung tâm tỉnh lỵ 30km, Tp HCM 60 km, các cảng Sông Đồng Nai 40-50km, sân
bay Long Thành (Chính phủ đang nghiên cứu đầu tư) 80 km, cảng Cái Mép - Thị
Vải khoảng 100km.
Khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa trong năm (mùa mưa và mùa khô).
Nhiệt độ từ 18oC-38oC, thời tiết thuận lợi, ít bị ảnh hưởng bởi thiên tai.
Địa hình bằng phẳng, nền đất cứng, nguồn nước dồi dào phù hợp cho phát
triển công nghiệp và nông nghiệp kỹ thuật cao.
Hệ thống giao thông thuận lợi gồm: đường Quốc lộ 13 thuộc đường loại I
quy mô 6 làn xe, các tuyến đường trong Khu Công nghiệp và Đô thị Bàu Bàng
được đầu tư hoàn chỉnh, kết nối đồng bộ
Cùng với đó là các tuyến đường tỉnh như: ĐT750, ĐT 749A, ĐT749C,
ĐT741B và các tuyến đường huyện đã được bê tông nhựa hóa kết nối thông suốt,
thuận lợi cho giao thương, buôn bán.
Trong tương lai, sẽ đầu tư thêm các tuyến đường: Đường Hồ Chí Minh sẽ
được đầu tư hoàn chỉnh (ở phía Bắc của huyện), đường tạo lực Mỹ Phước – Bàu
Bàng đi qua Khu Công nghiệp và Đô thị Bàu Bàng kết nối đến đường Hồ Chí
Minh, đường ĐT741B nâng cấp mở rộng thành đường vành đai 5 với quy mô 6 làn
xe qua Khu Công nghiệp Tân Bình, đường nhánh Hồ Chí Minh qua xã Lai Uyên,
Tân Hưng kết nối vào đường Mỹ Phước - Bàu Bàng, đường Bàu Bàng - Phú Giáo Bắc Tân Uyên kết nối với cảng Logistics Tân Uyên, đường xe lửa Sài Gòn - Lộc
Ninh, tuyến metro Thành phố mới Bình Dương – Bàu Bàng. [10]
1.2. Hạ tằng kỷ thuật
- Điện lưới quốc gia đã phủ khắp địa bàn huyện, hiện nay, ngoài trạm biến
áp 220KV trong Khu Công nghiệp và Đô thị Bàu Bàng thì trạm biến áp 110KV và
17
220KV cũng đang được đầu tư đáp ứng đầy đủ nguồn điện cho nhu cầu sản xuất và
sinh hoạt.
- Thông tin liên lạc đã được đầu tư đồng bộ và bao phủ khắp địa bàn với các
nhà mạng như: Vinaphone, Mobiphone và Viettel
- Cung cấp nước sạch: Hiện có Trạm cấp nước công suất 680 m3/ngày đêm
xã Trừ Văn Thố, Nhà máy nước Bàu Bàng công suất 5.000 m3/ngày đêm tại Khu
Công nghiệp và Đô thị Bàu Bàng và đang triển khai xây dựng nâng công suất lên
30.000 m3/ngày đêm, sẽ đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sạch cho các khu công
nghiệp và nhân dân các vùng lân cận.
1.3. Công nghiệp - Đô thị
Công nghiệp hiện nay, có 02 Khu Công nghiệp:
- Khu Công nghiệp và Đô thị Bàu Bàng diện tích 2.166 ha (1.000 ha đất
công nghiệp và 1.166 ha đất đô thị, dịch vụ) đã được đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng kỹ
thuật, diện tích 1.000 ha đất công nghiệp cơ bản được lấp đầy và đã khởi công đầu
tư mở rộng 1.000 ha đất công nghiệp (893ha thuộc huyện Bàu Bàng).
- Khu Công nghiệp Tân Bình diện tích 352,49 ha (95,18 ha thuộc huyện
Bàu Bàng) đã được đầu tư cơ sở hạ tầng sẵn sàng đón các nhà đầu tư, định hướng
sẽ mở rộng thêm 800 ha về hướng Bàu Bàng (qua 02 xã Hưng Hòa và Tân Hưng)
Ngoài ra còn có 02 Khu Công nghiệp Lai Hưng (600ha), Khu Công nghiệp
Cây Trường (700ha) đã có chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ và hiện
Huyện và Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển công nghiệp - TNHH MTV
(BECAMEX IDC CORP) đang xúc tiến triển khai thực hiện. [11]
1.4. Thương mại – Dịch vụ
Hiện có Bến xe khách Bàu Bàng hoạt động vận chuyển hành khách và hàng
hóa nội tỉnh và liên tỉnh; 09 chợ nông thôn phân bổ đều trên địa bàn các xã và 04
phòng giao dịch ngân hàng: SACOMBANK, AGRIBANK, BIDV,
VIETCOMBANK.
1.5 Nông nghiệp
Quỹ đất nông nghiệp với diện tích 58.536,5 ha chiếm 83,9% diện tích đất tự
nhiên, cùng với nguồn nước dồi dào, đáp ứng cho đầu tư nông nghiệp kỹ thuật công
nghệ cao, nhất là đầu tư theo hình thức trang trại.
18
Đến 31/10/2016, toàn huyện có 286 trang trại (171 trang trại chăn nuôi heo,
115 trang trại chăn nuôi gà) và đã có 12 cơ sở được chứng nhận VietGaph (02 trang
trại trồng trọt, 10 trang trại chăn nuôi). [12]
1.6. Giáo dục
Hệ thống giáo dục được quan tâm đầu tư hoàn chỉnh từ Mầm non đến
Trung học phổ thông gồm 31 trường (03 trường ngoài công lập) và đã có 17 trường
đạt chuẩn quốc gia). Hầu hết các trường đều được đầu tư xây dựng hiện đại, trang
thiết bị dạy và học được trang bị đầy đủ đồng bộ đáp ứng nhu cầu học tập của con
em nhân dân trong huyện và công nhân lao động.
1.7. Y tế
Tất cả 7/7 xã có Trạm Y tế đạt chuẩn và có bác sĩ khám chữa bệnh. Trung
tâm Y tế huyện đã được đầu tư cơ bản đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh.
Bệnh viện huyện - quy mô 100 giường bệnh đang trong giai đoạn chuẩn bị
đầu tư.
Về hành chính và dân số: Huyện Bàu Bàng có 7 xã, 43 ấp với 92.558 nhân
khẩu
Bảng 2.1. Phân bố dân số của Huyện năm 2016
Đơn vị tính: người
TT
Tên xã
Nam
Nữ
Tổng cộng
Tỷ lệ
1.
Long Nguyên
8.153
7.166
15.319
16.55
2.
Lai Hưng
6.086
4.890
10.976
11.86
3.
Lai Uyên
11.082
10.252
21.334
23.05
4.
Tân Hưng
5.355
4.664
10.019
10.82
5.
Hưng Hòa
6.217
5.569
11.786
12.73
6.
Cây Trường
5.045
4.317
9.362
10.11
7.
Trừ Văn Thố
7.280
6.482
13.762
14.87
Tổng cộng
49.218
43.340
92.558
100
2. Đặc điểm về kinh tế của huyện Bàu Bàng
19
Trong giai đoạn 2015 - 2017, giá trị sản xuất ngành công nghiệp huyện Bàu
Bàng (theo giá so sánh 2014) đạt 15.804 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân giai đoạn
2015 - 2017 là 9,74%; giá trị sản xuất (theo giá thực tế) ước đạt 20.673 tỷ đồng, tốc
độ tăng trưởng bình quân là 19,69%. Toàn huyện có 226 dự án trong nước với tổng
vốn đăng ký trên 3.251 tỷ đồng và 39 dự án nước ngoài với tổng vốn đăng ký hơn
355,648 triệu đô la Mỹ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 2.543 tỷ đồng, tốc độ
tăng trưởng bình quân 21,63%; dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 666 tỷ đồng, tốc
độ tăng bình quân 20,83%.
Tính đến nay, huyện Bàu Bàng có 525 dự án đầu tư trong và ngoài nước với
tổng số vốn đăng ký 2,152 tỷ USD và 24.909 tỷ đồng. Cụ thể, giá trị sản xuất công
nghiệp của huyện trong 6 tháng đầu năm 2017 ước đạt 3.705,9 tỷ đồng, tăng 9,4%
so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu kinh tế khác cũng tăng trưởng
khá, như tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng toàn huyện ước
đạt 1,512,8 tỷ đồng, tăng 20,88% so với cùng kỳ; giá trị sản xuất nông nghiệp ước
đạt 893,4 tỷ đồng, tăng 1,47% so với năm 2016.Tiếp tục mời gọi đầu tưNgoài việc
đầu tư cơ sở hạ tầng tạo động lực thu hút các nhà đầu tư, huyện Bàu Bàng cũng đã
chuẩn bị kế hoạch tiếp tục phát triển thêm 1.300 ha đất công nghiệp ở 2 xã Lai
Hưng và Cây Trường theo điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp
tỉnh Bình Dương đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Để tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư, huyện đang trình cấp có thẩm quyền mở rộng Khu
công nghiệp Tân Bình thêm 1.055 ha về phía 2 xã Tân Hưng và Hưng Hòa.
- Về nông nghiệp: hiện nay cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện chuyển
dịch theo hướng sản xuất hàng hóa có giá trị và chất lượng cao, từng bước giảm
dần tỷ trọng trồng trọt và tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi. Năm 2015, giá trị sản xuất
nông nghiệp của huyện thực hiện 1.698,9 tỷ đồng; giá trị sản lượng bình quân trên
1 ha đất canh tác đạt 64,5 triệu đồng. [13]
Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương của huyện về phát triển kinh tế trang trại
theo hướng tập trung…, nhiều chủ trang trại và hộ dân đã mạnh dạn đầu tư chuồng
trại với thiết bị hiện đại như máng ăn, máng uống tự động, đầu tư công nghệ sau
thu họach, hệ thống nhà lưới thủy canh, hệ thống tưới phun sương tự động… để sản
xuất chăn nuôi, trồng trọt theo hướng ứng dụng công nghệ cao. Trong số 267 trang
trại trong toàn huyện, có 36 trang trại chăn nuôi heo, 34 trang trại chăn nuôi gà và 9
trang trại trồng cây ăn trái thực hiện ứng dụng kỹ thuật cao trong sản xuất.
Hiện nay, đã có 100% diện tích đất canh tác cây lâu năm trên địa bàn được
cơ giới hóa trong khâu làm đất, chăm sóc; 80% trang trại chăn nuôi đã đầu tư hệ
20
thống máng ăn, máng uống tự động; 34% đàn gia cầm và 29% đàn gia súc được
nuôi theo quy trình ứng dụng công nghệ cao.
Bảng 2.4. Số người đang trong tuổi lao động ở từng huyện [14]
Đơn vị tính: người
TT
Tên huyện
Số lượng
Tổng dân số
1.
Long Nguyên
9.189
15.319
2.
Lai Hưng
6.585
10.976
3.
Lai Uyên
12.933
21.334
4.
Tân Hưng
5.510
10.019
5.
Hưng Hòa
7.190
11.786
6.
Cây Trường
9.027
9.362
7.
Trừ Văn Thố
5.524
13.762
8.
Tổng cộng
55.961
92.558
3. Quá trình hình thành và phát triển đội ngũ công chức QLNN về
kinh tế giai đoạn 2014 - 2017
Huyện Bàu Bàng đi vào hoạt động từ tháng 01/04/2014 qua hơn 3 năm xây
dựng và phát triển số lượng cán bộ công chức, viên chức, hợp đồng là 1.816 người
trong đó có 564 công chức. Cho đến nay chỉ còn trên 600 người làm việc trong các
bộ máy của Đảng và Nhà nước từ huyện tới cơ sở. Trong số đó có trên 170 người
đã được đề bạt vào các chức vụ quản lý tại các cơ quan đơn vị.
Để phát triển và nâng cao năng lực của cán bộ, bảo đảm đủ số lượng và chất
lượng, hàng năm Đảng bộ Huyên đã cử một số lượng lớn cán bộ đi học và đào tạo
nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ quản lý. Qua hơn 3 năm, hoạt động đã có
đội ngũ cán bộ cao cấp, trung cấp và sơ cấp được đào tạo trình độ lý luận chính trị,
số lượng cán bộ tăng lên hàng năm. Thể hiện ở bảng 2.5 sau:
- Xem thêm -