Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận Phân tích chiến lược của công ty bảo hiểm Bảo Việt...

Tài liệu Tiểu luận Phân tích chiến lược của công ty bảo hiểm Bảo Việt

.DOC
36
1610
131

Mô tả:

Mục Lục LỜI MỞ ĐẦU I-Giới thiệu về Bảo Việt: 1.1: Sơ lược về Bảo Việt………………………………………………………2 1.2 Cơ cấu tổ chức…………………………………………………………….2 1.3: Lĩnh vực hoạt động……………………………………………………….3 1.4: Tầm nhìn và Sứ mệnh của công ty……………………………………….4 1.5: Tình hình tài chính của doanh nghiệp……………………………………6 II. Môi trường bên ngoài 2.1. Phân tích ngành…………………………………………………………...7 2.2. Đánh giá cường độ cạnh tranh..…………………………………………12 2.3. Đánh giá tác động của môi trường vĩ mô……………………………….15 MÔ THỨC EFAS..…………………………………………………………..19 III :Nhân tố bên trong 3.1:Sản phẩm và thị trường chủ yếu của công ty…………………………….21 3.2 Năng lực đặc thù và vị thế của công ty…………………………………..22 3.4: Mô thức IFAS...…………………………………………………………26 IV: Chiến lược của công ty 4.1: Mô thức TOWS………………………………………………………....29 4.2: Chiến lược của công ty………………………………………………….30 4.3: Đánh giá…………………………………………………………………34 4.4: Một số những góp ý……………………………………………………..35 KẾT LUẬN 1 LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đang dần hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp được mở rộng song sự cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Điều này vừa tạo ra các cơ hội kinh doanh đồng thời cũng chứa đựng những nguy cơ tiềm tàng đe dọa sự phát triển của các doanh nghiệp. Trong điều kiện thị trường có nhiều biến động, bỏ qua các yếu tố ngẫu nhiên thì vấn đề quyết định ảnh hưởng đến thành công của doanh nghiệp là lựa chọn một hướng đi đúng, xác định được một chiến lược kinh doanh cho hợp lý và kịp thời. Bảo hiểm Bảo Việt là một trong những công ty bảo hiểm tồn tại lâu đời và thành công trên thị trường bảo hiểm trong nước. Vì vậy nhóm chúng tôi chọn công ty bảo hiểm Bảo Việt để tìm hiểu chiến lược của công ty để dành được những thành công như vậy. I-Giới thiệu về Bảo Việt: 1.1: Sơ lược về Bảo Việt.  Tên đầy đủ DN: TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM BẢO VIỆT  Tên tiếng anh: BAOVIET INSURANCE CORPORATION  Tên viết tắt DN: BẢO VIỆT VIỆT NAM.  Trụ sở: 35 Hai Bà Trưng,Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội  Ngày tháng thành lập: Tiền thân của Bảo Việt ngày nay là Công ty bảo hiểm Việt Nam được thành lập theo quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964. Công ty chính thức đi vào hoạt động ngày 15/1/1965.  Loại hình doanh nghiệp: Trong giai đoanh đầu thành lập thương hiệu “Bảo Việt” được biết đến như một doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước lớn nhất và duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Ngày 31/5/2007 đánh dấu một sự kiện, một mốc lịch sử quan trọng của Bảo Việt, đó là việc Bảo Việt bán cổ phần lần đầu ra công chúng chính thức trở thành công ty cổ phần kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực.  Tel: 844.38262774/38262614  Website: http://www.baoviet.com.vn/  Fax: (84-4) 8257188  Email: [email protected]  Vốn điều lệ:1.000.000.000.000 VND (Một nghìn tỷ đồng Việt Nam) 1.2 Cơ cấu tổ chức Bảo hiểm Bảo Việt hiện có 01 Tổng Giám đốc, 03 Phó Tổng Giám đốc. Trụ sở chính hiện có 23 phòng chức năng, chia thành 4 khối là khối quản lý hoạt động, khối quản lý kênh phân phối, khối kinh doanh trực tiếp và khối quản lý nghiệp vụ. 2 Các phòng đều được cơ cấu theo hướng chức năng nhiệm vụ rõ ràng, trong đó các khối quản lý, kinh doanh được cấu trúc theo hướng chuyên môn hóa các loại hình nghiệp vụ. Bảo hiểm Bảo Việt hiện có 66 công ty thành viên tại 64 tỉnh, thành phố trên toàn quốc, mỗi công ty thành viên đều có Giám đốc và Phó giám đốc đảm nhiệm điều hành hoạt động của từng đơn vị. Hệ thống tổ chức quản lý tại Bảo Việt được áp dụng theo mô hình trực tuyến chức năng. Mô hình này cho phép người lãnh đạo có toàn quyền quản lý, chỉ đạo và phát huy chức năng của các phòng ban trực thuộc. Các phòng ban tiến hành nghiên cứu theo nhiệm vụ và chắc năng của mình sau đó đề xuất ý kiến để Ban giám đốc đưa ra quyết định cuối cùng. Mô hình tổ chức bộ máy Bảo hiểm Bảo Việt Tổng giám đốc Phó giám đốc Quản lý hoạt động Phó giám đốc Quản lý kênh phân phối Kinh doanh trực tiếp Phó giám đốc Quản lý nghiệp vụ 66 công ty 1.3: Lĩnh vực hoạt động: Căn cứ vào Giấy phép thành lập và hoạt động của Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt số 45/GP/KDBH do Bộ Tài chính cấp ngày 23/11/2007 kinh doanh bảo hiểm gốc Bảo hiểm Bảo Việt được phép kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ . Hiện nay, Bảo hiểm Bảo Việt đang cung cấp đủ 10 loại hình sản phẩm bảo hiểm, bao gồm: 3 - Bảo hiểm Xe cơ giới; - Bảo hiểm Con người. - Bảo hiểm Tài sản. - Bảo hiểm Trách nhiệm. - Bảo hiểm cho các rủi ro hỗn hợp nhỏ. - Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. - Bảo hiểm toàn diện doanh nghiệp. - Bảo hiểm hỏa hoạn và rủi ro kỹ thuật. - Bảo hiểm Hàng hoá. - Bảo hiểm Tàu thuỷ. - Bảo hiểm Dầu khí và Hàng không; - Bảo hiểm Nông nghiệp. Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác:  Kinh doanh tái bảo hiểm:nhận và nhượng tái bảo hiểm đối với tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ.  Giam định tổn thất: Giam định, điều tra, tính toán,phân bổ tổn thất, đại lý giám định tổn thất, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn.  Tiến hành hoạt động đầu tư theo các quy định của pháp luật. Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khácác quy định của pháp luật. 1.4: Tầm nhìn và Sứ mệnh của công ty 1.4.1: Tầm nhìn chiến lược. Phương châm 'Niềm tin vững chắc, cam kết vững bền" phản ánh tầm nhìn của bảo hiểm Bảo Việt để hướng tới xây dựng "Một Bảo Việt vững bền".  Mục tiêu phát triển của Bảo Việt là trở thành Tập đoàn tài chính - bảo hiểm hàng đầu ở Việt Nam, kinh doanh trong các lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, đầu tư tài chính, chứng khoán và các dịch vụ tài chính khác. Bảo Việt luôn đặt ra các yêu cầu khắt khe cho việc nâng cao trình độ quản lý, chất lượng phục vụ khách hàng trong bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào của tập đoàn, từ việc nghiên cứu phát triển các sản phẩm, dịch vụ tới việc tư vấn cho khách hàng các giải pháp tối ưu hoặc xây dựng các mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, cùng phát triển với khách hàng và các đối tác. Tầm nhìn đến 2015 của Bảo Việt là trở thành tập đoàn tài chính- Bảo hiểm hàng đầu Việt Nam, có tiềm lực tài chính vững mạnh, từng bước hội nhập thị trường khu vực và thế giới dựa trên ba trụ cột: bảo hiểm,ngân hàng và đầu tư Chiến lược mới 5 năm giai đoạn 2011-2015 của Tập đoàn Bảo Việt Cổ đông tham dự Đại hội đồng cổ đông đã nhất trí thông qua kế hoạch chiến lược mới 5 năm giai đoạn 2011-2015 của TĐBV. Lộ trình triển khai chiến lược mới sẽ 4 theo 3 giai đoạn với mục tiêu củng cố vị thế của TĐBV là Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm hàng đầu Việt Nam. Giai đoạn 2011-2012: Xây dựng "Một Bảo Việt trên Một nền tảng mới", tập trung xây dựng nền tảng công nghệ thông tin thống nhất, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu khách hàng chung, đầu tư phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế, hoàn thiện hệ thống thương hiệu thống nhất, tăng cường năng lực tài chính thông qua tăng vốn, phát triển sản phẩm dịch vụ mới. Giai đoạn 2012-2013: Chuyển đổi mô hình kinh doanh, thực hiện chuyển biến mạnh mẽ trong chất lượng dịch vụ khách hàng, chú trọng khách hàng cá nhân, cung cấp các dịch vụ tài chính kết hợp, phát triển lĩnh vực kinh doanh mới, hoàn thành chuyển đổi quản lý tập trung - dịch vụ tại chỗ. Giai đoạn 2013-2015: Tạo sự chuyển biến mạnh trong tăng trưởng doanh thu và hiệu quả, khẳng định sự chuyên nghiệp và hợp tác nội bộ mạnh mẽ, khẳng định thương hiệu và chất lượng dịch vụ hàng đầu Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, trở thành một Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm hàng đầu tại Việt Nam và trong khu vực. Mục tiêu chiến lược 5 năm đối với các lĩnh vực: Bảo hiểm phi nhân thọ: Giữ vững vị trí dẫn đầu thị trường bảo hiểm phi nhân thọ về thị phần doanh thu phí bảo hiểm giữ lại. Cuối năm 2015, doanh thu phí bảo hiểm gốc đạt 8.800 tỷ đồng, LNST đạt 480 tỷ đồng. Bảo hiểm nhân thọ: Giữ vững vị trí hàng đầu thị trường bảo hiểm nhân thọ về doanh thu phí và chất lượng dịch vụ. Cuối năm 2015, doanh thu phí bảo hiểm đạt 6.700 tỷ đồng, doanh thu khai thác mới đạt 1.971 tỷ đồng, tăng trưởng hàng năm 21%, LNST đạt 580 tỷ đồng. 1.4.2: Sứ mệnh Sứ mệnh của Bảo Việt là bảo đảm sự bình an, thịnh vượng và lợi ích lâu dài cho khách hàng, nhà đầu tư,người lao động và cộng đồng Xây dựng 5 giá trị cốt lõi thể hiện trong hoạt động và văn hóa doanh nghiệp của Bảo Việt là chất lượng, dễ tiếp cận, tinh thần hợp tác, năng động, trách nhiệm.  Triết lý kinh doanh Triết lý cơ bản trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của Bảo Việt là "Phục vụ Khách hàng tốt nhất để phát triển". Triết lý này được thực hiện bốn nguyên tắc sau: Nguyên tắc khách hàng là trung tâm của mọi hoạt động. 5 Nguyên tắc phục vụ khách hàng tận tâm, trung thực và hợp tác Nguyên tắc tối ưu quyền lợi và sự thuận tiện cho khách hàng. Nguyên tắc liên tục cải tiến. 1.5: Tình hình tài chính của doanh nghiệp Theo báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Bảo hiểm Bảo Việt về tài chính: 6 http://www.baoviet.com.vn/ Với hoạt động kinh doanh đa ngành, với mô hình tổ chức, cơ chế quản lý kinh doanh mới, với thế và lực mới, Bảo Việt luôn là sự lựa chọn đúng đắn, là người bạn đồng hành tin cậy của các cá nhân và tổ chức. II. Môi trường bên ngoài 2.1. Phân tích ngành  Ngành kinh doanh của doanh nghiệp Kể từ khi gia nhập WTO, năm 2006 thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có bước phát triển khá hơn rất nhiều so với năm 2005. Số lượng công ty bảo hiểm tăng lên 37 doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường đạt 1.82% GDP, tăng trưởng 14% so với năm 2005. Đây là dấu hiệu tốt, bước đệm cho thị trường bảo hiểm phát triển trong các năm sau. Theo đánh giá của Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), năm 2009 thị trường bảo hiểm tiếp tục duy trì mức tăng trưởng ổn định và đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế với tỷ trọng doanh thu/GDP ước đạt 2,3%. Tổng doanh thu phí bảo hiểm ước cả năm 2009 đạt khoảng 24.681 tỷ đồng, trong đó, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 13.250 tỷ đồng (tăng 21% so với năm 2008), doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt 11.431 tỷ đồng (tăng 10,95% so với năm 2008). Doanh thu hoạt động đầu tư ước đạt 6.016 tỷ đồng, trong đó: các doanh nghiệp phi nhân thọ đạt 1.350 tỷ đồng, các doanh nghiệp nhân thọ đạt 4.666 tỷ đồng (tăng 17% so với 2008). Tính đến tháng 6/2010, có 50 Doanh nghiệp Bảo hiểm hoạt động trên thị trường trong đó bao gồm 27 Doanh nghiệp Bảo hiểm phi nhân thọ, 11 Doanh nghiệp Bảo hiểm nhân thọ, 10 Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 1 Doanh nghiệp tái bảo hiểm. Tổng doanh thu phí bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt 14.427 tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2009, trong đố doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 7.940 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2009. Nhìn lại năm 2010, nền kinh tế toàn cầu dù được dự báo thuận lợi hơn năm 2009, nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn; dù nội lực nền kinh tế còn chưa mạnh, nhưng Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra (6,5%). Trong bối cảnh đó, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam năm 2010 đạt tốc độ tăng trưởng cao, ở mức 25,27% so với năm trước 7 8 Cơ cấu doanh thu phí bảo hiểm của Bảo Việt Thị trường bảo hiểm Việt Nam được các chuyên gia đánh giá là có tiềm năng phát triển lớn, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng trung bình 19,6%/năm trong giai đoạn 2006 - 2009. 9  Giai đoạn trong chu kỳ phát triển của ngành -Giai đoạn trước năm 1975 Ở miền Nam, vào những năm 1970, đã có một công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời có tên là công ty bảo hiểm nhân thọ Hưng Việt. Công ty bảo hiểm này triển khai được một số sản phẩm bảo hiểm như: bảo hiểm nhân thọ trọn đời, bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 năm, 10 năm, 20 năm. Nhưng công ty mới ở giai đoạn đầu triển khai nên chưa có kết quả rõ nét. Từ năm 1963 Bộ Tài chính đã tiến hành nghiên cứu, xúc tiến thành lập công ty bảo hiểm Việt Nam với sự cộng tác của công ty bảo hiểm nhân dân Trung Hoa. Ngày 17/12/1964 bằng Quyết định số 179/CP của hội đồng Chính phủ, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, công ty bảo hiểm Việt Nam, tên giao dịch là Bảo Việt được thành lập và chính thức khai trương hoạt động ngày 15/01/1965 với số Vốn điều lệ là 10 triệu đồng Việt Nam (tương đương 2 triệu USD vào thời điểm đó), dưới sự quản lý trực tiếp của Bộ Tài chính. Trong thời gian này, Bảo Việt mới chỉ triển khai mảng bảo hiểm phi nhân thọ, mà chưa triển khai bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên, BảoViệt cũng đã chú trọng đến việc mở rộng và đa dạng hoá các nghiệp vụ bảo hiểm đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm con người, làm tiền đề cho việc triển khai bảo hiểm nhân thọ về sau. => Đây là giai đoạn mới xuất hiện của bảo hiểm Việt Nam. - Giai đoạn 1975-2000: Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền ra tuyên bố đình chỉ các hoạt động của các công ty bảo hiểm miền, đó có công ty bảo hiểm nhân thọ Hưng Việt và tuyên bố thanh lý, giải thể các tổ chức bảo hiểm tư nhân. Năm1976, Bộ trưởng Bộ Kinh tế tài chính ra quyết định số 21/QĐ-BKT thành lập công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm Việt Nam (viết tắt là BAVINA). Năm1977, Bộ trưởng Bộ Tài chính ra quyết định số 61/TCQĐ/TCCB về việc sát nhập BAVINA thành chi nhánh của Bảo Việt tại thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, kể từ đây, Bảo Việt chính thức có mạng lưới hoạt động tại các tỉnh miền Nam. Chính sách mở cửa vào năm 1987 đã tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm được học hỏi và tiếp cận với những kỹ thuật bảo hiểm mới trên thế giới. Từ kinh nghiệm các nước, BảoViệt lúc đó vẫn là công ty bảo hiểm duy nhất ở nước ta, đã thấy được tiềm năng to lớn của bảo hiểm nhân thọ ở nước ta. Vì vậy, Bảo Việt bắt đầu nghiên cứu triển khai bảo hiểm nhân thọ ở với đề án “Bảo hiểm nhân thọ và điều kiện triển khai ở Việt Nam”, nhưng lúc đó chưa có đủ điều kiện vì: Thu nhập dân cư còn thấp, kinh tế còn kém phát triển, tỷ lệ lạm phát còn cao, thị trường tài chính chưa phát triển, chưa có môi trường đầu tư và các công ty bảo hiểm chưa được phép hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, chưa có văn bản pháp Luật điều chỉnh mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và khách hàng, đội ngũ cán bộ bảo hiểm lúc đó chưa được trang bị những kiến thức về nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Do đó, BảoViệt chỉ triển khai bảo hiểm sinh mạng có thời hạn 1 năm (bảo hiểm nhân thọ tử kỳ thời hạn 1 10 năm). Đây là loại hình bảo hiểm nhân thọ đơn giản nhất và có nhiều đặc điểm tương đồng với bảo hiểm con người phi nhân thọ. Sau thời kỳ đổi mới kinh tế được 10 năm, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lạm phát đã được đẩy lùi, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao từ 6 - 9 %/ năm, môi trường kinh tế- xã hội và môi trường pháp lý có nhiều thuận lợi hơn. Đời sống người dân ngày càng được nâng cao và ở một bộ phần quần chúng dân cư đã bắt đầu có tích luỹ. Đây là những nhân tố rất thuận lợi cho bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển ở Việt Nam. Năm 1996, Bảo Việt đã nghiên cứu và đưa ra thị trường dịch vụ bảo hiểm nhân thọ lần đầu tiên ở Việt Nam, thể hiện vai trò tiên phong của Bảo Việt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Ngày 20/3/1996, Bộ Tài Chính đã chính thức quyết định cho phép Bảo Việt triển khai 2 sản phẩm: bảo hiểm hỗn hợp nhân thọ và bảo hiểm an sinh giáo dục. Tháng 8/1996, Bảo Việt đã bán những sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra thị trường, đánh dấu sự khởi đầu cho chặng đường phát triển đầy hứa hẹn của BHNT ở Việt Nam. Sau Nghị định 100 /CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm, từ năm 1994 đến nay, nhiều công ty bảo hiểm mới được cấp phép hoạt động. Có thể nói, Nghị định 100 /CP ra đời là một bước ngoặt có tính cách mạng đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nghị định này đã thể hiện chủ trương phát triển một ngành đa thành phần của nhà nước ta. Tuy nhiên, xét về thực chất kể từ khi có sự ra đời của các công ty bảo hiểm 100% Vốn nước ngoài như công ty bảo hiểm nhân thọ Chinfon Manulife (nay là Manulife), Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential, Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh-CMG (nay là Dai-ichi Life), Công ty bảo hiểm nhân thọ quốc tế Mỹ AIA, thị trường bảo hiểm Việt Nam trong đó có bảo hiểm nhân thọ mới chấm dứt giai đoạn độc quyền nhà nước về bảo hiểm và bắt đầu đi vào phát triển và có sự cạnh tranh. Ngày 09 tháng 12 năm 2000 Quốc Hội đã thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm, tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nhờ đó các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh bình đẳng hơn và đang thực sự là động lực thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là thị trường bảo hiểm nhân thọ phát triển. => Có thể nói đây là thời kỳ tăng trưởng của bảo hiểm Việt Nam nói chung và của riêng Bảo Việt nói riêng. - Giai đoạn từ 2001 - đến nay Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam cho đến nay đã phát triển sôi động và hấp dẫn rất nhiều các công ty bảo hiểm nước ngoài vào đầu tư và kinh doanh. Sự có mặt của công ty bảo hiểm nước ngoài góp phần làm cho thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trở nên sôi động hơn, đó là dấu hiệu cho thấy 11 một làn sóng đầu tư của nước ngoài mạnh mẽ trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ thời gian tới. Ngoài ra, sự thâm nhập của các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài cũng góp phần nâng cao năng lực của thị trường bảo hiểm, thiết lập thêm một kênh thu hút Vốn trong dân. Có thể nói thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang từng bước hội nhập với thị trường bảo hiểm nhân thọ khu vực và trên thế giới. 2.2. Đánh giá cường độ cạnh tranh 2.2.1. Quyền lực thương lượng từ phía các nhà cung ứng. Một áp lực nữa cũng không kém phần quyết định đó chính là áp lực từ phía nhà cung cấp.Các nhà cung cấp có thể khẳng định quyền lực của mình bằng cách đe dọa tăng giá hàng hóa hay mặc cả về chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng.Do đó, họ có thể chèn ép lợi nhuận từ các công ty bảo hiểm nhằm bù đáp những chi phí tăng lên trong giá thành sản phẩm. Đối với ngành bảo hiểm, khái niệm nhà cung cấp có thể hiểu là những cổ đông cung cấp vốn cho công ty bảo hiểm hoạt động, các công ty đào tạo nhân viên kinh doanh bảo hiểm hay là các công ty cung cấp các sản phẩm công nghệ cho công ty bảo hiểm. Tại Việt Nam các công ty bảo hiểm tự đầu tư trang thiết bị và chọn nhà cung cấp riêng theo điều kiện của công ty mình. Điều này góp phần giảm quyền lực của nhà cung cấp thiết bị khi họ không thể cung cấp cho cả một thị trường lớn mà phải cạnh tranh với các nhà cung cấp khác. Tuy nhiên thường khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào đầu tư hệ thống, các công ty bảo hiểm thươg không muốn thay đổi nhà cung cấp nữa vì quá tốn kém, điều này lại làm tăng quyền lực của nhà cung cấp thiết bị công nghệ khi thắng thầu. Hiện các nhà cung cấp thiết bị công nghệ đã nghiên cứu và nắm rõ được nhu cầu để có cơ hội để chiếm được thị trường. Thực tế ứng dụng CNTT trong ngành bảo hiểm còn thấp hiện nay tạo ra cơ hội lớn cho các nhà cung cấp các giải pháp. Bên cạnh đó, thị trường này còn nhiều tiềm năng, bởi thời gian tới, lĩnh vực tài chính bảo hiểm sẽ còn phát triển mạnh. Việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là một trong những đòi hỏi cấp bách nhằm hoàn thiện các sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm, mà trong đó, ứng dụng CNTT là yếu tố quan trọng. 2.2.2. Quyền lực thương lượng từ phía khách hang. Áp lực từ phía khách hàng xem la rất quan trọng đối với công ty bảo hiểm bảo việt, nó thể hiện chủ yếu là đòi hỏi chế độ dịch vụ bảo hiểm 1 cách tốt nhất. Chính điều này làm cho các nhà cạnh tranh chống lại nhau làm tổn hao lợi nhuận của ngành. Sự ra đời của các công ty bảo hiểm làm cho người tiêu dùng có đầy đủ thông tin,nhiều cơ hội lựa chọn công ty mình yêu thích nhất. Điều này càng củng cố thêm vị thế mặc cả của họ đẻ hướng tới một dịch vụ hoàn hảo hơn, một nơi cung cấp hàng hóa với chất lượng cao hơn và ổn định hơn. Khách hàng là nhân tố gây áp lực cho doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ đi kèm và chính họ là người điều khiển cạnh tranh trong ngành thông qua quyết định mua hàng. 12 2.2.3. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành. Giống như các thị trường khác, trên thị trường bảo hiểm sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm để tranh giành khách hàng, thu lợi nhuận cũng diễn ra liên tục, gay go và quyết liệt. Cạnh tranh trên nhiều khía cạnh với nhiều thủ thuật, bởi lẽ sản phẩm bảo hiểm là không có bảo hộ bản quyền và dễ bắt chước cho nên các doanh nghiệp bảo hiểm thường tập trung vào kinh doanh các sản phẩm được thị trường chấp nhận bằng cách cải tiến, hoàn thiện sản phẩm đó hơn các doanh nghiệp khác, bằng cách quảng cáo sâu rộng, hấp dẫn để thu hút khách hàng, ... Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một cường độ cạnh tranh.Thị trừơng bảo hiểm Việt Nam đang có sự cạnh tranh khốc liệt. Doanh nghiệp đã và đang tập trung quảng cáo rầm rộ, tăng cường chủng loại dịch vụ, khuyến mại sản phẩm dịch vụ… Bên cạnh l loạt các loại dịch vụ phong phú, yếu tố mà các công ty sử dụng để thu hút khách vẫn là các chương trình khuyến mại, giảm giá, bốc thăm trúng thưởng hay những chuyến du lịch nước ngoài… Theo thống kê chưa chính thức của các nhà nghiên cứu thị trường thì 30 - 40% các loại dịch vụ của công ty có chương trình khuyến mại, chương trình giảm giá…Chính điều này đã thu hút lượng khách tăng từ 40-50% . Tuy nhiên một vấn đề đặt ra hiện nay là, phần lớn các công ty bảo hiểm trong nước không cạnh tranh với nhau bằng chất lượng dịch vụ tới khách hàng mà cạnh tranh nhau bằng việc hạ phí, giành giật lôi kéo khách hàng…Hiện nay số lượng các công ty bảo hiểm ngày càng tăng lên, nhưng đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn lại chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, đặc biệt là đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc hạ phí bảo hiểm nhằm có được thị phần hay giành được dịch vụ không phải là hình thức cạnh tranh mới song lại đang trở thành cách thức cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Theo quy định cảu Luật cạnh tranh, việc xem xét hành vi hạ phí bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm là vi phạm vào hành vi bị cấm. nhưng trên thực tế thị trường bảo hiểm đã xuất hiện tình trạng có những sản phẩm bảo hiểm mức phí giảm từ 4050%, thậm chí còn thấp hơn quy định của Bộ tài chính rất nhiều lần. Hơn nữa, tỉ lệ bồi thường ngày càng một tăng, số vụ chưa giải quyết bồi thường ngày một ứ đọng, có thể dẫn đến rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm không có nguồn tài chính vững mạnh. Ngoài ra còn có sự cạnh tranh ngầm thông qua sự can thiệp hành chính để có được các hợp đồng bảo hiểm đang diễn ra khá nhiều trên thị trường. Trên thị trường bảo hiểm hiện có nhiều công ty bảo hiểm chuyên ngành. Tại đó ngành này buộc các đơn vị thành viên trong cùng một tổng công ty tham gia bảo hiểm tại một doanh nghiệp bảo hiểm trực thuộc. Những hành động này có thể dễ dàng giúp các doanh nghiệp dễ dàng khai thác dịch vụ nhưng lại gây nên tình trạng phí khai thác dịch vụ bảo hiểm chủ yếu tập trung vào một doanh nghiệp trong một ngành, một lĩnh vực. 13 Bên cạnh những sự cạnh tranh không lành mạnh sự cạnh tranh lớn nhất hiện nay vẫn là về chất lượng. Các công ty bảo hiểm lớn trong nước, các công ty nước ngoài chú trọng đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ để thu hút khách hàng. Công ty bảo hiểm bảo việt cũng đang có những chiến lược riêng để giữ vững thị trường trong nước với các đối thủ cạnh tranh mạnh như VINARE, Bảo Long, PJICO, PVI, PTI và 3 công ty liên doanh gồm VIA (Bảo Việt và công ty của Nhật), UIC (Bảo Minh và công ty của Nhật) và công ty môi giới BV – AON. 2.2.4. Đe dọa từ các sản phẩm thay thế. Sản phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm dịch vụ có thể thỏa mãn nhu cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành. Áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế là khả năng đáp ứng nhu cầu so với các sản phẩm trong ngành, thêm vào nữa là các nhân tố về giá, chất lượng, các yếu tố khác của môi trường như văn hóa, chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm thay thế. Đối với ngành kinh doanh bảo hiểm thì các sản phẩm, dịch vụ có thể thay thế chính là các loại dịch vụ với nhiều đãi ngộ và các loại hình bảo hiểm khác nhau… Trong những năm gần đây, sự ra đời ồ ạt của các công ty bảo hiểm với nhiều loại hình dịch vụ khác nhau làm tăng sự cạnh tranh giữa các công ty. Vì thế công ty bảo hiểm bảo việt phải có những giải pháp để thu hút khách hàng của mình bằng các chương trình chăm sóc khách hàng, có những khuyến mại khi tham gia bảo hiểm. Ngoài ra còn có sự cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính ( như ngân hàng, chứng khoán, các tổ chức tài chính) và các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong việc thu hút tiền vốn nhàn rỗi tron dân chúng ngày càng gay gắt. Các ngân hàng đã đưa ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao đối với các sản phẩm bảo hiểm như tiết kiệm gửi định kì, tiết kiệm với thời hạn dài kèm theo các hình thức khuyến mại như tặng bảo hiểm, rút thăm trúng thưởng và nhiều ưu đãi liên quan khác. 2.2.5. Đe dọa gia nhập mới. Việc mở cửa thị trường theo các cam kết WTO về cơ bản có tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam. Mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kĩ năng chuyên ngành, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước, việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới , đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ đa dạng hóa và khiến thị trường sôi động hơn. Tuy nhiên, Các công ty bảo hiểm mới dễ dàng gia nhập thị trường thì mức độ cạnh tranh sẽ càng lúc càng gia tăng. Nguy cơ từ các công ty bảo hiểm mới sẽ phụ thuộc vào độ cao của rào cản gia nhập. Việc tham gia của các công ty bảo hiểm nước ngoài vào thị trường bảo hiểm cũng có những tác động bất lợi đối với công ty bảo hiểm trong nước và khả năng quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này. - Các công ty trong nước bị chia sẻ thị trường là tác động rõ ràng nhất ở nước đang trong tiến trình mở cửa thị trường. - Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Một thực tế đã diễn ra khi sự gia tăng của số lượng bảo hiểm doanh nghiệp nhanh hơn sự gia tăng nhân lực trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Do đó, nếu các 14 công ty bảo hiểm trong nước không có những điều chỉnh liên quan đến chính sách nhân sự thì sẽ mất lợi thế quan trọng giữa các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh. - Thị trường phát triển nhanh về quy mô, đa dạng về sản phẩm là sức ép đối với các nhà quản lý trong lĩnh vực này, bao gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng; khả năng giải quyết tranh chấp; thị trường bị chia cắt manh mún và vấn đề rất quan trọng là ngăn ngừa rủi ro mang tính hệ thống. Các công ty bảo hiểm mới dễ dàng gia nhập thị trường thì mức độ cạnh tranh sẽ càng lúc càng gia tăng. Nguy cơ từ các công ty bảo hiểm mới sẽ phụ thuộc vào độ cao của rào cản gia nhập. Hàng loạt tập đoàn bảo hiểm hùng mạnh thế giới cũng như khu vực đã “nhắm” vào VN và họ đặt một sức ép lên các doanh nghiệp nội địa. Bảng số lượng các doanh nghiệp Bảo Hiểm Phi nhân thọ Nhân thọ 2007 22 9 2008 25 10 2009 26 11 => Từ những phân tích trên cho thấy bảo hiểm Việt Nam đang là một trong số những ngành “nóng”, nhận được nhiều quan tâm nhất và cũng có cường độ cạnh tranh được đánh giá là mạnh. 2.3. Đánh giá tác động của môi trường vĩ mô Nhân tố kinh tế Như chúng ta đã biết thực trạng nền kinh tế và xu hướng trong tương lai có ảnh hưởng rất lớn đến thành công và chiến lược của doanh nghiệp. Những yếu tố của môi trường kinh tế như : tăng trưởng kinh tế, lạm phát…nó ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, chất lượng đời sống, chi tiêu…của người dân, và nó gián tiếp tác động đến nhu cầu bảo hiểm của người dân. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ liên tục qua các năm qua, đời sống dân cư không ngừng được cải thiện..người dân bắt đầu có tích lũy và yên tâm sử dụng tiền tích lũy này để đầu tư lại nền kinh tế, trong đó bảo hiểm, nhất là bảo hiểm nhân thọ là một trong những kênh đầu tư vốn được người dân lựa chọn. Bên cạnh đó, kinh tế tăng trưởng chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao, nhu cầu về các sản phẩm bảo hiểm được dự báo ngày một tăng. Sau khi gia nhập WTO, mở cửa thị trường, nước ta đã thu hút được nhiều khách hàng đến từ nhiều nơi trên thế giới tạo cơ hội cho ngành bảo hiểm phát triển các sản phẩm bảo hiểm du lịch…Ngoài ra, phát triển kinh tế gắn liền với các bất ổn liên quan đến lạm phát, lãi suất, tỉ giá… tạo cơ hội cho các nhà cung ứng đưa ra các sản phẩm bảo hiểm mới nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng. 15 Tuy nhiên nền kinh tế thế giới cũng như trong nước sẽ có nhiều biến động khó kiểm soát, nó sẽ tác động xấu đến ngành bảo hiểm, việc định phí bảo hiểm khó khăn Ngoài ra, tỉ lệ lạm phát của Việt Nam khá cao, lạm phát cao kéo theo hệ quả là làm giảm lòng tin của công chúng đối với các khoản đầu tư dài hạn, các hợp đồng bảo hiểm dài hạn, làm cho lãi suất ngắn hạn tăng lên cao (như lãi suất tiết kiệm ngân hàng), tạo ra sự cạnh tranh lớn đối với các sản phẩm bảo hiểm. Nhân tố văn hóa xã hội Thói quen kinh doanh, sử dụng dịch vụ của người dân bị chi phối khá nhiều bởi các yếu tố văn hóa. Vấn đề tâm lý của con người cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu tham gia bảo hiểm của khách hàng. Điều kiện văn hóa xã hội nước ta có nhiều thuận lợi cho ngành bảo hiểm phát triển. Nước ta là một nước phương Đông, chịu ảnh hưởng của Nho giáo, gia đình tình cảm ruột thịt luôn được người Việt Nam hết sức coi trọng. với tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách mỗi người dân Việt Nam luôn sẵn sàng chia sẻ những khó khăn mà đồng bào phải gánh chịu cho dù sự đóng góp đó chỉ đơn giản. Có thể nói nét đặc trưng văn hóa này của người Việt Nam đã tạo nên một thị trường hấp dẫn cho bảo hiểm. Nhân tố chính trị pháp luật Bất cứ một quốc gia nào cũng vậy, pháp luật đóng một vai trò hết sức quan trọng và cần thiết . Hành lang pháp lý vừa là rào cản vừa là thuận lợi cho sự phát triển sản xuất , kinh doanh của mỗi doanh nghiệp . Nhân tố pháp luật tác động đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ ở thời điểm hiện tại mà cả trong dài hạn. Môi trường chính trị Việt Nam được đánh giá là ổn định so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đó có thể coi là một điểm mạnh để thu hút sự chú ý, đầu tư của nước ngoài Các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiện hành về cơ bản đã khá hoàn chỉnh, đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hầu hết các cam kết trong lĩnh vực này. Môi trường pháp lý hiện đang trên tiến trình hoàn thiện, tạo chuẩn cho hoạt động hiệu quả, phát triển bền vững, bảo vệ quyền lợi của người mua bảo hiểm. Tuy nhiên, để triển khai thực hiện một số các cam kết còn lại và đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường một số yêu cầu đặt ra về hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật về bảo hiểm .Và chính vì khung pháp lý chưa hoàn thành tạo khó khăn cho doanh nghiệp thích ứng và phát triển song song. Năm 2009 hàng loạt các Nghị định, thông tư liên quan đến bảo hiểm được đưa ra. Cục quản lý và giám sát bảo hiểm được ra đời thay thế Vụ bảo hiểm với nhiệm vụ và quyền hạn cao hơn trong việc thực hiện chế độ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Cục đã tiến hành kiểm tra thực hiện TT 126 về bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe cơ giới, kiểm tra đầu tư tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm 16 và kiểm tra toàn diện một số doanh nghiệp bảo hiểm. Quá trình kiểm tra Cục Quản lý giám sát bảo hiểm – Bộ Tài chính đã có những văn bản chấn chỉnh lại hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, để triển khai thực hiện một số các cam kết còn lại và đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường một số yêu cầu đặt ra về hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm. Nhân tố công nghệ Khi mở cửa thị trường bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ mất hẳn sự bảo hộ của nhà nước, không có sự phân biệt đối xử với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Một số doanh nghiệp bảo hiểm thuộc lĩnh vực sở hữu nhà nước phải tiến hành cổ phần hóa , trong đó sức ép chia lãi cho cổ đông không phải là nhỏ nếu kinh doanh bảo hiểm và đầu tư không hiệu quả. Hiện thách thức với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam là tìm ra công nghệ hoàn chỉnh phục vụ cho việc khai thác quản lý bảo hiểm không phải lf việc đơn giản. Hầu hết các doanh nghiệp đang mày mò theo kiểu vừa học, vừa làm, vừa cải tiến. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp cần tiếp tục trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin vào khâu khai thác, quản trị rủi ro, quản trị doanh nghiệp, trong đó quan trọng nhất là ứng dụng thương mại điện tử. người có nhu cầu bảo hiểm có thể lựa chọn sản phẩm bảo hiểm của các doanh nghiệp trên mạng. Hơn thế, trước sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường bảo hiểm trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, yêu cầu hình thành sản phẩm riêng biệt đang là mục tiêu được nhiều công ty bảo hiểm Việt Nam theo đuổi và “ chìa khóa” để triển khai kế hoạch này là các giải pháp về công nghệ thông tin (CNTT), trong đó các ứng dụng phần mềm đóng vai trò quan trọng. Theo ông Subra, Giám đốc Nhóm giải pháp phần mềm của IBM Việt Nam, Việt Nam đang phát triển nhanh về giao dịch điện tử trong lĩnh vực tài chính - bảo hiểm, nhưng việc ứng dụng CNTT trong lĩnh vực này còn thấp so với các quốc gia khác trong khu vực. Trong đó, ứng dụng CNTT trong ngành bảo hiểm còn tụt hậu so với nhiều lĩnh vực khác và so với nền kinh tế Việt Nam nói chung. Mặc dù nhận thức về đầu tư CNTT cho hoạt động bảo hiểm đã được nâng cao, song đầu tư cho lĩnh vực này vẫn chưa thỏa đáng. Ông Lê Văn Nghĩa, Phó tổng giám đốc CTCP Bảo hiểm Viễn Đông cho rằng, thách thức đặt ra đối với các công ty bảo hiểm là yêu cầu tạo ra sự khác biệt bằng việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới nhằm phát triển thêm các phân đoạn thị trường và thu hút thêm các nhóm khách hàng, gia tăng hiệu quả quản lý mạng lưới đại lý, giảm thiểu chi phí... Nói cách khác, việc đẩy mạnh ứng dụng phần mềm trong quản lý sẽ giúp công ty bảo hiểm quản lý hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, dành nhiều thời gian hơn cho việc đầu tư phát triển sản phẩm mới. 17 Trong lĩnh vực bảo hiểm, việc ứng dụng công nghệ thông tin đã cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm vi tính hóa quá trình dịch vụ, giảm bớt tính cồng kềnh của cơ cấu tổ chức doanh nghiệp bảo hiểm, đa dạng hóa kênh phân phối và các hình thức dịch vụ khách hàng bằng các dịch vụ phụ trợ kĩ thuật cao… Ngoài ra sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin tạo ra một thói quen tiêu dùng mới cho khách hàng. Khách hàng ngày càng có nhu cầu tìm hiểu thông tin qua các phương tiện thông tin hiện đại như qua: Internet, điện thoại, email…được cung cấp các dịch vụ tài chính tổng hợp như: bảo hiểm – đầu tư – thanh toán…do vậy, đây là cơ hội để các doanh nghiệp bảo hiểm triệt để ứng dụng thành tựu của khoa học kĩ thuật, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách hàng trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Kết luận: Qua quá trình phân tích và đánh giá ở trên chúng ta thấy rằng Bảo hiểm là một ngành có cường độ cạnh tranh rất mạnh, đồng thời cũng là ngành hấp dẫn thu hút đầu tư, đang trên đà phát triển 18 MÔ THỨC EFAS Các nhân tố chiến lược Độ quan trọng Xếp loại Tổng điểm quan trọng Chú giải 0,07 2 0,14 2. Hội nhập kinh tế thế giới 0,1 3 0,3 3.Tăng trưởng kinh tế cao 0,15 4 0,6 4. Tỉ lệ dân chúng tham gia bảo hiểm còn rất ít 0,08 2 0,16 5. Phát trển công nghệ 0,1 3 0,3 VN là nước có bờ biền trải rộng tạo điều kiện để phát triển xuất nhập khẩu hang hóa.Bên cạnh đó VN giàu tài nguyên thiên nhiên nên thu hút được nhiều vốn đầu tư Thu hút được nhiều nguôn vốn đầu tư trong nước và ngoài nước, giúp gia tăng đối tượng tham gia Bảo Hiểm, và sản phẩm lĩnh vực bảo hiểm. Kinh tế tăng trưởng, chất lượng cuộc sống ngày một cao, nhu cầu về các sản phẩm bảo hiểm tăng. Mặc dù dân số đông nhưng số lượng dân sử dụng dich vụ bảo hiểm chưa cao nên vẫn còn tiềm năng phát triển thị trường. Công nghệ phát triển giúp công ty quản lý, thực hiện các sản phẩm hiệu quả và nhanh chóng. 0,15 3 0,45 0,1 2 0,2 Các hàng rào WTO đã dần xóa bỏ, vì vậy mức độ cạnh tranh của các công ty ngoài rất mạnh. Các 0,05 2 0,1 Nguy cơ xảy ra rủi ro ngày Các cơ hội 1. Địa lý Việt Nam Đe dọa 1. Xâm nhập của các công ty bảo hiểm nước ngoài 2. Cạnh tranh với các công ty bảo hiêm trong nước 3. Biến cố về tự nhiên 19 xảy ra nhiều hơn 4. Thể chế pháp luật chưa hoàn thiện 0,1 3 0,3 5. Tâm lý và sự hiểu biết của người dân 0,1 2 0,2 Tổng 1 càng cao và không có hệ thống dẫn tới rủi ro cho ngành trong việc đền bù thiệt hại. Luật thay đổi thường xuyên tạo ra thách thức trong chiến lược kinh doanh dài hạn của doanh ghiệp, có nguy cơ pháp luật không theo kịp sự biến động của thị trường dẫn tới chất lượng kiểm soát và quản lý thấp. Người dân còn mơ hồ về vai trò và ý nghĩa của bảo hiểm trong đời sống, thậm chí có những suy nghĩ không thật sự chính xác về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia bảo hiểm. 2,75 Qua phân tích các nhân tố bên ngoài, ta thấy công ty đã tận dụng được các cơ hội từ môi trường bên ngoài. Tuy nhiên bên cạnh những cô hội là những đe dọa mà Bảo Việt chưa thực sự phản ứng tốt. Tổng số điểm quan trọng của Bảo Việt là 2,75 trên mức trung bình cho thấy Bảo Việt đã ứng phó khá hiệu quả đối với những nhân tố bên ngoài. Tuy nhiên công ty cần cố gắng đưa tống số điểm quan trọng đạt mức tốt hơn ( đạt từ 3 đến 4 điểm). Điều đó khiến công ty cân phản ứng một cách tích cực hơn trong cạnh tranh và tận dụng triệt để các cơ hội. III :Nhân tố bên trong 3.1:Sản phẩm và thị trường chủ yếu của công ty Trong giai đoạn từ năm 1964 tới năm 1975, Bảo Việt chỉ phục vụ một nhóm nhỏ khách hàng là các đơn vị kinh tế nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tầu biển thuộc Miền Bắc. qui mô kinh doanh của Công ty vẫn rất nhỏ bé, doanh thu bảo hiểm chỉ đạt 5,6 triệu đồng, tổng tài sản đạt 10 triệu đồng Việt Nam. Hoạt động kinh doanh của Công ty cũng vẫn chỉ hạn chế trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải. Năm 1989 đánh dấu một bước phát triển quan trọng của Bảo Việt khi Công ty bảo hiểm Việt Nam được Chính phủ chuyển đổi thành Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam. Thành tích trên có được là nhờ vào việc thực hiện thành công chủ trương mở rộng mạng lưới, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, tạo ra sự phát triển vượt bậc về qui mô kinh doanh. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất