MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................3
Chương 1
LÝ THUYẾT VỀ XUẤT NHẬP KHẨU VÀ NHẬP SIÊU, NHỮNG
TÁC ĐỘNG CỦA NHẬP SIÊU ĐẾN NỀN KINH TẾ.....................5
1.1
Lý thuyết về xuất khẩu, nhập khẩu:.........................................................................................5
1.1.1
Tổng quan về xuất khẩu:....................................................................................................5
1.1.2
Tổng quan về nhập khẩu:...................................................................................................6
1.2
Nhập siêu và tác động của nhập siêu đến nền kinh tế.............................................................7
1.2.1
Khái niệm............................................................................................................................7
1.2.2
Tác động..............................................................................................................................8
Chương 2
NHẬP SIÊU TỪ TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN
NỀN KINH TẾ...................................................................................11
2.1
Tổng quan về vấn đề xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2001-2011.................................11
2.2
Vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc giai đoạn 2001-2011..........................................................12
2.2.1
Nhập siêu từ Trung Quốc – câu chuyện của thế kỷ mới..................................................12
2.2.2
Thực trạng nhập siêu từ Trung Quốc qua những con số................................................13
2.3
Những ảnh hưởng đối với nền kinh tế....................................................................................16
2.3.1
Rủi ro tập trung khi phụ thuộc vào một nền kinh tế khác...............................................16
2.3.2
Sức ép do thâm hụt cán cân thương mại..........................................................................16
1
2.3.3
Ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước........................................................................19
2.3.4
Nguy cơ trở thành bãi phế thải công nghệ của Trung Quốc...........................................20
2.4
2.4.1
Phân tích nguyên nhân nhập siêu Trung Quốc......................................................................21
Hàng hóa Việt Nam kém cạnh tranh so với hàng hóa Trung Quốc................................21
2.4.2
Kinh tế Viêtê Nam tăng trưởng mạnh nên nhu cầu nhập khẩu hàng hóa rẻ từ Trung Quốc
là rất lớn ...........................................................................................................................................21
2.4.3
Nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu đầu vào.................................21
2.4.4
Lợi thế về vị trí địa lý của Trung Quốc so với các quốc gia khác....................................22
2.4.5
Tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu không theo kịp nhập khẩu....................................22
2.4.6
Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu và quản lý nhập khẩu của Trung Quốc......................23
Chương 3
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ NHẬP SIÊU TRUNG QUỐC
.............................................................................................................24
3.1
Hạn chế nhập khẩu những mặt hàng đã sản xuất được, những mặt hàng xa xỉ, đẩy mạnh sản
xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu từ Trung Quốc...........................................................24
3.2
Chuyển hướng thị trường nhập khẩu, quy định chặt chẽ trong việc thu hút vốn FDI...........25
3.3
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại................................................................................................25
3.4
Hỗ trợ sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam, tăng cường xuất khẩu sang
Trung Quốc...........................................................................................................................................26
3.5
Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa, an toàn thực phẩm, chống nhập lậu, buôn lậu đối
với hàng nhập từ Trung Quốc..............................................................................................................27
KẾT LUẬN........................................................................................29
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc không ngừng phát triển theo cả chiều rộng vào chiều sâu. Kể từ năm 2004
đến nay, Trung Quốc luôn là một trong những đôi tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
Song nhập siêu với Trung Quốc tăng nhanh trong mười năm trở lại đây đã gây mất cân
bằng nghiêm trọng cán cân thương mại của Việt Nam và giấy lên mối lo ngại của các nhà
quản lý cũng như các học giả trong nước.
Giai đoạn từ 1991-2000, Việt Nam luôn xuất siêu sang Trung Quốc, tuy nhiên, kể
từ năm 2001 đến nay Việt Nam đã chịu sức ép nhập siêu rất mạnh từ Trung Quốc. Giá trị
nhập siêu từ Trung Quốc liên tục tăng mạnh qua các năm. Trong quan hệ thương mại với
Trung Quốc, Việt Nam không chỉ luôn trong tình trạng nhập siêu với tốc độ cao mà còn
quan trọng hơn đó là thâm hụt thương mại với Trung Quốc chiếm một tỉ lệ khá cao trong
tổng giá trị thâm hụt thương mại quốc tế hàng năm của Việt Nam. Tình trạng này diễn
tiến theo hướng ngày càng gia tăng: năm 2001, thâm hụt thương mại với Trung Quốc
chiếm 15,88% tổng thâm hụt thương mại quốc tế của Việt Nam; năm 2002 tỉ lệ này tăng
lên 21,07%, đến năm 2006 lên đến 81%; trong năm 2007 và 2008 tỉ lệ này có giảm
xuống, nhưng vẫn ở mức trên 60%, song đến năm 2010 chiếm hơn 100% và năm 2011
tăng vọt lên 136,80%. Việc nhập siêu quá mức từ một thị trường gây ra những tác động
tiêu cực đến nền kinh tế trong nước và gây khó khăn cho quản lý kinh tế.
Để cung cấp một cái nhìn toàn diện của nhập siêu Việt Nam đối với Trung Quốc
nhằm tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã quyết định chọn đề tài
“ Nhập siêu từ Trung Quốc’’. Mục đích nghiên cứu của tiểu luận là làm rõ nguyên nhân
và tìm ra đâu là giải pháp chính sách cần thực hiện để giải quyết vấn đề nhập siêu Trung
Quốc.
3
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giữa Việt Nam
và Trung Quốc. Phạm vi thời gian nghiên cứu là giai đoạn 2001-2011, chọn giai đoạn
ngày vì năm 2001 là năm Việt Nam bắt đầu giai đoạn nhập siêu với Trung Quốc và tăng
liên tục cho đến nay.
Tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
Phân tích, tổng hợp tài liệu: nghiên cứu các thông tin, kiến thức có trong các giáo trình,
sách tham khảo ở trường đại học, các bài báo, các công trình nghiên cứu, mạng Internet.
Phương pháp thu thập số liệu: dựa trên nguồn thông tin sơ cấp và thứ cấp từ các tài liệu,
chủ yếu là các trang web để làm cơ sở cho các nhận xét, đánh giá.
Về kết cấu, chương 1 trình bày lý thuyết về xuất nhập khẩu và nhập siêu, những tác
động của nhập siêu đến nền kinh tế để giúp độc giả có cái hiểu cặn kẽ về đối tượng mà
tiểu luận nghiên cứu và tiếp cận dễ dàng hơn với chương 2. Chương 2 đầu tiên cung cấp
một cái nhìn tổng quát về xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 đến 2012, tức là
từ khi Việt Nam bắt đầu giai đoạn nhập siêu Trung Quốc, để xem xét kim ngạch xuất
nhập khẩu và cơ cấu xuất nhập khẩu của nước ta trong giai đoạn này như thế nào. Tiếp đó
chỉ ra được thực trạng nhập siêu Trung Quốc những năm vừa qua, đang ở mức độ nào,
gây ra những tác động gì, nguy cơ gì cho nền kinh tế. Cuối cùng phân tích những nguyên
nhân của nhập siêu.Từ những phân tích ở chương 2, chương 3 sẽ trình bày những giải
pháp chính sách cho vấn đề nhập siêu Trung Quốc.
4
Chương 1
LÝ THUYẾT VỀ XUẤT NHẬP KHẨU VÀ NHẬP SIÊU, NHỮNG
TÁC ĐỘNG CỦA NHẬP SIÊU ĐẾN NỀN KINH TẾ
1.1 Lý thuyết về xuất khẩu, nhập khẩu:
1.1.1
Tổng quan về xuất khẩu:
- Khái niệm:
Xuất khẩu là việc cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở
dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động
mua bán và trao đổi hàng hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong
nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động
này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia hoặc thị trường nội địa và khu
chế xuất ở trong nước.
Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ lâu
đời, ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản ban
đầu của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến nay nó đã rất phát
triển và được thể hiện thông qua nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra
trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là
hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với tỷ trọng ngày càng lớn.
-
Vai trò:
Xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại chủ yếu của một quốc
gia. Hoạt động xuất khẩu là một nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng và phát triển của
một quốc gia. Thực tế lịch sử đã chứng minh, các nước đi nhanh trên con đường tăng
trưởng và phát triển là những nước có nền ngoại thương mạnh và năng động.
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp
hóa đất nước. Để công nghiệp hóa đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số
5
vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để
nhập khẩu có thể dược hình thành từ những nguồn sau: xuất khẩu hàng hóa, đầu tư nước
ngoài, vay nợ, viện trợ… Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ…
tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả lại bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau
này. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hóa đất nước là xuất khẩu.
Thứ hai, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện cho những ngành khác có cơ hội phát triển
thuận lợi, tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển
và ổn định, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao
năng lực sản xuất trong nước. Hơn nữa, xuất khẩu còn tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ
thuật cho nền sản xuất nước nhà. Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của ta sẽ tham gia vào
cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi
hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị
trường…
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống của nhân dân.Trước hết, chế biến sản xuất hàng xuất khẩu đang trực tiếp
tạo việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra
nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm hàng hóa, đáp ứng ngày một phong phú nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.Xuất khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc
lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Ví dụ như xuất khẩu với các quan hệ tín dụng,
đầu tư, vận tải quốc tế…
1.1.2
-
Tổng quan về nhập khẩu:
Khái niệm:
Nhập khẩu là việc mua hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng trong nước hoặc tái xuất trên cơ sở tuân theo các thông lệ thị trường
6
quốc tế. Về bản chất, sẽ có một luồng hàng hóa dịch vụ từ nước ngoài chảy vào nước
nhập khẩu và có một luồng tiền tương ứng chảy ra.
-
Vai trò:
Thứ nhất, nhập khẩu tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa đất nước. Kinh tế Việt Nam xuất phát từ một nền sản
xuất nông nghiệp quy mô nhỏ, nên chúng ta cần tăng cường nhập khẩu công nghệ mới
trang bị cho các ngành như điện tử, đóng tàu, chế biến dầu khí…
Thứ hai, nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh
tế, đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định. Một nền kinh tế muốn phát triển tốt
cần đảm bảo sự cân đối theo những tỷ lệ nhất định như: cân đối giữa khu vực 1 và khu
vực 2, giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa hàng hóa và lượng tiền trong lưu thông, giữa xuất
khẩu với nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế. Nhập khẩu có tác động rất lớn thông
qua việc cung cấp các yếu tố đầu vào làm cho sản xuất phát triển, mặt khác lại tạo điều
kiện cho các quốc gia chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận hưởng được những lợi thế
từ thị trường thế giới và khắc phục được những mặt mất cân đối, thúc đẩy nền kinh tế
quốc dân phát triển.
Thứ ba, nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập
khẩu có vai trò làm thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của nhân dân về hàng tiêu dùng, mà trong
nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đủ. Hơn nữa, nhập khẩu đảm bảo đầu vào
cho sản xuất, làm việc làm của người lao động được ổn định…
Thứ tư, nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện
ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, điều này đặc biệt quan trọng
với các nước đang và kém phát triển…
1.2 Nhập siêu và tác động của nhập siêu đến nền kinh tế
1.2.1
Khái niệm
Nhập siêu là khái niệm dùng mô tả tình trạng Cán cân thương mại có giá trị
nhỏ hơn 0. Nói cách khác, khi kim ngạch nhập khẩu cao hơn xuất khẩu trong một thời
7
gian nhất định, đó là nhập siêu. Nhập siêu là hiện tượng phổ biến ở những nước có nền
kinh tế thị trường phát triển theo hướng mở..
1.2.2
Tác động
Xét trên nhiều phương diện, nhập khẩu ở một chừng mực nào đó sẽ có lợi cho nền
kinh tế, đặc biệt đối với các nước trong giai đoạn đang phát triển. Tuy nhiên, nhập siêu
quá cao sẽ tác động xấu đến nền kinh tế
-
Tích cực
Đối với kinh tế, việc nhập khẩu công nghệ, máy móc trang thiết bị cao cấp giúp
nâng cao trình độ kỹ thuật, tiến gần trình độ phát triển cao của thế giới, nhờ đó tạo ra
các sản phẩm xuất khẩu có chất lượng, có khả năng cạnh tranh cao. Trong điều kiện
ngành sản xuất nguyên liệu cao cấp trong nước chưa phát triển thì việc nhập khẩu nguyên
liệu giúp cho các nước này thực hiện tốt chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng
về xuất khẩu. Hàng nhập khẩu trong nhiều trường hợp tạo môi trường cạnh tranh kích
thích sản xuất trong nước hoàn thiện và phát triển. Nhập khẩu từ nguồn vốn ODA của các
tổ chức tài chính quốc tế giúp cải thiện mau chóng hạ tầng cơ sơ tạo điều kiện thuận lợi
để phát triển kinh tế.
Đối với xã hội, việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, sản phẩm khoa học và văn hóa
còn góp phần phát triển nguồn nhân lực và nâng cao mức sống người dân. Nhập khẩu
từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp chẳng những góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng
trương kinh tế mà còn tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống
xã hội.
-
Tiêu cực
Thúc đẩy tư tưởng "sùng ngoại’’: nhập khẩu tràn lan vượt quá kiểm soát của chính
phủ sẽ dẫn tới hiện tượng lãng phí ngoại tệ, tác động xấu đến sản xuất trong nước. Việc
nhập khẩu hàng tiêu dùng quá nhiều sẽ dẫn tới xu hướng “sùng ngoại”, khiến hàng nội
địa khó tiêu thụ hơn.
8
Gia tăng nợ công: nhập siêu thường xuyên sẽ dẫn đến tình trạng cạn kiệt ngoại tệ,
khiến các chính phủ phải gia tăng vay nợ bằng cách phát hành thêm trái phiếu. Trong một
thời gian dài, nhập siêu sẽ khiến con số nợ công của một nước ngày càng tăng vì suy cho
cùng các nước đều phải dựa vào xuất khẩu để trả nợ và lãi.
Nhân tố tạo khủng hoảng: nhập siêu có thể gây ra khủng hoảng nợ công như tại Hy
lạp, nước nhập siêu tới 13,5% GDP (năm 2009), dẫn đầu top các nền kinh tế bị nhập siêu
tính theo tỷ lệ với GDP. Nước này đã rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ nhất châu
Âu kể từ đầu năm 2010 và cho đến nay vẫn chưa cải thiện tình hình, dù đã nhận được các
gói ứng cứu từ bên ngoài. Hoặc như trường hợp của Hoa Kỳ, nước có kim ngạch nhập
siêu tuyệt đối (tính bằng USD) lớn nhất. Hoa Kỳ hiện cũng lâm vào một cuộc khủng
khoảng nợ công, nhưng ở mức độ và sắc thái khác vơi Hy Lạp. Ngoài ra, một số nhà
chuyên môn tin rằng nhập siêu lớn là một trong các nguyên nhân chính dẫn tới
cuộc Khủng khoảng tài chính năm 1997 – 1998.
Gia tăng thất nghiệp :Nhập siêu làm cho thị trường hàng hóa trong nước bị tác
động nghiêm trọng.Hàng hóa trong nước không thể cạnh tranh được dẫn tới tình trạng
thất nghiệp tăng cao gây nhiều hậu quả xấu cho xã hội.
Nhấn chìm thị trường chứng khoán: Hai tác động chính của tình trạng nhập siêu
là gia tăng nợ công và làm suy yếu sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước. Nếu trong
một thời gian dài một đất nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn xuất khẩu, họ sẽ lâm vào
cảnh nợ nần, trong khi hàng hóa nội địa ngày càng bị hàng ngoại lấn át. Qua thời gian,
giới đầu tư sẽ nhận thấy tình trạng suy yếu trong tiêu thụ hàng hóa nội địa, một diễn biến
gây tổn hại cho các nhà sản xuất trong nước và cũng làm suy giảm giá trị cổ phiếu của
họ. Thời gian càng kéo dài, giới đầu tư càng nhận ra rằng cơ hội đầu tư tốt ở thị trường
nội địa càng ít đi, và bắt đầu chuyển hướng sang các thị trường cổ phiếu ở nước khác.
Điều đó sẽ làm giảm nhu cầu đối với thị trường cổ phiếu ở trong nước và khiến thị trường
ngày càng đi xuống. Thực trạng của Thị trường chứng khoánhiện nay có thể rơi vào
trường hợp này.
9
Tóm lại, chương 1 đã trình bày được một cách khái quát về xuất nhập khẩu và nhập
siêu. Có thể nhận định rằng, về cơ bản đối với một nền kinh tế nhỏ như Việt Nam thì
nhập siêu sẽ có tác động tiêu cực. Nhập siêu lớn sẽ làm ảnh hưởng đến sản xuất trong
nước, khi mà người dân ưa chuộng tiêu dùng hàng ngoại nhập thì hàng hóa trong nước
sẽ khó cạnh tranh, từ đó làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Ngoài ra, khi sản xuất trong nước
phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu thì tiềm ẩn nhiều rủi ro và có
thể khiến một nước rơi vào khủng hoảng. Tiếp theo chương 2 sẽ trả lời tại sao đề tài lại
chọn nghiên cứu vấn đề nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc, làm rõ những ảnh
hưởng của nó đến nền kình tế và phân tích nguyên nhân của thực trạng này.
10
Chương 2
NHẬP SIÊU TỪ TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN
NỀN KINH TẾ
2.1 Tổng quan về vấn đề xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2001-2011
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này tăng trung bình
18,59%/năm, xuất khẩu tăng trung bình 18,48%/năm, nhập khẩu tăng trung bình
18,69%/năm.
Nguồn: Tổng cục hải quan
Biểu đồ1: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa và cán cân thương mại giai
đoạn từ 2001-2011
Nhận xét biểu đồ:
Xuất khẩu, nhập khẩu đều tăng trong các giai đoạn 2001-2008 và 2009-2011, giảm
trong giai đoạn 2008-2009.Hai giai đoạn cả xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng mạnh, là
2007-2008 và 2009-2011, có một nguyên nhân quan trọng là tác động của cuộc khủng
11
hoảng kinh tế toàn cầu làm đồng đô la Mỹ mất giá và giá cả hàng hóa quốc tế tăng cao.
Năm 2009, kim ngạch giảm cũng do hậu quả của suy thoái kinh tế toàn cầu, tuy nhiên
nguyên nhân là do khối lượng hàng hóa giảm.
Xét về nhập siêu, trong giai đoạn 2001-2011, Việt Nam luôn nhập siêu, tăng dần trong
giai đoạn 2001-2008 và giảm dần trong giai đoạn 2008-2011. Năm nhập siêu nhiều nhất
là 2008 với 18 tỷ USD, bằng 28,7% xuất khẩu và 12,6% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Nguyên nhân là do khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhiều đơn hàng xuất
khẩu của Việt Nam bị hủy bỏ hoặc sụt giảm, sự giảm của khối lượng hàng hóa mạnh hơn
sự tăng của giá cả, ảnh hưởng giảm khối lượng xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Tiêu biểu
như dệt may giảm 20-30% về số đơn hàng và giá so với 2007, thủy sản giảm khoảng 30%
về số đơn hàng và giá. Có thể giải thích thêm là do hiện tượng giá cánh kéo, khi giá cả
hàng hóa quốc tế có xu hướng tăng thì giá của nhóm hàng máy móc thiết bị, công nghệ
tăng nhanh hơn nhóm hàng nông sản, nguyên nhiên liệu. Điều này gây thiệt thòi cho một
nước đang phát triển như Việt Nam, đẩy nhập siêu của ta tăng mạnh. Nhờ những nỗ lực
của chính phủ trong hạn chế nhập siêu mà nhập siêu của Việt Nam đang giảm dần từ
2008 đến 2011.
2.2 Vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc giai đoạn 2001-2011
2.2.1
Nhập siêu từ Trung Quốc – câu chuyện của thế kỷ mới
Cán cân thương mại trong quan hệ kinh tế Việt Nam từ 2001 đến 2011 là một vấn
đề có tính thời sự trong quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Kể từ khi bình
thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc (11/1991) đến nay, quan hệ thương mại giữa
hai nước đã đạt được tốc độ phát triển mạnh mẽ, luôn vượt chỉ tiêu của lãnh đạo hai nước
đề ra. Đây là một kết quả tích cực đối với sự phát triển của mối quan hệ Việt – Trung.
Tuy nhiên, kể từ năm 2001 đến nay, trong quan hệ thương mại Việt – Trung, Việt Nam
luôn bị rơi vào tình trạng nhập siêu với tốc độ ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn
tốc độ, bất chấp những biện pháp can thiệp của lãnh đạo hai nước, làm cho tình trạng
12
thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam ngày càng lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển
bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Câu chuyện thâm hụt thương mại với Trung Quốc bắt đầu được chú ý cách đây
hơn 10 năm, khi Việt Nam chuyển từ xuất siêu 130 triệu USD năm 2000 sang nhập siêu
gần 200 triệu USD một năm sau đó. Con số này tuy không lớn nhưng liên tục tăng dần
trong những năm tiếp theo. Đồng thời, tỷ trọng trong tổng nhập siêu của toàn nền kinh tế
ngày một cao.
2.2.2
Thực trạng nhập siêu từ Trung Quốc qua những con số
Trong bối cảnh quan hệ kinh tế quốc tế và khu vực phát triển theo xu hướng hợp
tác và hội nhập, cùng với chủ trương thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ thương mại song
phương và những chính sách hỗ trợ, thúc đẩy của Chính phủ hai nước, quan hệ thương
mại Việt – Trung trong thập niên đầu thế kỉ XXI phát triển mạnh mẽ hơn so với giai đoạn
trước. Từ 2001 đến 2011, kim ngạch thương mại hai chiều tăng trưởng với tốc độ rất
nhanh (xem Bảng 2.1) và luôn vượt chỉ tiêu mà lãnh đạo hai nước đề ra (đạt 10 tỷ USD
năm 2007 và 25 tỷ USD năm 2010).
Tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt - Trung tăng với tốc độ trung bình
hàng năm khoảng 125% với tổng giá trị kim ngạch thương mại hai chiều rất cao, đưa
Trung Quốc trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam trong 8 năm liền. Tuy nhiên, sự
phát triển mạnh mẽ trên đã đẩy Việt Nam vào một tình thế hết sức bất lợi. Theo số liệu
của Tổng cục thống kê, nếu như trong giai đoạn từ 1991 - 2000, Việt Nam luôn xuất
siêu sang Trung Quốc (trừ năm 1998), thì ngược lại bước sang thế kỷ 21, cụ thể là giai
đoạn từ 2001 - 2011, Việt Nam luôn nhập siêu với quy mô lớn, trung bình là 5972,1
triệu USD/năm.
13
Bảng 2.1: Kim ngạch thương mại Việt – Trung từ 2000 đến 2011
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Tổng kim ngạch
VN
VN
XNK
xuất khẩu nhập khẩu
Giá trị Tỉ lệ so với
năm trước
(%)
2937,50
1536,40
1401,10
3023,60
102,93 1417,40
1606,20
3677,10
121,61 1518,30
2158,80
5021,70
136,57 1883,10
3138,60
7494,20
149,24 2899,10
4595,10
9127,80
121,80 3228,10
5899,70
10634,10
116,50 3242,80
7391,30
16356,10
153,81 3646,10
12710,00
20823,70
127,31 4850,10
15973,60
20814,30
99,95 5403,00
15411,30
27327,60
131,29 7308,80
20018,80
35719,00
137,29 11126,00
24593,00
Cán cân thương Tính theo
mại VN – TQ
giai đoạn
Giá trị Tỉ lệ so
với năm
trước (%)
+135,30
-188,80
139,50 Tổng giá
-640,50
339,20 trị nhập
-1255,50
196,00 siêu của
-1696,00
135,10 VN từ TQ
-2671,60
157,50 giai đoạn
-4148,50
155,30 2001 –
-9063,90
218,49 2011 là:
65693,03
-11123,50
122,72
triệu USD
-10008,30
89,97
-12710,00
126,99
-13467,00
105,95
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhận xét bảng số liệu:
Ta có thể thấy điểm nổi bật trong quan hệ thương mại Việt – Trung giai đoạn từ
2001 đến 2011 đó là mức độ thâm hụt thương mại của Việt Nam diễn tiến theo hướng
ngày càng tăng nhanh. Năm 2000, Việt Nam vẫn còn xuất siêu sang Trung Quốc,
nhưng từ năm 2001 trở đi, Việt Nam bắt đầu nhập siêu từ Trung Quốc là 188,8 triệu
USD, đến năm 2006 đã tăng lên đến 4.148,5 triệu USD. Sang giai đoạn 2007 – 2011,
do thuế nhập khẩu tiếp tục giảm, mức độ thâm hụt tăng mạnh hơn rất nhiều so với
trước: năm 2007, Việt Nam nhập siêu 9.145,8 tỉ USD và đến 2011 đã tăng lên đến
13.467,00 triệu USD. Những con số thâm hụt trên chỉ mới tính trên cơ sở giá trị xuất
nhập khẩu hàng hóa, nếu tính cả giá trị về dịch vụ, ngân hàng, du lịch, viễn thông và
14
doanh số mua điện hàng năm từ Trung Quốc, thì con số thâm hụt thương mại của Việt
Nam trong quan hệ với Trung Quốc thực tế sẽ cao hơn.
Đơn vị: tỷ USD
(*) Tính đến hết tháng 7/2012
Nguồn: Tổng cục thống kê
Biểu đồ 2: Nhập siêu từ Trung Quốc so với tổng nhập siêu của Việt Nam giai
đoạn 2000 - 2012.
15
Nhập siêu từ Trung Quốc ngày càng tăng cao cho thấy Việt Nam ngày càng phụ
thuộc vào thị trường này khiến cho sản xuất trong nước bị đình trệ, không thể phát triển
một cách độc lập. Việt Nam nhập khẩu rất nhiều hàng hóa Trung Quốc, có thể kể đến
điện thoại ,máy tính thậm chí cả các vật dụng cần thiết hàng ngày hết sức đơn giản như
tăm tre, rổ rá, đồ tre nứa, nhựa, kể cả rau củ quả… Nước ta là một nước nông nghiệp mà
rất nhiều sản phẩm có thế mạnh như rau quả, đồ tre nứa vẫn phải phụ thuộc quá nhiều
vào hang nhập khẩu từ Trung Quốc, điều này phần nào đã ảnh hưởng tiêu cực tới sản
xuất hang hóa trong nước, sức cạnh tranh của hàng Việt trên chính thị trường nội địa sẽ
yếu đi.
Điều này còn dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở nước ta do các sản phẩm của nước
ta không thể cạnh tranh được với sản phẩm nước bạn, nhiều công ty, xí nghiệp sẽ bị đình
trệ sản xuất không tiêu thụ được hàng hóa
2.3 Những ảnh hưởng đối với nền kinh tế
2.3.1
Rủi ro tập trung khi phụ thuộc vào một nền kinh tế khác
Thực tế cho thấy, những năm gần đây, Trung Quốc liên tục trúng thầu các công
trình và dự án lớn, thực hiện theo hình thức làm trọn gói từ khâu thiết kế, mua sắm
thiết bị đến xây dựng. Điều này dẫn đến tình trạng các công trình đều phải nhập thiết bị
đầu vào từ Trung Quốc, qua đó làm tăng áp lực đối với nhập siêu.
Một bài học lớn từ kinh tế là, cần đa dạng hóa thị trường nhằm phân tán rủi ro. Do
vậy, khi phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc sẽ tạo ra nguy hiểm là hàng hóa thực
phẩm giá rẻ tràn vào, nhưng lại không được kiểm soát tốt về chất lượng, ảnh hưởng
đến sức khỏe của người tiêu dùng. Mặt khác, những sản phẩm, nguyên liệu đến từ
Trung Quốc lâu nay vẫn được coi là hàng kém chất lượng. Đặc biệt, nguy cơ Việt Nam
trở thành bãi chứa đồ thải của Trung Quốc là rất lớn, nếu cứ tiếp tục dễ dãi cho các
hàng hóa lạc hậu, kém chất lượng chảy về trong nước.
16
2.3.2
Sức ép do thâm hụt cán cân thương mại
Cán cân thương mại trong quan hệ kinh tế Việt Nam từ 2001 đến 2011 là một vấn
đề có tính thời sự nóng bỏng trong quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Kể từ
khi bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc (11/1991) đến nay, quan hệ thương
mại giữa hai nước đã đạt được tốc độ phát triển mạnh mẽ, luôn vượt chỉ tiêu của lãnh đạo
hai nước đề ra. Đây là một kết quả tích cực đối với sự phát triển của mối quan hệ Việt –
Trung. Tuy nhiên, kể từ năm 2001 đến nay, trong quan hệ thương mại Việt – Trung, Việt
Nam luôn bị rơi vào tình trạng nhập siêu với tốc độ ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn
tốc độ, bất chấp những biện pháp can thiệp của lãnh đạo hai nước, làm cho tình trạng
thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam ngày càng lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển
bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trung bình trong giai đoạn từ 2001 đến 2011, mỗi năm thâm hụt thương mại
với Trung Quốc đã trực tiếp góp phần làm GDP của Việt Nam giảm 5.972,09 triệu
USD (Phạm Phúc Vĩnh, 2012). Trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, Việt Nam
không chỉ luôn trong tình trạng nhập siêu với tốc độ cao mà còn quan trọng hơn đó là
thâm hụt thương mại với Trung Quốc chiếm một tỉ lệ khá cao trong tổng giá trị thâm hụt
thương mại quốc tế hàng năm của Việt Nam, đặc biệt là tình trạng này diễn tiến theo
hướng ngày càng gia tăng: năm 2001, thâm hụt thương mại với Trung Quốc chiếm
15,88% tổng thâm hụt thương mại quốc tế của Việt Nam; năm 2002 tỉ lệ này tăng lên
21,07%, đến năm 2006 lên đến 81%; trong năm 2007 và 2008 tỉ lệ này có giảm xuống,
nhưng vẫn ở mức trên 60%, song đến năm 2010 chiếm hơn 100% và năm 2011 tăng vọt
lên 136,80% (xem bảng 2.2). Với tỉ lệ này, rõ ràng thâm hụt trong quan hệ thương mại
với Trung Quốc đang tạo ra sức ép lớn lên cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam và
làm gia tăng sức ép đối với nền kinh tế Việt Nam.
17
Bảng 2.2: So sánh giá trị và tỉ lệ thâm hụt thương mại Việt – Trung so với tổng giá
trị thâm hụt thương mại của Việt Nam từ 2001 đến 2011
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Thâm hụt thương
mại của Việt Nam
Giá trị
Tỉ lệ
1188,70
3039,50
255,70
5106,50
168,00
5484,00
107,39
4314,00
78,67
5065,00
117,41
14233,3
281,01
0
18028,7
126,67
0
12852,5
71,29
0
12601,9
98,10
0
9844,20
78,12
Thâm hụt thương Tỉ lệ thâm hụt thương mại VN
mại với TQ
– TQ trong tổng
Giá trị
Tỉ lệ
giá trị thâm hụt của VN
188,80
15,88%
640,50
339,25
21,07%
1255,50
196,02
24,59%
1696,00
135,09
30,93%
2671,60
157,52
61,93%
4148,50
155,28
81,91%
9145,80
220,46
64,26%
11116,40
121,55
61,66%
10008,3
0
12710,0
0
13467,0
0
90,03
77.87%
126,99
100.79%
105,90
136,80%
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Thông thường, đối với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, do đang
tiến hành công nghiệp hóa, cần áp dụng những công nghệ máy móc mới và phát triển hạ
tầng, nên nhập khẩu cũng là đòi hỏi của nền kinh tế và thâm hụt cán cân thương mại là
hiện tượng bình thường. Tuy nhiên, nếu xét kĩ về tỉ lệ thâm hụt thương mại với Trung
Quốc trong tổng mức thâm hụt thương mại quốc gia, cơ cấu hàng hóa trao đổi với Trung
Quốc trong giai đoạn từ 2001 đến 2011 và thực tế về trình độ công nghệ của hàng hóa
Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam thì tình trạng nhập siêu liên tục và ngày càng gia
tăng với khối lượng lớn như trên là bất hợp lý lớn, đẩy Việt Nam vào thế bất lợi, tác động
xấu đến sự phát triển ổn định và bền vững, đẩy nền kinh tế Việt Nam đứng trước nguy cơ
khủng hoảng.
18
Hiện nay (2011), ACFTA đã chính thức đi vào hoạt động, hàng hóa giá rẻ của
Trung Quốc tiếp tục tràn sang thị trường Việt Nam. Về lí thuyết, Việt Nam sẽ có cơ hội
đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản sang Trung Quốc, nhưng trong thực tế xuất
khẩu các mặt hàng này kể từ khi CAFTA bắt đầu khởi động với “chương trình thu hoạch
sớm” đến nay cho thấy, Việt Nam khó có thể tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này
sang thị trường Trung Quốc do bị cạnh tranh mạnh bởi hàng hóa cùng loại của các nước
ASEAN. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục chịu những sức ép lớn do
bị cạnh tranh và thâm hụt thương mại trong quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Quốc trong
thời gian tới. Việc khắc phục tình trạng nhập siêu trong quan hệ thương mại với Trung
Quốc là một vấn đề lớn đối với Việt Nam hiện nay.
2.3.3
Ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước
Xét về chủng loại hàng hóa, Việt Nam xuất sang Trung Quốc chủ yếu là nguyên
liệu thô như: dầu thô, quặng khoáng sản, cao su, than đá; nông hải sản như: rau quả, hải
sản khô và tươi sống… có giá trị chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu. Ngược lại,
Trung Quốc xuất sang Việt Nam chủ yếu là những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, đa số
là nguyên liệu, phụ liệu, linh kiện tinh chế phục vụ sản xuất và lắp ráp gia công sản
phẩm; dây chuyền công nghệ sản xuất và cả hàng tiêu dùng chất lượng trung bình.
Như vậy đa số các mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc hầu hết là
mặt hàn thô, chưa qua chế biến và nhập khẩu rất nhiều các hàng hóa mang hàm lượng
công nghệ cao, đã qua chế biến. Điều này đã làm ảnh hưởng đến việc mở rộng sản xuất
của nước ta ở những mặt hàng có tiềm năng như xăng dầu hoặc hàng tiêu dùng. Bên
cạnh đó, ngay cả những mặt hàng nông sản, hoa quả là thế mạnh của một nước nông
nghiệp như nước ta hiện nay cũng phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm tương tự
của Trung Quốc với giá rẻ hơn rất nhiều. Đồng thời ta có thể thấy việc thu mua những
mặt hàng hoa quả thô ở Việt Nam của các lái buôn Trung Quốc như vải, nhãn,… dẫn đến
nghành công nghiệp chế biến thiếu nguyên liệu để sản xuất.
19
Hơn nữa, nhập siêu từ Trung Quốc sẽ thúc đẩy tư tưởng "sùng ngoại", khiến hàng
nội địa khó tiêu dùng hơn. Hàng trong nước thường bị người tiêu dung thờ ơ, một phần
vì giá cả và thứ hai là vì nghi ngờ chất lượng.
Việc hàng hóa trong nước khó có thể cạnh trạnh với hàng Trung Quốc có thể dẫn
đến tình trạng thất nghiệp với số lượng lớn lực lượng lao động. Do không cạnh tranh
được với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, nhiều doanh nghiệp trong nước sẽ phải cắt
giảm quy mô sản xuất, dẫn tới số lượng người lao động thất nghiệp tăng lên.
2.3.4
Nguy cơ trở thành bãi phế thải công nghệ của Trung Quốc
Việt Nam nhập siêu 1,73 tỷ USD máy tính và thiết bị công nghệ thông tin từ
Trung Quốc trong năm 2009, đó là một con số đáng báo động. Rất nhiều máy móc thiết
bị công nghệ trong đó là hàng công nghệ lỗi thời, chất lượng kém. Với giá thành rẻ , các
sản phẩm này lại được tiêu thụ rât nhanh. Nhưng chúng cũng là những mặt hàng nhanh
chóng lỗi thời và trở thành… rác khi người Việt Nam thích “chạy đua” theo các sản phẩm
công nghệ liên tục phát triển của thế giới.
Ngoài ra, nhiều cá nhân, doanh nghiệp còn bất chấp các qui định để nhập rác thải
điện tử, công nghiệp từ Trung Quốc.Chính vì vậy, lượng rác thải điện tử ở Việt Nam mỗi
năm đều tăng lên nhanh chóng.
Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 đều hướng tới việc đưa
Việt Nam trở thành nước phát triển về công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin.Tuy
nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, đây vẫn là những ngành sản xuất “non trẻ”.Trong đó,
công nghiệp điện tử Việt Nam vẫn chủ yếu phải nhập khẩu công nghệ, nhập khẩu linh
kiện, lắp ráp các mặt hàng, thiết bị điện tử công nghiệp và tiêu dùng. Tuy nhiên, thay vì
ủng hộ nền công nghệ nội, không ít người tiêu dùng Việt Nam lại có xu hướng chạy theo
tốc độ phát triển như vũ bão của các sản phẩm công nghệ trên thế giới. Bằng chứng là
những sản phẩm công nghệ cao như máy tính bảng, điện thoại cảm ứng ngay sau khi ra
mắt trên thị trường thế giới đã xuất hiện rầm rộ trên các trang rao bán đồ điện tử theo
20
- Xem thêm -