Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận môn kinh tế vĩ mô - copy...

Tài liệu Tiểu luận môn kinh tế vĩ mô - copy

.DOC
15
109
103

Mô tả:

Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ LỢI ÍCH CỦA LẠM PHÁT VÀ VIỆC SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH MỤC TIÊU LẠM PHÁT ĐỂ ĐIỀU CHỈNH LẠM PHÁT THEO HƯỚNG CÓ LỢI LỜI MỞ ĐẦU Lạm phát đã, đang và luôn là một vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế và mọi quốc gia, mọi dân tộc…Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mỗi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang. Tác hại của lạm phát đã được nhiều nhà kinh tế tốn không ít giấy mực để phân tích, nhưng liệu có phải lạm phát chỉ đem lại toàn là tai họa? Bài tiểu luận dưới đây xin phân tích một khía cạnh khác của lạm phát để chúng ta có một cái nhìn toàn diện và cụ thể hơn về bức tranh lạm phát. Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 MỤC LỤC TRANG Lời mở đầu 1 1. Tính tất yếu của lạm phát 3 1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát 3 1.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp 4 1.3. Thiểu phát và tác hại 5 1.4. Ba lý do Mỹ nên thúc đẩy lạm phát 6 2. Lợi ích của lạm phát 8 2.1. Bốn lợi ích của lạm phát 8 2.2. Những ai có lợi từ giá cao của lạm phát? 8 2.3. Lạm phát vừa phải tốt cho bạn? 9 2.4. Lạm phát mỡ của chủ nghĩa tư bản 9 3. Chính sách mục tiêu lạm phát 10 3.1. Những vấn đề cơ bản về chính sách mục tiêu lạm phát 10 3.2. So sánh CSMTLP của một số nước trên thế giới 11 3.3. Đánh giá khả năng áp dụng CSMTLP ở Việt Nam hiện nay 13 3.4. Những đề xuất nhằm hoàn thiện các điều kiện tiền đề cho lộ trình tiến tới áp dụng CSMTLP ở Việt Nam 14 Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 1. Tính tất yếu của lạm phát: Trước hết, chúng ta hãy trả lời câu hỏi: “Lạm phát là gì?”. Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Vậy phải chăng lạm phát chỉ xảy ra ở những nước kém hay đang phát triển - nơi mà nền kinh tế còn đang non yếu và có nguy cơ sụp đổ lớn? Chúng ta hãy cùng theo dõi biểu đồ dưới đây: Tỷ lệ lạm phát của 5 thành viên chính của G8 từ 1950 tới 1994. (Hồng là Pháp, Lục là Đức, Xám là Nhật Bản, Đỏ là Anh và Lam là Mỹ.) G8 là nhóm 8 quốc gia dân chủ và công nghiệp hàng đầu của thế giới bao gồm (Pháp, Đức, Italy, Nhật, Anh, Hoa Kỳ (G6, 1975), Canada (G7, 1976)) và Nga (không tham gia một số sự kiện). Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc các nước này có tỷ lệ lạm phát bằng không mà ngược lại, các nước này luôn phải chịu tác động của lạm phát, không những thế, tỷ lệ lạm phát ở những nước này còn rất cao trong một số giai đoạn như 1970 – 1980. 1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát: Về mặt lý thuyết, lạm phát có ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực đến tăng trưởng. Tỷ lệ lạm phát thấp sẽ thức đẩy tăng trưởng. Trường phái tiền tệ cho rằng trong ngắn hạn, khi chính phủ tăng lượng cung tiền góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đồng thời cũng sẽ gia tăng lạm phát do đó tăng trưởng và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều. Theo trường phái Keynes, mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu dương, điều này cũng trùng với kết quả nghiên cứu của Tobin được công bố năm 1965. Tỷ lệ lạm phát cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Lạm phát ở mức cao sẽ dẫn đến sự bật ổn trong lĩnh vực kinh tế làm tăng rủi ro của các hoạt động đầu tư. Lạm phát làm thay đổi giá cả tương đối và được xem như một loại thuế đối với nền kinh tế. Những nghiên cứu gần đây của Fisher (1993), Barro (1996), Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 Bruno va Easterly (1998) đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu âm ở nhiều nước khác nhau. Xa hơn, Khan và Senhadji (2001) đã tìm thấy ‘ngưỡng” của mức lạm phát là 11% mà theo đó, mối quan hệ tăng trưởng lạm phát mang dấu âm khi tỉ lệ lạm phát vượt quá ngưỡng này và mang dấu dương trong trường hợp còn lại. Bên cạnh đó, các nghiên cức của Fisher (1993) và Sarel (1996) đã cho thấy lạm phát tăng trưởng có mối quan hệ phi tuyến. Vậy mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam như thế nào? Khi nghiên cứu mối qun hệ giữa tăng trưởng và lạm phát tại Việt Nam, số liệu được sử dụng trong nghiên cức trên về chỉ số giá tiêu dùng CPI (Customer Price Index) và tổng thu nhập quốc nội GDP ( Gross Domestics Product) giai đoạn từ 1995 đến 2008 do Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố. Số liệu về CPI và GDP được tính theo quý, từ quý 1 năm 2005 đến hết quý 2 năm 2008 tại mức giá năm 1994. Tỷ lệ lạm phát (I) và tăng trưởng (G) được tính theo công thức: It = ln(CPIt) - ln(CPIt-1) và Gt = ln(GDPt) - ln(GDPt-1) It và Gt là tỷ lệ tăng trưởng và lạm phát tại thời điểm t. Ln(CPIt), ln(GDPt) và ln(GDPt-1), ln(CPIt-1) lượt là logarit cơ số tư nhiên tương ứng của các biến tại 4. C¸c thêi ®iÓm t và t-1. C¸c gi¸ trÞ thèng kª m« t¶ vÒ tØ lÖ l¹m ph¸t (I) và tăng trưởng (G) cña ViÖt Nam trong giai ®o¹n này được trình bày trong Bảng 1. Bảng 1. Các giá trị thống kê mô tả về tỷ lệ tăng trưởng và lạm phát theo quý của Việt Nam giai đoạn 1995 – 2008 Mean Median Maximum Minimum Std Dev Skewness Kurtosis Jarque Bera Pvalue (JB test) G 0.0169 0.0045 0.1465 -0.0540 0.04 93 0.6926 2.7404 4.3866 0.1116 53 I 0.0155 0.0120 0.0880 -0.0181 0.02 09 1.2717 5.6301 29.560 8 0.0000 Hệ số tương quan giữa G và I tính được là 0.58, chứng tỏ G và I có mối tương quan dương khá mạnh. Kết quả kiểm định đơn vị Augmented Dickey – Fuller (ADF) cho các chuỗi số liệu G, I, I ,G được trình bày trong Bảng 2. Bảng 2: Kiểm định nghiệm đơn vị Augmented Dickey – Fuller (ADF) I I G ADF-statistic -0.1405 -2.9729** -0.4677 G -24.3722* Chó thÝch: * và **: có ý nghĩa thống kê tại các mức 1% và 5% KÕt qu¶ kiÓm ®Þnh cho thÊy, c¸c chuçi G và I kh«ng dõng, tuy nhiªn c¸c chuçi sai ph©n I và G là chuçi dõng, c¸c dÊu hiÖu kh¸c còng cho cïng nhËn ®Þnh như trªn. Như vËy, biÕn I và G là liªn kÕt bËc nhÊt (I(1)). 1.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp: Hầu hết mọi người vẫn luôn nghĩ rằng một nền kinh tế với tỷ lệ lạm phát bằng không là một nền kinh tế “hoàn hảo”. Nhưng sự thật có phải như vậy? Đường cong Phillips biểu thị quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát. Obs 53 Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 Trong thực tế, các nhà hoạch định chính sách luôn phải “điên đầu” để quyết định sự đánh đổi giữa tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn: lạm phát thấp thì thất nghiệp cao và ngược lại. Mối tương quan này nảy sinh vì thất nghiệp thấp gắn với tổng cầu cao lại tạo áp lực đẩy lên tiền lương và giá cả tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. 1.3. Thiểu phát và tác hại: Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát. Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát. Biểu hiện: Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 Có những đặc trưng không phải con số tỷ lệ giúp xác định thiểu phát, đó là:  Khi giá giảm liên tục và tăng trưởng GDP ở mức âm, nền kinh tế mới rơi vào tình trạng thiểu phát.  Ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời họ lại đặt ra lãi suất huy động tiết kiệm thấp- một tình trạng được coi là thị trường tiền tệ trì trệ. Tỷ lệ lạm phát thấp khiến cho lãi suất thực tế trở nên cao, khiến các nhà đầu tư dè dặt đi vay ngân hàng. Ngân hàng ứ đọng tiền, nên giảm huy động tiết kiệm bằng cách hạ lãi suất huy động tiết kiệm.  Sản xuất trở nên thiếu sôi động. Lạm phát thấp khiến cho tiền công thực tế cao hơn. Người lao động vì thế có thể giảm cung lao động và tăng thơi gian nghỉ ngơi (xem thêm lý luận về đường cung lao động uốn ngược). Mặt khác, giá cả sản phẩm thấp làm giảm động lực sản xuất. Thiểu phát đôi khi được coi là tình trạng trước giảm phát (một tình trạng trái ngược với lạm phát nhưng vẫn nguy hiểm đối với nền kinh tế). Nguyên nhân:  Nguy cơ thứ nhất có thể xuất phát từ việc áp dụng các giải pháp chống lạm phát quá liều, chẳng hạn như thắt chặt tiền tệ, tài khóa và hạn chế cầu quá mức.  Thứ hai có thể là việc sử dụng các biện pháp ngăn ngừa lạm phát một cách quá cứng nhắc như trực tiếp kiểm soát giá của một số mặt hàng.  Nguy cơ thứ ba thường đến từ những sai lầm trong điều hành vĩ mô[1].. Hậu quả: Hậu quả của thiểu phát nghiêm trọng không kém gì lạm phát.  Ảnh hưởng tới lĩnh vực xuất khẩu vì các thị trường lớn đều tiết giảm nhu cầu.  Sức tiêu thụ nội địa không tăng do luồng cung tiền tệ giảm, trong khi xuất khẩu kém. Nếu kịch bản xấu nhất xảy ra, hàng không thể xuất trong khi cầu nội địa giảm, hàng không tiêu thụ hết, giá cả sẽ giảm, sản xuất đình đốn. Một số tình huống thiểu phát ở Việt Nam: Năm 2008 đánh dấu một năm lạm phát cao, song chỉ đến đầu quý 3, do các biện pháp kiềm chế lạm phát quá mức, bắt đầu có nỗi lo thiểu phát và "Nhiều người lo ngại Việt Nam cũng đối mặt với nguy cơ tương tự, nhất là khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 giảm 0,19%. Đây là lần đầu tiên sau một năm rưỡi trở lại đây, CPI ở mức âm". 1.4. Ba lý do Mỹ nên thúc đẩy lạm phát Fed nói sẽ làm tất cả để kích thích nền kinh tế, thậm chí kể cả việc khiến lạm phát gia tăng. Và dưới đây là những lý do cho phép Fed có thể hành động như vậy. Chắc chắn người dân Mỹ sẽ không thoải mái gì khi phải chi trả nhiều hơn cho sinh hoạt phí hàng ngày trong tình trạng thâm thủng ngân quỹ và thiếu hụt việc làm hiện nay. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế học lập luận rằng việc thúc đẩy lạm phát theo một tỷ lệ vừa phải sẽ giúp kích thích nền kinh tế đang tăng trưởng chậm lại. Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 Chính sách tiền tệ nới lỏng không phải bao giờ cũng có tác động tích cực. Trên thực tế, nó thường khiến người dân cảm thấy mình “nghèo đi” bởi giá cả mọi mặt hàng từ ô tô cho đến ti vi đều tăng lên. Mặt khác, một tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ làm đồng đô la giảm dần giá trị và ăn mòn tiền gửi tiết kiệm trong ngân hàng, do đó gián tiếp buộc người dân tiêu tiền càng sớm càng tốt. Mặc dù chính sách này hiếm khi mang lại tác dụng, song trong một bài báo gần đây, James Surowiecki, cây bút của tờ The New Yorker, đã chỉ ra rằng lạm phát thực sự đã có lúc là động lực nâng đỡ nền kinh tế Mỹ trong quá khứ. Sau Thế chiến thứ II, nước Mỹ đã có một khoảng thời gian chứng kiến sự gia tăng liên tục của mặt bằng giá cả làm cho nợ công giảm xuống mức có thể khống chế. Surowiecki nhận xét: “Thúc đẩy lạm phát có lẽ không phải là một chính sách tốt, nhưng nó là chính sách đúng đắn”. Dường như Fed đang dần bị thuyết phục với biện pháp này. Mới đây, Fed tuyên bố rằng họ sẵn sàng kích thích lạm phát nếu điều đó thực sự cần thiết để “giúp nền kinh tế phục hồi và lạm phát được điều chỉnh hợp lý qua từng giai đoạn thích hợp với sứ mệnh của nó”. Cây bút Colin Barr của Fortune đã chỉ ra rằng thông điệp của Fed hàm chứa quyết tâm khá mạnh mẽ khi đây là lần đầu tiên giới chức thừa nhận ảnh hưởng của việc giảm lạm phát buộc họ phải đẩy giá cả lên. Dưới đây là 3 lý do giải thích tại sao lạm phát có thể đem lại sự khởi sắc cho nền kinh tế: Giảm bớt nợ nần Tình hình tài chính của các hộ gia đình Mỹ đang rất tồi tệ, và đây là một trong những nhân tố chủ yếu cản trở đà hồi phục kinh tế. Chính hành động chi tiêu phung phí của người tiêu dùng trong nhiều năm trước đây đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính, mà giờ đây đa số họ đang trở thành nạn nhân của nó với gánh nặng nợ nần khổng lồ. Gần 1/4 số người sở hữu nhà đang nợ nhiều hơn giá trị ngôi nhà của họ, tính theo giá thị trường hiện nay. Không những thế, giá trị tài sản ròng của các hộ gia đình đang ngày càng suy giảm: riêng trong quý II năm nay, nó đã hao hụt tới 1,5 nghìn tỷ USD. Nếu như lạm phát xảy ra, giá cả được điều chỉnh tăng thì rõ ràng giá trị khối tài sản này sẽ được cải thiện. Thêm vào đó, tiền lương cũng sẽ tăng giúp cho người dân dễ thở hơn với những khoản nợ đang thúc giục. Trên hết, tác động lớn nhất của lạm phát là giá trị tương đối của gánh nặng nợ sẽ giảm đi khi mặt bằng giá cả hàng hóa tăng lên. Tất nhiên, khoản nợ công khổng lồ cũng sẽ giảm bớt phần nào, tuy rằng đa số các nhà kinh tế dự đoán nó vẫn sẽ gia tăng trong năm tới. Lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm hiện đang ở mức 2,75% và được dự báo sẽ tăng lên 3,5%, thậm chí 1/3 số chuyên gia trong cuộc điều tra của CNN cho rằng lãi suất sẽ còn lên tới 4%. Dù không thể xóa bỏ hoàn toàn nỗi lo lăng về nợ nần, song việc kích thích lạm phát sẽ giúp nới lỏng những ràng buộc mà chính phủ và người dân đang phải gánh chịu. Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 Kích thích chi tiêu Trong hoàn cảnh tỷ lệ tiết kiệm của người dân và doanh nghiệp ở mức cao bất thường như hiện nay, một “cú hích” nhằm vào chi tiêu và đầu tư chính là những gì nền kinh tế Mỹ thực sự cần để có thể bứt phá. Một “liều thuốc” lạm phát vừa phải chính là tác nhân tạo ra cú hích đó. Nếu người tiêu dùng dự đoán giá cả tăng trong tương lai thì họ sẽ chọn giải pháp tiêu tiền sớm để có lợi hơn, bởi đồng tiền nhàn rỗi ngày càng giảm giá trị tương đối. Hay nói cách khác, gia tăng lạm phát làm giảm động lực tiết kiệm của người dân. Trong dài hạn, gia tăng tiết kiệm thực sự có tác động tích cực đối với nền kinh tế, song nếu xem xét trong ngắn hạn thì việc kích thích chi tiêu là cần thiết hơn để thúc đẩy sự hồi phục. Tạo việc làm nhờ tăng chi tiêu và đầu tư Một trong những trở ngại chính làm cho các doanh nghiệp không mặn mà tuyển dụng thêm nhân công là do sức cầu tiêu dùng quá yếu. Nếu như lạm phát xảy ra, chi tiêu sẽ được kích thích, phía cầu cải thiện thì tất yếu các nhà sản xuất cũng sẽ chớp lấy thời cơ phát triển và thuê mướn lao động nhiều hơn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều yếu tố bất ổn khác có thể khiến cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp do dự trong việc bổ sung lao động, chẳng hạn như khoản chi phí tăng do Luật cải cách hệ thống y tế hay hệ thống thuế thay đổi như thế nào trong năm tới. Dù chưa thể là giải pháp toàn diện để khắc phục tình trạng trì trệ, song việc kích thích lạm phát ở mức độ vừa phải trong một khoảng thời gian nhất định cũng có thể cải thiện phần nào những thương tổn của nền kinh tế. 2. Lợi ích của lạm phát: 2.1. Bốn lợi ích của lạm phát: 1. Tăng trưởng kinh doanh: Kiểm soát sự tăng trưởng của lạm phát, có thể trở thành một phần của sự tăng trưởng kinh doanh, đơn giản chỉ vì các khoản tiền tiết kiệm thường được đầu tư, vì chúng sẽ bị lỗ nếu được giữ trong Ngân hàng. Trong thời gian lạm phát được kiểm soát, người dân trong quá khứ có xu hướng tăng chi tiêu, vì họ sợ giá có thể tăng lên, nên họ sẽ dùng tiền tiết kiệm mua ngay bây giờ, hơn là phải trả nhiều hơn sau đó. 2. Giảm giá trị nợ: Lạm phát cao hơn ăn mòn giá trị thực của đồng tiền. Điều này có nghĩa là giá trị thực tế của các khoản nợ giảm, lợi ích doanh nghiệp mắc nợ và các cá nhân qua đó được tăng lên. 3. Cao hơn giá trị cổ phần: Cổ phiếu mua tại một giá trị trước đó, có thể tăng giá và bán với giá cao hơn và mang lại lợi nhuận cao hơn. 4. Tăng giá trị tài sản: Giá trị của tài sản cố định có thể tăng lên, làm cho một số công ty tài chính an toàn hơn. Theo truyền thống lạm phát cao hơn thường dẫn đến giá cao hơn tài sản cố định trong lý thuyết nên dẫn đến sự gia tăng giá trị. Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 Trên đây là những lợi thế mà mức độ vừa phải lạm phát cung cấp cho xã hội hiện đại. Trong đó, những lợi thế này sẽ cho phép các công ty thúc đẩy kinh doanh thông qua việc tăng giá dễ dàng hơn, dẫn đến lợi nhuận cao hơn, quản lý, tỷ lệ thất nghiệp bằng cách kín đáo làm giảm tiền lương của người lao động khi cần thiết mà không có họ được nhận thức của nó (ngăn chặn sa thải), và tra mỡ một cách toàn diện các bánh xe của chủ nghĩa tư bản. Tất nhiên, nói đi cũng phải nói lại rằng một khi lạm phát vượt quá một giới hạn hợp lý, khoảng 4-5%, những cạm bẫy bắt đầu lớn hơn lợi ích. 2.2 Những ai có lợi từ giá cao của lạm phát? Có một quy tắc thường được chấp nhận trong giới kinh tế rằng tỷ lệ lạm phát trung bình trong khoảng 2-4% là thực sự tốt cho nền kinh tế vì những lý do nêu trên. Nhưng những gì xảy ra khi tỷ lệ lạm phát gia tăng đáng kể ở trên "tỷ lệ an toàn", như có thể xảy ra ở Mỹ trong thập kỷ tiếp theo? Khi lạm phát 7-12% số thực tế như nhiều người đang mong đợi, những ai được hưởng lợi từ điều này?. * Chính phủ - Người thụ hưởng rõ ràng nhất của lạm phát cao hơn, ít nhất trong ngắn hạn, là chính phủ. Kể từ khi họ kiểm soát các máy ép in, chính phủ sẽ luôn luôn có khả năng trả nợ của nó, ít nhất là trong nước kể từ khi lạm phát cao hiệu quả làm giảm chi phí dài hạn của tiền vay. * Khách hàng vay - Bất kỳ ai vay tiền lâu dài cho một tỷ lệ cố định (chẳng hạn như là một thế chấp) hưởng lợi từ lạm phát bởi vì, một lần nữa, nó có hiệu quả làm giảm chi phí trả lãi trong tương lai. Đó là 2000 $ cho mỗi thanh toán thế chấp tháng có thể có vẻ như rất nhiều ngày hôm nay, nhưng 20 năm nữa nó sẽ có giá trị ít hơn rất nhiều. thu nhập của bạn sẽ tăng lên để theo kịp với các chi phí liên tục gia tăng trong khi nợ sống lãi suất cố định của bạn sẽ vẫn không đổi. * Chủ sở hữu của Tài sản thực - Chủ sở hữu tài sản thực thể như bất động sản, vàng, gỗ, đất nông nghiệp, mỏ, vv có xu hướng làm rất tốt trong thời kỳ lạm phát vì giá của các tài sản này (và những mặt hàng họ sản xuất trong trường hợp mỏ, nông nghiệp, đất và gỗ) có xu hướng tăng cùng với lạm phát. 2.3 Lạm phát vừa phải tốt cho bạn? Khi lạm phát hai con số thưc tế, mọi người hoảng loạn vì một lý do rất đứng. Một nền tảng giá cả không ổn định gây khó khăn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng để đánh giá sức mua tương lai của họ và khuyến khích đầu tư sản xuất do nguy cơ kinh tế tăng lên và sự không chắc chắn. Nhưng với lạm phát luôn dưới 4% trong thực tế tất cả các nước phát triển, có lợi ích thực sự khi buộc tỷ lệ lạm phát ở mức thấp hơn? Để bắt đầu, có rất ít nếu có bằng chứng thực nghiệm rằng lạm phát thấp hơn phục vụ cho tăng trưởng kinh tế khi lạm phát là dưới một giới hạn hợp lý, khoảng 5%. Một âm mưu của tỷ lệ lạm phát so với tăng trưởng kinh tế của tất cả các nền kinh tế phát triển từ năm 1960 đến nay không xác đáng dưới mọi hình thức xu hướng. Đó là, có hay không xuất hiện như một sự tương quan giữa lạm phát (một lần dưới một giới hạn hợp lý) và tăng trưởng kinh tế. Nhưng điều đó không có nghĩa là lạm phát là tốt cho bạn, nhưng đúng hơn, chỉ có trung bình lạm phát không phải là đặc biệt xấu. 2.4 Lạm phát mỡ của chủ nghĩa tư bản Lương có xu hướng được khá không đàn hồi. Mọi người không ưa có một cắt giảm lương vì bất cứ lý do nào. Thật không may, đôi khi tiền lương cần phải Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 được cắt giảm trong các ngành công nghiệp hoặc khu vực không để giải phóng vốn cho sản xuất sử dụng nhiều hơn ở nơi khác. May mắn thay, lạm phát cung cấp một cách ra khỏi tình trạng khó xử này. Trong khi công nhân có thể sẽ không sẵn sàng chấp nhận tiền ít hơn trong điều kiện tuyệt đối, họ sẽ được thêm rất nhiều căn hộ nhận tiền lương cho một hoặc hai năm trong khi lạm phát khoảng 34%, một sự hiệu quả - số tiền phải trả cắt giảm trên thực tế. Những loại hình đơn giản như tái phân bổ vốn sẽ không thể trong một thế giới mà không có lạm phát. Kể từ khi loại hình này xuất hiện, lạm phát cho phép vốn được phân bổ một cách hiệu quả hơn nếu không thì sẽ khó thực hiện được, nó sẽ có xu hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khi một nơi khác có thể bị chậm phát triển. Một lợi thế của lạm phát vừa phải là nó giải phóng lãi suất thực âm để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Nếu lãi suất là 2% vào thời điểm lạm phát là 4%, chủ yếu là khách hàng vay được trả tiền để vay tiền. Kể từ khi lãi suất không bao giờ có thể đi dưới 0% về danh nghĩa, công cụ kinh tế này sẽ không được có thể có trong một thế giới mà không có lạm phát. Tất nhiên, nhiều nhà kinh tế nghi ngờ về sự cần thiết của lãi suất thực âm nhưng không có nghi ngờ nó đã được sử dụng hiệu quả nhiều lần. Cuối cùng, lạm phát vừa phải cho phép các công ty liên tục với biên đẩy giá điện thông qua việc tăng giá dưới chiêu bài của lạm phát. Nếu lạm phát là không tồn tại, bất kỳ nỗ lực tăng giá của các công ty chắc chắn sẽ được chú ý và nhiều xem xét kỹ lưỡng, tuy nhiên, nếu công chúng đến với hy vọng rằng giá sẽ tăng lên theo thời gian do lạm phát, nó sẽ được dễ dàng hơn để tăng giá. Điều này là do người tiêu dùng không quan tâm quá nhiều đến mức độ tăng giá trung bình: họ chỉ thông báo khi chúng xảy ra. Nếu một công ty tăng giá 4% khi lạm phát đang chạy ở mức 3%, mà số tiền để tăng sản 1% trong giá cả. Người tiêu dùng có thể sẽ không đặt câu hỏi về gia tăng, tuy nhiên, vì nó nhỏ và không đáng kể cao hơn mức lạm phát. Kể từ khi người tiêu dùng mong đợi lạm phát, họ chấp nhận việc tăng giá mà không có câu hỏi. Điều này dẫn đến lợi nhuận cao hơn cho các công ty và tiền lương cuối cùng cao hơn và tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn so với những gì có thể tồn tại khác. 3. Chính sách mục tiêu lạm phát: Lạm phát ở mức vừa phải là liều “thuốc tăng lực” cho nền kinh tế, vậy làm cách nào để có thể duy trì tỷ lệ lạm phát? Chính sác mục tiêu lạm phát là một trong những câu trả lời. 3.1. Những vấn đề cơ bản về chính sách mục tiêu lạm phát Sau khi đã nhất trí rằng “ổn định giá cả phải là mục tiêu cơ bản của Chính sách tiền tệ (CSTT) trong dài hạn, là cơ sở để một quốc gia có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên” thì cái khó lại xuất hiện là làm sao có thể đạt được mục tiêu đó. Để tránh được xu hướng gây áp lực lạm phát có thể phát sinh từ sự không nhất quán về thời gian, CSTT thường được dựa vào một “chiếc neo” có vai trò như một cột mốc cần đạt được, và nhờ đó buộc NHTƯ không được phép theo đuổi mục tiêu tăng trưởng trong ngắn hạn nữa. Cho đến nay, đã có nhiều chiếc neo được sử dụng trên thế giới như: “khối lượng tiền tệ”, “tỷ giá” và “tỷ lệ lạm phát”. Mỗi chiếc neo đều có những ưu nhược Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 điểm riêng nhưng chiếc neo lạm phát nổi lên như một chỉ tiêu định lượng có mối quan hệ tốt nhất với ổn định giá cả. Vì vậy chính sách mục tiêu lạm phát (CSMTLP) đang trở thành xu hướng lựa chọn số một hiện nay cho nhiều quốc gia trên thế giới. Nghĩa là ngày càng có nhiều quốc gia thừa nhận: “Để đạt được mục tiêu cuối cùng là có một nền kinh tế phồn thịnh trong tương lai thì mục tiêu duy nhất của CSTT phải là ổn định giá cả trong dài hạn, và chiếc neo tốt nhất để neo giữ giá cả ổn định chính là bằng mọi cách đạt được mức lạm phát mục tiêu hợp lý”. Rất nhiều khái niệm từ đơn giản đến phức tạp, dựa trên nhiều khía cạnh khác nhau được đưa ra, nhưng tựu chung các nghiên cứu đều nhất trí “CSMTLP là một khung cơ bản cho CSTT mà trong đó NHTƯ công khai công bố chỉ số lạm phát trong dài hạn (mục tiêu đã được lượng hoá) và cam kết sẽ duy trì mục tiêu này để nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định và tỷ lệ thất nghiệp thấp”. Để CSMTLP có thể thành công trước hết phải đảm bảo được “tính độc lập của NHTƯ” từ đó mới có thể đảm bảo thực hiện một “CSTT đơn mục tiêu” với “tính công khai minh bạch” trong mọi hoạt động. Bên cạnh đó phải xây dựng được khung thời gian hợp lý phù hợp với từng mục tiêu đã được lượng hoá. Và tất nhiên vì trong thời gian đầu khi tập trung vào việc duy trì một tỷ lệ lạm phát thấp, nền kinh tế sẽ phải hứng chịu một thời gian khủng hoảng với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và kinh tế trì trệ, vì vậy nội lực kinh tế của quốc gia đó phải đạt đến một mức độ nhất định để tạo ra cơ sở vượt qua được khoảng thời gian này. Tính độc lập của NHTƯ được thể hiện thông qua việc xác định rõ cơ chế hoạch định CSTT là như thế nào, NHTƯ có được toàn quyền quyết định việc sử dụng các công cụ để thực thi CSTT hay không cũng như nêu rõ trách nhiệm của NHTƯ nói chung và Thống đốc nói riêng trong trường hợp mục tiêu không đạt được như đã đặt ra. Một vấn đề khác cũng quan trọng không kém là lượng hoá mục tiêu hay đặt ra mức lạm phát hợp lý. Vấn đề là liệu mức lạm phát nên là một con số hay là một khung giá trị biến thiên? 3.2. So sánh CSMTLP của một số nước trên thế giới Hơn một chục năm qua kể từ khi CSMTLP được biết đến, đã có rất nhiều quốc gia áp dụng nó. Tuy có những điểm giống nhau vì cùng dựa trên những lý thuyết cơ sở nhưng CSMTLP của mỗi nước lại mang những mầu sắc khác nhau. Để có cái nhìn tương đồng cũng như cở sở so sánh về CSMTLP của các nước này, chúng ta có thể nhìn vào bảng dưới đây với những tiêu chí hết sức cơ bản tương ứng với một số vấn đề đã đặt ra ở phần trên. (Xem bảng 1). Bảng 1 Quốc gia New Zealand Thời điểm áp dụng CSMTLP 4/1990 Chỉ số lạm phát mục tiêu hiện 0% - 3% nay Tính độc lập của NHTƯ Tương đối Canada 26/2/1991 EU 1/1/1999 nhỏ hơn và gần 1% - 3% 2% Đối tượng của học Tuyệt đối thuyết “trách nhiệm tay Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 đôi” Cơ quan công bố lạm phát Sự thoả thuận giữa BTC và NHTƯ phối ECB mục tiêu BTC và chính phủ hợp công bố Công cụ đo lường lạm phát CPI CPI HICP HICP loại trừ tác CPI loại trừ tác CPI loại trừ tác động giá động của thực Chỉ số lạm phát cơ bản động của lãi suất lương thực và năng lượng phẩm chưa chế biến Công bố báo cáo Hàng quý từ 3/1990 Nửa năm từ 5/1995 Hàng tháng Dự báo lạm phát Có Không Không Về thời điểm áp dụng: Có thể coi New Zealand là quốc gia đầu tiên áp dụng CSMTLP một cách trực tiếp vào 4/1990 (vì trước đó đã có Đức, nhưng được đánh giá là CSMTLP một cách gián tiếp). Sau đó 1 năm NHTƯ Canada cũng quyết định áp dụng CS này vào 26/2/1991, họ đã thực thi một CSMTLP rất linh hoạt và hết sức thành công cho đến tận hiện nay. Và gần đây, NHTƯ châu Âu ECB cũng đưa ra quyết định áp dụng CSMTLP vào 1/1/1999 ngay thời điểm ra đời. Đây có thể coi là NHTƯ lớn nhất trên thế giới đã lựa chọn CSMTLP. Về chỉ số lạm phát mục tiêu: Từ khi bắt đầu thực hiện, New Zealand đã xác định khung mục tiêu của mình là 0% - 2% và coi mức 1% là gần tương đương với ổn định giá cả. Nhưng sau đó nhận thấy rằng sự phát triển kinh tế ở mức lạm phát 1,9% và 2,1% là như nhau nên đã quyết định mở rộng khung lạm phát lên 0% -3% cho đến nay. Trong khi đó, điểm đáng chú ý của Canada là việc có vẻ như NHTƯ của họ đã công bố mục tiêu tại một điểm nhưng thực chất lại là một khung giá trị bởi vì họ nhấn mạnh vào biên độ dao động của lạm phát xung quanh giá trị này. Mặc dù ngay từ đầu 2% (tương đương với biên độ 1% - 3%) được cho là hợp lý nhưng để phù hợp với điều kiện kinh tế Canada lúc mới bắt đầu (lạm phát rất cao, thất nghiệp gia tăng, kinh tế trì trệ...), NHTƯ không quyết định lựa chọn giá trị này ngay mà đặt mục tiêu là 3% (biên độ 2% -4%) rồi sau đó giảm dần theo thời gian (3% cho đến hết năm 1992, 2.5% cho đến hết năm 1994, 2% cho 18 tháng tiếp theo). Đến 2/1998, NHTƯ Canada quyết định duy trì mục tiêu 2% đến hết năm 2001 vì thực tế đã chứng tỏ rằng đây là một khung dao động phù hợp, tạo ra những thay đổi tích cực cho nền kinh tế. Có lẽ vì thế mà vào ngày 18/5/2000 mức 2% đã tiếp tục được quyết định sẽ kéo dài đến hết năm 2006. Đi sau các nước khác cũng đồng nghĩa với việc rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm, ECB công bố mức 2% là hợp lý và cho một biên độ dao đông nhỏ hơn và gần 2%. Họ cho rằng nếu mức lạm phát được ấn định quá cao, chúng ta sẽ phải đối mặt với rủi ro là lạm phát dự tính sẽ tăng theo hình trôn ốc (khởi đầu là dự tính lạm phát tăng làm cho tiền lương tăng; tiền lương tăng dẫn đến tăng lạm phát, lạm phát tăng lại làm cho tiền lương tăng...). Tuy nhiên, nếu xác định ở mức quá thấp thì lại phải đối mặt với rủi ro thiểu phát nền kinh tế, trong đó mức giá cả chung giảm xuống. Do vậy, mục tiêu lạm phát sau khi trừ đi sai số ngẫu nhiên vẫn phải đạt mức trên 0% một chút để tránh nguy cơ thiểu phát vẫn có thể được coi là ổn định giá cả. ECB đã xác định rằng sai số mà họ có thể mắc phải trong quá trình Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 thống kê đo lường có thể là 1,5% nên với việc xác định mục tiêu nhỏ hơn và càng gần 2% càng tốt đã loại trừ cả nguy cơ thiểu phát lẫn bao gồm những xu hướng tăng giá hợp lý. Về tính độc lập của NHTƯ: Hoạt động của NHDT New Zealand mang tính luật định cao được quy định trong các PTA (Policy Targets Agreement – thoả ước mục tiêu chính sách) nhưng thực ra lại là tính độc lập tương đối, điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là một mặt NHDT New Zealand độc lập trong việc thực thi CSTT bằng các công cụ của nó, nhưng mặt khác nó lại không độc lập trong việc hoạch định CSTT mà những mục tiêu phải do “Sự thoả thuận giữa Bộ Tài chính và Chính phủ”, NHDT chỉ hoạt động như một đại lý của Chính phủ mà thôi. Việc để cho mục tiêu lạm phát rời khỏi khung mục tiêu đã định đồng nghĩa với sự ra đi của Thống đốc đương nhiệm. Trong khi đó với Canada, NHTƯ lại là đối tượng của “học thuyết trách nhiệm tay đôi”, tuy mục tiêu lạm phát được công bố là “sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHTƯ” nhưng sự kiểm soát CSTT cuối cùng lại được đặt dưới quyền của Bộ Tài chính, điều này có nghĩa là Bộ trưởng có thể buộc Thống đốc phải thực hiện một CSTT cụ thể bằng một chỉ thị (thường sẽ đi kèm với việc Thống đốc phải xin từ chức). Trong khi đó, ngay từ khi ra đời trong “Hiệp ước về việc thành lập liên minh châu Âu” đã có những điều luật quy định tính độc lập tuyệt đối cho ECB trong cả hoạch định lẫn thực thi CSTT. Những quyết định về mục tiêu lẫn cách thức làm sao đạt được những mục tiêu đó chỉ do ECB quyết định. Về công cụ đo lường lạm phát: Cả 3 nước này đều nhất trí sử dụng chỉ số CPI bởi vì đặc tính phổ biến, dễ hiểu và được công bố một cách công khai thường xuyên của nó, khác biệt chỉ là ở việc ECB sử dụng chỉ số HICP. Về bản chất, HICP tương tự CPI nhưng được tính theo phương pháp thống kê cân đối giữa các quốc gia thành viên của EU. Nhưng bên cạnh, đó cả 3 nước đều sử dụng chỉ số lạm phát cơ bản vì cho rằng chỉ số này thể hiện rõ hơn những xu hướng biến động trong dài hạn của lạm phát vì nó đã loại trừ các tác động mang tính ngắn hạn và có thể nhanh chóng mất đi như New Zealand loại trừ khỏi CPI tác động của lãi suất (đặc biệt là lãi suất của việc mua bán nhà đất bất động sản), Canada loại trừ tác động của giá lương thực và năng lượng, trong khi ECB loại trừ biến động của thực phẩm chưa qua chế biến. Về sự công khai minh bạch: Để thực hiện điều đó, ngoài việc thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, những tham luận của các quan chức cao cấp của NHTƯ và Chính phủ, những chuyến công tác của các Thống đốc, các nước này đều rất chú ý cho ra các báo cáo một cách thường xuyên: New Zealand phát hành bản “Tuyên bố CSTT” đều đặn hàng quý từ 3/90, Canada nửa năm một lần cho ra “Báo cáo CSTT” từ 5/95 và các “Cập nhật báo cáo CSTT” xen giữa. Trong khi đó ECB còn thường xuyên hơn đều đặn hàng tháng đều cho ra “Báo cáo CSTT” của mình đến với các chủ thể trong nền kinh tế. Những báo cáo này đều thường xuyên được cải biến sao cho ngày càng trở nên sinh động dễ hiểu bằng hàng loạt các đồ thị, biểu đồ, hình ảnh, sử dụng khá nhiều khoảng trống... nhằm thu hút hơn và bạn đọc có thể dễ dàng tiếp cận với những hoạt động của NHTƯ hơn. Về dự báo lạm phát: Trong 3 nước được nghiên cứu thì chỉ có New Zealand là có thực hiện công tác dự báo lạm phát từ những điều tra của mình 6 Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 tháng một lần thông qua chỉ số MCI (Monetary Conditions Index - Chỉ số điều kiện tiền tệ) còn Canada và ECB đều không công bố mức lạm phát dự tính. 3.3. Đánh giá khả năng áp dụng CSMTLP ở Việt Nam hiện nay Trong vòng 10 năm trở lại đây, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam lên xuống hết sức thất thường khi ở mức 2 con số, khi ở mức một con số và thậm chí có thể xuống dưới cả 0%. Nguyên nhân lạm phát của chúng ta rất đa dạng từ cầu kéo đến chi phí đẩy, từ sự dư thừa tiền trong lưu thông đến sự bất cập trong công tác quản lý của các cơ quan nhà nước. Đứng trước nguy cơ lạm phát bùng nổ, phải chăng đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn nhận lại về CSTT của chúng ta một cách đúng đắn hơn. Từ trước đến nay, Việt Nam đã thực hiện một CSTT đa mục tiêu. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành vào tháng 10/1998, điều 2 đã có quy định: “CSTT quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, chính sách đa mục tiêu này cũng đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế tiềm ẩn của mình. Trước hết, nó khiến cho lạm phát của Việt Nam không mang tính thị trường mà chịu chi phối nhiều của yếu tố chủ quan. Để phục vụ mục tiêu chính trị trong ngắn hạn, NHTƯ có thể chấp nhận in thêm tiền mặc dù có thể đẩy tỷ lệ lạm phát lên siêu mã. Có thể vì tỷ lệ lạm phát chưa đạt được mức như mong muốn mà không có những biện pháp cần thiết đối với tỷ lệ lạm phát đang gia tăng. Đối với tầng lớp nhân dân thì những yếu tố chủ quan tâm lý cũng tác động mạnh đến những dự tính của họ về lạm phát. Hơn nữa, CSTT đa mục tiêu đã hạn chế khả năng của NHNN phản ứng lại những biến động của thị trường đặc biệt là biến động giá cả. Việc phải đắn đo khi đưa ra các quyết định đối với sự biến động của lạm phát mà không làm ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng ít lên các mục tiêu khác đặt NHNN trước nhiều lựa chọn phức tạp hơn. Vậy đứng trước những khó khăn đó, như đã đặt ra ngay từ đầu, làm sao vừa kiềm chế được lạm phát, vừa vẫn tiếp tục đạt được mức tăng trưởng cao là một bài toán rất khó. Đã đến lúc phải có những thay đổi cần thiết mang tính nền tảng cơ sở mới mong có được những biến đổi theo ý muốn. Học hỏi theo kinh nhiệm nhiều quốc gia đã thực hiện thì có thể nói CSMTLP chính là một lối thoát cho CSTT của Việt Nam. So với những tiêu chí cơ bản cho sự thành công của CSMTLP thì Việt Nam có vẻ còn thiếu khá nhiều. Vì vậy việc áp dụng ngay CSMTLP tại thời điểm hiện tại cho Việt Nam là không khả thi, nhưng đây chính là lúc mà chúng ta phải hoàn thiện những điều kiện cơ bản, những tiền đề cho quá trình áp dụng chính sách này trong tương lai. 3.4. Những đề xuất nhằm hoàn thiện các điều kiện tiền đề cho lộ trình tiến tới áp dụng CSMTLP ở Việt Nam - Thứ nhất: Từng bước xây dựng tính độc lập cho NHNN Việt Nam, đặc biệt là tính độc lập về mặt chức năng. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của CSMTLP trong tương lai. Dần dần cho phép NHNN chủ động hơn trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng sao cho phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế chứ không phải để đáp ứng nhu cầu của NSNN và của Chính phủ. Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13 Trong thực thi CSTT cũng phải tăng quyền tự quyết trong việc sử dụng các công cụ của CSTT thực hiện các quyết định để từ đó có thể nâng cao hiệu quả sử dụng cũng như uy lực của các công cụ đó. - Thứ hai: Nâng cao độ tin cậy của NHNN đối với các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Để thực hiện được điều này, cần phải đưa ra một khung giá trị cho mục tiêu lạm phát thay vì một giá trị như hiện nay bởi vì như thế sẽ tăng tính linh hoạt cho NHNN. Việc NHNN đạt được mục tiêu trong cả một khung giá trị biến động sẽ dễ dàng hơn nhiều. Và như thế công chúng sẽ tin tưởng hơn vào khả năng của NHNN rằng một khi Ngân hàng đã cam kết thì chắc chắn sẽ thực hiện được. Mặc dù khẳng định là chưa đến lúc áp dụng CSMTLP nhưng đây cũng có thể coi như một tiền đề của Việt Nam tiếp cận gần hơn với chính sách này. Thêm vào đó NHNN cần phải “công khai và minh bạch hơn” trong quá trình hoạch định, thực thi CSTT lẫn đưa ra những kết quả và nhận định của mình đối với nền kinh tế. - Thứ ba: Chúng ta vẫn phải tiếp tục “đảm bảo mức độ tăng trưởng cho nền kinh tế”, bằng cách tiếp tục cung ứng vốn, cấp tín dụng, tăng năng suất lao động để kích thích cung tăng lên đáp ứng được cầu. Từ đó vừa tạo ra cơ sở để kiểm soát lạm phát trong những năm tới, vừa tạo ra tiềm lực, sự tự chủ cho nền kinh tế nước nhà. - Thứ tư: Sử dụng các biện pháp mang tính chất hành chính nhằm tuyên truyền mở rộng hiểu biết cho quần chúng và thậm chí là cả các nhân viên trong NHNN và hệ thống NHTM về CSMTLP cũng như những ích lợi của nó đối với kinh tế Việt Nam vì đây vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ. Cần có thêm nhiều quan tâm học hỏi, nghiên cứu mới đảm bảo cho sự thành công của CSMTLP ở Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam cũng đã và đang nỗ lực thực hiện CSMTLP: Theo Nghị quyết số 23, chúng ta kiên định mục tiêu phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010. Ngoài ra Chính phủ đặt trọng tâm thực hiện một loạt các chỉ tiêu quan trọng như: phấn đấu kiềm chế chỉ số lạm phát khoảng 8% (thay vì không quá 7% như trước đây), hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10%, giảm bội chi ở mức khoảng 6%...Chúng ta hãy cùng hy vong vào một tương lai mai sau! TÀI LIỆU THAM KHẢO  Chính sách mục tiêu lạm phát – kinh nghiệm quốc tế và những gợi ý cho Việt Nam (PGS.TS Nguyễn Văn Tiến – Vũ Hoàng Phương Quế)  www.wikipedia.com  Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát (Nguyễn Trung Chính)  Báo Newyorktimes
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan