Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận: Đổi mới chế định Chủ tịch nước ở nước ta trong cơ chế hiện nay...

Tài liệu Tiểu luận: Đổi mới chế định Chủ tịch nước ở nước ta trong cơ chế hiện nay

.DOC
24
163
64

Mô tả:

Tiểu luận: Đổi mới chế định Chủ tịch nước ở nước ta trong cơ chế hiện nay
TIỂU LUẬN MÔN: TỔ CHỨC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Đề tài: “Đổi mới chế định Chủ tịch nước ở nước ta trong cơ chế hiện nay”. 1 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU NỘI DUNG CHÍNH I. SỰ HÌNH THÀNH CHẾ ĐỊNH NGUYÊN THỦ QUỐC GIA, CHẾ ĐỊNH 3 5 5 CHỦ TỊCH NƯỚC 1. Chế định nguyên thủ quốc gia 2. Chế định chủ tịch nước II. VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC III. THẨM QUYỀN CỦA CHỦ TICH NƯỚC 1. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt 5 8 8 11 11 nước về đối nội và đối ngoại. 2. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế có 13 liên quan đến việc phối hợp trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. IV. VỊ TRÍ CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC 1. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội 2. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ 3. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao 4. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao V. CHẾ ĐỊNH CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1. Thực trạng 2. Yêu cầu của chế định chủ tịch nước trong thời kỳ đổi mới KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 15 16 17 17 18 19 19 21 23 24 LỜI MỞ ĐẦU Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta giành được chính quyền, nước ta đã có Chủ tịch nước. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã quy định những nhiệm vụ, quyền hạn rất rộng rãi và mềm dẻo của Chủ tịch nước, phù hợp với yêu cầu, đặc điểm tình hình nước ta, với vị trí rất đặc biệt của Bác Hồ. 2 Đối với Hồ Chủ tịch, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước là một chế định tất yếu trong chính thể cộng hòa Dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Chế định Chủ tịch nước theo chính thể cộng hòa Dân chủ nhân dân là sản phẩm của sự phát triển của Cách mạng Việt Nam gắn liền với vai trò của Hồ Chí Minh, người sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp 1959 và hiến pháp 1980 cũng có sự kế thừa và phát triển từ Hiến pháp 1946. Nhưng đến Hiến pháp 1992, chế định Chủ tịch nước có nhiều đổi mới quan trọng, thể hiện ở các quy định về vị trí Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước, thẩm quyền của Chủ tịch nước, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và các cơ quan nhà nước khác ở Trung ương và địa phương… Chế định Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành đang đóng góp một phần rất quan trọng vào Chính trị, xã hội, Kinh tế, ngoại giao, cuộc sống nhân dân… Theo như lời của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã nói: “Tôi sẽ cùng vui với cái vui của mọi người, đồng thời cũng chia sẻ những nỗi buồn, những nỗi đau của người dân. Tôi sẽ làm hết sức mình để vơi đi nỗi đau đó”. Chế định Chủ tịch nước trong thời gian qua cũng đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu và sửa đổi. Đó là một yêu cầu đổi mới trong cơ chế hiện nay. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Đổi mới chế định Chủ tịch nước ở nước ta trong cơ chế hiện nay” cho bài tiểu luận này. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của bài tiểu luận gồm có 5 phần: I. Sự hình thành chế định nguyên thủ quốc gia, chế định chủ tịch nước. II. Vị trí pháp lý Chủ tịch nước. III. Thẩm quyền của Chủ tịch nước. IV. Vị trí của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước. V. Chế định Chủ tịch nước trong thời kỳ đổi mới. Bài tiểu luận của em còn nhiều chỗ sai sót, do thời gian và kinh nghiệm làm bài. Em rất mong sự đóng góp của thầy cô. 3 NỘI DUNG CHÍNH I. SỰ HÌNH THÀNH CHẾ ĐỊNH NGUYÊN THỦ QUỐC GIA, CHẾ ĐỊNH CHỦ TỊCH NƯỚC 1. Chế định Nguyên thủ quốc gia 4 Nguyên thủ quốc gia vốn là một chế định có được từ nhà nước tư sản. Nhiệm vụ của cuộc Cách mạng tư sản là lật đổ nền cai trị của giai cấp phong kiến, thiết lập nền chuyên chính tư sản. Nhà tư tưởng cách mạng tư sản đưa lý thuyết phân quyền không phải muốn lật đổ hoàn toàn sự cai trị của nhà vua mà chỉ là hạn chế quyền lực nhà vua. Nó dựa trên thuyết tam quyền phân lập do L.Môngtexkiơ xây dựng vào thế kỉ XVIII ở Pháp, với phương châm: dùng quyền lực nhà nước để hạn chế quyền lực nhà nước. Theo nguyên tắc phân chia quyền lực, thì quyền lực Nhà nước tư sản được chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp (không như chế độ phong kiến, nhà vua nắm mọi quyền hành, nắm trong tay cả ba quyền). Ba cơ quan thực hiện ba quyền đó là Nghị viện, Chính phủ, Tòa án độc lập với nhau, kiềm chế nhau để không một cơ quan nào nắm mọi quyền hành. Cho nên, khi Cách mạng tư sản thành công, chế độ đại nghị đã được xác lập, thì về nguyên tắc, Nghị viện đứng đầu nhà nước, nhưng giai cấp tư sản đã bảo lưu thiết chế nhà vua hoặc lập ra những thiết chế tương tự để thực hiện mục đích chính trị của mình. Điều đó dẫn đến việc hình thành chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp tư sản. Trong nhà nước tư sản, Nguyên thủ quốc gia là một chế định đặc biệt. Nguyên thủ quốc gia, phụ thuộc vào chính thể, có tên gọi hết sức khác nhau: Vua, hoàng đế, Nữ hoàng ở những nước chính thể quân chủ; Các vị tổng thống của nhà nước theo chính thể cộng hòa. Hình thức chính thể quân chủ lập hiến, quyền lực của nguyên thủ quốc gia (quốc vương, vua…) được truyền lại cho người kế vị. Giai cấp tư sản tiến hành Cách mạng tuy mạnh nhưng chưa thể đè bẹp hoàn toàn thế lực phong kiến tuy đã lỗi thời nhưng vẫn còn tồn tại trên cơ sở kính tế - xã hội chưa thể xóa bỏ. Hơn nữa, sự thống trị của ngai vàng phong kiến trong suốt đêm trường trung cổ đã ăn sâu vào tiềm thức nhân dân. Họ đành phải thỏa hiệp và sau đó thì quay ra sử dụng một số thể chế phong kiến để phục vụ lợi ích cho mình. 5 Hình thứ thứ hai là hình thứ chính thể cộng hòa. Lê Nin chỉ rõ: “Quyền lực vô hạn” của “sự giàu có” trong chế độ cộng hòa dân chủ sở dĩ đã trở thành chắc chắn hơn là vì nó không lệ thuộc vào một số thiếu sót của cơ cấu chính trị,vào cái vỏ chính trị xấu xa của chủ nghĩa tư bản. Chế độ cộng hòa dân chủ là hình thức chính trị tốt nhất có thể có được của chủ nghĩa tư bản cho nên khi nắm được hình thức tốt nhất ấy thì giai cấp tư sản nâng nó để xây dựng quyền lực của mình. (V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ) Chính thể cộng hòa có hai biến dạng là cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị:  Trong chính thể cộng hòa tổng thống, vai trò của nguyên thủ quốc gia rất quan trọng. Tổng thống được nhân dân bầu ra. Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa đứng đầu Chính phủ. Tổng thống gắn liền với bộ máy hành pháp, đứng đầu bộ máy hành pháp. Vì vậy, vị trí của Nguyên thủ quốc gia được nhiều tác giả ví là mắt xích liên hệ giữa lập pháp và hành pháp, là người trọng tài của Nhà nước. Việc tăng cường quyền hạn của nguyên thủ quốc gia không thể bằng cách nào khác hơn nếu không phải là một sự xâm phạm đến thẩm quyền của lập pháp hoặc của hành pháp. Nghiêng về lập pháp đến mức độ cực đỉnh là thay đổi cả lập pháp, đó là các vị Vua đích thực của chế độ phong kiến, được quyền ban hành các đạo luật là các đạo dụ. Nghiêng về hành pháp đến mức độ cực đỉnh là thay cả hành pháp, đó là các vị Tổng thống trong chế độ cộng hòa Tổng thống, ở đó trong thiết chế Nhà nước không tồn tại Chính phủ và Thủ tướng, người đứng đầu Chính phủ.  Trong chính thể cộng hòa đại nghị, thì về nguyên tắc, nghị viện là cơ quan nắm quyền lực nhà nước cũng đồng thời là người “thay mặt nhà nước”, “đứng đầu nhà nước”, tức “nguyên thủ quốc gia”. Vai trò của Tổng thống bị hạn chế do chính Nghị viện bầu ra. Nguyên thủ quốc gia chỉ thực hiện động tác chính thức hóa các quyết định đã rồi hoặc theo yêu cầu của các cơ quan lập pháp và nhất là hành 6 pháp. Nguyên thủ quốc gia trở thành nhân vật tượng trưng cho sự vĩnh hằng và hiện thân của dân tộc. Vị trí này được minh họa bằng câu ngạn ngữ: “Nhà vua trị vì nhưng không cai trị.” Vị trí tượng trưng này ở nhiều nước còn quy định thành văn trong hiến pháp: “Hoàng đế là biểu tượng hiện thân của Quốc gia, là biểu tượng thống nhát của toàn thể nhân dân Nhật Bản, đại diện cho ý chí của đoàn thể nhân dân giữ quyền tự quyết của đất nước.” (Điều 1 của Hiến pháp Nhật Bản). Nhưng nguyên thủ quốc gia của các nước này rất cần thiết, để duy trì sự ổn định chính trị cho xã hội tư bản, làm chỗ dựa về mặt tinh thần cho bộ máy nhà nước cả lập pháp, lẫn hành pháp. Vì vậy, nguyên thủ quốc gia nổi lên như là một nhân vật trọng tàI giữa hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong thời kỳ bất ổn định chính trị, nguyên thủ quốc gia có thể đứng ra dùng những biện pháp đặc biệt có thể là bạo lực, với quân đội trong tay để duy trì lại sự ổn định chính trị cho đất nước. Ở thời bình, mọi hoạt động của Nguyên thủ quốc gia đều theo đề nghị lập pháp, hành pháp, có tính chất hình thức hóa về mặt Nhà nước các hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác theo chế định “phó thự”. “Nhưng không phân biệt chính thể, mọi Nhà nước đều quy định trong Hiến pháp của mình: nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu bộ máy nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại.” Nhìn chung sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản với nhiều vẻ khác nhau song cũng đóng một vai trò nhất định trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điÓm thỏa hiệp giai cấp ở các nước tư bản. 2. Chế định Chủ tịch nước Đến nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ tập quyền, mọi quyền lực nhà nước thống nhất vào cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân (Xô Viết tối cao, Quốc hội) thì về nguyên tắc thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết, nếu không muốn nói là không dung 7 hợp. Chức năng nguyên thủ quốc gia lúc này thống nhất với chức năng của Quốc hội, Xô Viết tối cao, đều do cơ quan này thực hiện (như thành lập chính phủ, quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại…). Tuy nhiên, do truyền thống lịch sử lâu đời, do thông lệ quốc tế trong việc thực hiện một số hoạt động Nhà nước mang tính long trọng trong xu hướng phối hợp thống nhất quyền lực nhà nước, các nhà nước Xã hội chủ nghĩa vẫn rất cần chế định nguyên thủ quốc gia. Nguyên thủ quốc gia trong nhà nước Xã hội chủ nghĩa cũng rất đa dạng về hình thức: Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao, Hội đồng nhà nước (Ba Lan, Bungari, Cuba, Rumani), Hội đồng chủ tich nước (Hungari), Đoàn Chủ tịch Quốc hội Anbani… II. VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC: Trong bộ máy nhà nước, chế định Chủ tịch nước giữ một vai trò quan trọng. Chế định Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp nước ta có sự khác nhau. Chế định này đã có ngay từ những Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1992 với tư cách là một cá nhân. Nhưng đến Hiến pháp 1980, với quan điÓm làm chủ tập thể, đã nhập hai chức năng: nguyên thủ quốc gia - người đứng đầu bộ máy nhà nước, với cơ quan thường thực của Quốc hội thay mặt Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ của Quốc hội giữa hai kỳ họp, vào một cơ quan, được gọi là Hội đồng Nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Hiến pháp 1946, không quy định định nghĩa về chế định Chủ tịch nước. Song từ các quy định về cách thức thành lập và thẩm quyền thì Chủ tịch nước là người vừa đứng đầu Nhà nước, vừa đứng đầu Chính phủ. Điều đó được thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước thay mặt cho Nhà nước; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc; chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, khôgn quân; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị; thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hiệp ước với các nước; phái đại biểu Việt Nam đến nước 8 ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước; tuyên chiến hay đình chiến; chọn Thủ tướng trong Nghị viện để đưa ra Nghị viện biểu quyết; bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; có quyền (trong thời hạn 10 ngày) yêu cầu Nghị viện thảo luận lại những luật đã được biểu quyết thông qua. Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào trừ tội phản quốc (Chương VI và điều 3 chương III). Chủ tịch nước do Nghị viện nhân dân bầu chọn trong Nghị viện với thời hạn là năm năm. Với cương vị là người đứng đầu cơ quan hành pháp - cơ quan trực tiếp thực hiện pháp luật thì việc Hiến pháp quy định quyền này cho Chủ tịch nước thực sự là một tư tưởng mềm dẻo về sự phân công quyền lực. Tuy nhiên việc quy định này chỉ phù hợp trong điều kiện lúc đó. Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước được xác định là người đứng đầu Nhà nước và không đồng thời là người đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước được tổ chức riêng thành một chế định độc lập (trong chương V gồm 10 điều). Chủ tịch nước thay mặt đất nước thực hiện các chức năng về đối nội, đối ngoại; tham gia vào các hoạt động của Nhà nước về các mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu (chọn trong công dân) với nhiệm kỳ theo nhiệm kù của Quốc hội (4 năm) và khác với ở Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Chủ tịch nước là khâu phối hợp giữa Quốc hội và Hội đồng Chính phủ. Nhưng vẫn nghiêng về phía chính phủ như: bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; khi cần thiết có quyền tham dự và chủ tọa cá phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Đây là những điểm kế thừa vị trí của Chủ tịch nước đối với Chính phủ ở Hiến pháp trước. Với việc quy định và ghi nhận chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp 1959 thực sự là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp xã hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao động, do dân lao động và vì nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân. 9 Hiến pháp 1980, chế định Chủ tịch nước được thay thế bằng chế độ Chủ tịch tập thể theo nh mô hình thịnh hành ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu - đó là Hội đồng Nhà nước. Với quan điểm tập thể làm chủ, Hiến pháp 1980 đã nhập hai chức năng: Nguyên thủ quốc gia và cơ quan thường trực của Quốc hội làm một. Cách thức tổ chức tập thể này bên cạnh một số tiện lợi là các vấn đề thuộc quyền hạn nguyên thủ quốc gia được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số thường là chắc chắn và tránh được những thiếu sót chủ quan, bộ máy nhà nước gọn nhẹ… nhưng lại bộc lộ nhiều hạn chế: mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể và quyết định theo đa số; không phân định rõ hoạt động tập thể của cơ quan thường trực của Quốc hội và chức trách cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động đại diện Nhà nước… Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải tổ chức lại chế định này và đã được sửa đổi tại Hiến pháp 1992. Hiến pháp 1992 và hiện nay là Hiến pháp 2013, chế định Chủ tịch nước tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước của hiến pháp 1946 và 1959, vừa giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện các chức năng nguyên thủ quốc gia trong thể chế hội đồng nhà nước. Hiến pháp 2013 đã có sự phân biệt giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với chế định nguyên thủ quốc gia từ đó tách chế định Hội đồng nhà nước của Hiến pháp 1980 thành hai chế định độc lập: Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chủ tịch nước với vai trò to lớn vừa là nhân vật chính trị, vừa mang nhiều thuộc tính của cơ quan quản lý nhà nước. Nguyên thủ quốc gia của Nhà nước ta theo quy định của Hiến pháp 2013 được gọi là Chủ tịch nước. Vị trí pháp lý của Chủ tịch nước được Hiến pháp khái quát như sau: “Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. 10 Với tư cách là một trong những thiết chế cao nhất trong toàn bộ máy Nhà nước, vị trí của Chủ tịch nước phải được quy định trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất - là Hiến pháp. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kì của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kì, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước mới. Nói chung, theo quy định của Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước có vị trí, chức năng tượng trưng cho Nhà nước, như của các nước theo chế độ đại nghị của nhà nước tư bản. III. THẨM QUYỀN CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC Thẩm quyền của Chủ tịch nước là một trong những yếu tố cơ bản nhất thể hiện vị trí pháp lý của Chủ tịch nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Hiến pháp 2013 đã chú ý vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm mấy chục năm thực hiện thể chế nguyên thủ quốc gia của Việt nam và kinh nghiệm của thế giới. Chế định Nguyên thủ quốc gia của Nhà nước ta, về nguyên tắc, cũng giống như thiết chế người đứng đầu nhà nước của nhiều nước. Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, theo thông lệ của pháp luật nhiều nước, Chủ tịch nước có quyền quyết định những công việc thay mặt đất nước về đối nội, đối ngoại. Và Chủ tịch nước có nhiệm vụ quyền hạn liên quan đến lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, có thể chia các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai nhóm sau: 1. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước ở nước ta cũng như hầu hết các nguyên thủ quốc gia đều được quy định quyền này. Đó là: Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài. 11 Tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác. Trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký. Quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định. ậ đây tùy mức độ quan trọng của điều ước hoặc theo quy định và điều ước mà quyết định Chủ tịch nước hay Quốc hội phê chuẩn. Quyết định cho nhập, thôi hoặc tước quốc tịch Việt Nam. Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch hội đồng quốc phòng và an ninh. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, ra lệnh tổng động biên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc tứng địa phương; trường hợp ủy ban thường vụ quốc hội không họp được thì ban bố tình trạng khẩn cấp. Quyết định phong hàm cấp sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác. Quyết định tặng thưởng huân, huy chương và các danh hiệu vinh dự Nhà nước khác. Công bố quyết định đại xá và ra quyết định đặc xá. Đại xá như đã nói ở trên (Chương Quốc hội) là việc tha miễn truy tố đối với một số loại tội nhân một dịp long trọng nào đó. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại đối với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt như: ốm đau nặng, già cả, có công lao hoặc có hoàn cảnh gia đình quá khó khăn v.v… Việc đặc xá này thường được thực hiện nhân dịp lễ tết và hay kết hợp với việc tha từ trước thời hạn và giảm án nên cần phải phân biệt rõ các định chế này. 12 2. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế có liên quan đến việc phối hợp trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong lĩnh vực lập pháp: Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành. Công bố hiến pháp, luật và pháp lệnh. Việc công bố văn bản này là một phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua. Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo quy định tại văn bản. Đối với pháp lệnh do Ủy ban thường vụ Quốc héi thông qua thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất. Trong trường hợp này thời hạn công bố chậm nhất là mười ngày kể từ ngày được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định. Việc quyết định cho Chủ tịch nước quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đã được thông qua được nhiều người coi giống như quyền phủ quyết của nguyên thủ quốc gia một số nước. Giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là thống nhất không có sự đối trọng nên không có vấn đề phủ quyết lẫn nhau. Chủ tịch nước công bố nghị quyết của Quốc hội tương tự như đối với Luật; công bố hoặc đề nghị xem xét lại nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với pháp lệnh. Điều này được quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. 13 Trong lĩnh vực hành pháp: Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ (theo trình tự đã nói ở trên). Chủ tịch nước giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ. Miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội). Ban bố tình trạng khẩn cấp khi Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được. Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bé theo đề nghị (trình) của Thủ tướng Chính phủ. Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát: Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bổ nhiệm Phó chánh án và thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, thẩm phán Toà án quân sự trung ương, Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ tịch nước xem xét và quyết định việc ân xá (giảm án tử hình). Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhìn chung, thẩm quyền của Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 có phần hẹp hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước trong các Hiến pháp năm 1946. Điều này được giải thích bằng quy định: Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 1946 không những chỉ đơn thuần là nguyên thủ quốc gia mà con là người đứng đầu bộ máy hành pháp, có quyền phủ quyết các văn bản luật của Nghị viện nhân dân (điều 31, Hiến pháp 1946). So với Hiến pháp năm 1959 thì quyền hạn và trách nhiệm của 14 Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 2013 cũng có nhiều điểm rất khác. Nếu như ở Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ khi cần thiết, thì ở Hiến pháp 1959 quy định rõ Chủ tịch nước có quyền chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Nhà nước. Và Hiến pháp 2013 cụ thể hơn và rộng hơn nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước trong hiến pháp 1980. Ngoài những thẩm quyền được ghi nhận trong Hiến pháp 1959, 1980 như cho nhập thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng… Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm miễn nhiệm và cách chức Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hơn nữa, Chủ tịch nước còn có thẩm quyền ban bố các lệnh, các văn bản pháp luật do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành. IV. VỊ TRÍ CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC Về việc tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1992 với những quan điểm cơ bản sau: “…toàn bộ quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội, không phân chia các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo thuyết “tam quyền phân lập”, chỉ có sự phân công phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thi hành có hiệu lực chức năng, quyền hạn của mình với sự phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng” (trích Tờ trình ủy ban sửa đổi Hiến pháp về bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần thứ IV trước Quốc hội ngày 24-3-1992). Hiến pháp 2013 quy định “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”; “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Và cùng với quy định “Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước”, các mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hôi, Chính phủ, 15 Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thể hiện rõ các quan điểm trên. 1. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội. Về mối quan hệ với Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 đã có những quy định cơ bản sau đây: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu (trong số đại biểu Quốc hội) miễn nhiệm và bãi nhiệm. Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo các công tác trước Quốc hội. Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập kì họp bất thường của Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch nước phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Ủy ban trường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản. Trong mối quan hệ với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hiến pháp quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện để Chủ tịch nước theo được sát ý kiến của tập thể Ủy ban thường vụ quốc hội khi thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, đồng thời cũng để Chủ tịch nước có thể đóng góp ý kiến của mình. Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất là 15 ngày từ ngày được thông qua. Tuy nhiên, Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề 16 quy định tại điểm 8 và điểm 9, Điều 91 trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh hoặc nghị quyết được thông qua; nếu Pháp lệnh, Nghị quyết đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất. Nếu Pháp lệnh, Nghị quyết đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Đây là một quyền hạn mới được bổ sung mà Hội đồng nhà nướckhông có. Quyền này khác quyền phủ quyết (vai trò tổng thống ở một số nước). 2. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Chính phủ. Mối quan hệ này đã được Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Chính phủ 2015 quy định: Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng. Chủ tịch nước căn cứ Nghị quyết của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Chính phủ mời Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ, trình Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước. Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những quyết định của Chủ tịch nước. Các báo cáo công tác của Chính phủ trước Chủ tịch nước phảI được Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số. 3. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Tòa án nhân dân tối cao. Chế độ bầu cử thẩm phán đã được thay bằng chế độ Thẩm phán bổ nhiệm, chỉ trừ đối với chức vụ Chánh án toàn án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãI nhiệm. Các chức vụ khác từ Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao đến Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, từ Chánh án Tòa án quân sự Trung ương đến Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm. 17 Trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và bao cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án từ hình xin ân giảm. 4. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có những quy định sau: Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ quốc hội và Chủ tịch nước. Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải được Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Nếu viện trưởng không nhất trí với ý kiến đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì phải thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tích nước. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm. Qua mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước, ta thấy được vị trí, tính chất của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước như sau: Trong tổ chức các bộ máy nhà nưcớ theo thuyết “tam quyền phân lập”, thường Tổng thống đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp và có vị trí nang Quốc hội và nhiều khi cao hơn cả Quốc hội. 18 Nhưng ở nước ta, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chệ độ tập quyền, quyền lực nhà nước luôn tập trung thống nhất vào Quốc hội, có phân công phân nhiệm theo 4 chức năng lập pháp, hành pháp, xét xử, kiểm sát. Quốc hội trực tiếp thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp được giao cho Chính phủ, chức năng xét xử cho Tòa án nhân dân tối cao, và chức năng kiểm sát cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội có quyền giám sát tối cao hoạt động của cơ quan nhà nước. Nh vậy về nguyên tắc là không có sự phân quyền. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội bầu ra, miễn nhiệm, bãi nhiệm, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội, Quốc hội xét báo cáo của Chủ tịch nước và bãi bỏ các văn bản của Chủ tich nước trái với Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hôi. Chủ tịch nước đề ngị Quốc hội bầu Thủ tướng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và khi cần thì cũng đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức vụ này. Chủ tịch nước bổ nhiệm, miên nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Phó viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội. Như vậy về nguyên tắc, ở mức độ nào đó, Chủ tịch nước thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp cả chức năng hành pháp, xét xử, kiểm sát và đóng góp vào chức năng lập pháp bằng cách thực thi các quyền hạn trình dự án luật, pháp lệnh, yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận lại pháp lệnh và nghị quyết trong các trường hợp do Hiến pháp quy định. Vì vậy, không nên xét Chủ tịch nước có chức năng lập pháp hay hành pháp vì Hiến pháp 2013 không chấp nhận thuyết phân quyền và đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. V. CHẾ ĐỊNH CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1. Thực trạng Nước ta đang từng bước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một mặt, nước ta phát triển những vấn đề trong nước như: phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài, phát triển các dịch vụ, cơ sở hạ tầng, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng gọn nhẹ và không còn tham nhũng… Mặt khác, ta còn quan tâm đến 19 các chính sách đầu tư quốc tế như gia nhập WTO, đang đàm phán để gia nhập làm thành viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, quan tâm đến các vấn đề hòa bình và chiến tranh của quốc tế, tham gia vào các lễ hội văn hóa tổ chức tại các nước… Việt Nam luôn có quan hệ quốc tế tốt với các nước bạn với tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.” Vì vậy mà vai trò của Chủ tịch nước càng quan trọng trong đối nội và đối ngoại. Trong những năm qua, kết quả mà Chủ tịch nước mang lại cho đất nước có một đóng góp rất tích cực. Đặc biệt là các cuộc đàm phán gia nhập WTO, cuộc họp cao cấp APEC tổ chức tại Việt Nam năm 2006… Và đÓ nói thay cho thực trạng của Chủ tịch nước trong cơ chế hiện này, xin trích dẫn ý kiến của nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương. Trong sáng 26/6/2006 sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch nước, ông Trần Đức Lương đã có bài phát biểu trước Quốc hội. Qua thực tiễn đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch nước thời gian qua, ông đã đưa bốn kiến nghị với Quốc hội, trong đó có đề nghị luật hóa về chức năng, nhiệm vụ của Chủ tịch nước. “Trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tôi chú trọng đi sát thực tiễn lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân ta trên mọi miền đất nước, tăng cường nắm tình hình các địa phương và cơ sở, kịp thời có ý kiến đề xuất, góp ý với các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước, ban hành và điều chỉnh các chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới. Tôi đặc biệt chú trọng các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, miền núi; công tác xóa đói giảm nghèo; quy hoạch phát triển hạ tầng quốc gia và các vùng miền; chính sách phát triền thông tin, năng lượng và các ngành công nghiệp then chốt; các chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; chính sách bảo vệ tài nguyên môi trường; sự phát triền văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và bảo vệ sức khỏe nhân dân… 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan