Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luyện thi - Đề thi Tiểu luận đạo đức công cụ...

Tài liệu Tiểu luận đạo đức công cụ

.PDF
21
153
96

Mô tả:

MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng” , “cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Trong bất cứ thời kỳ nào của cách mạng Việt Nam cán bộ, công chức ( CB,CC) luôn là vấn đề trọng yếu, giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng và thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn (2001- 2010) của Chính phủ để phát triển đất nước được thực hiện trên 4 lĩnh vực: Cải cách thể chế, cải cách tài chính công. Trong 4 lĩnh vực này, muốn thực hiện phải thông qua con người, mà cụ thể ở đây là đội ngũ CB, CC, bộ máy hành chính có hiện đại đến đâu, thủ tục hành chính có hợp lý mấy mà đội ngũ CB, CC “đuối tầm” thì cũng không thực hiện được. Để công cuộc cải cách hành chính đạt được kết quả tốt, thúc đẩy phát triển kinh tế thì việc quan trọng đầu tiên là xây dựng được đội ngũ CB,CC có cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp hiện đại, tuyệt đại đa số CB,CC có phẩm chất đạo đức tốt và đủ năng lực thi hành nhiệm vụ công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân. NỘI DUNG I. ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ VÀ QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 1. Đạo đức công vụ Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói, (moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn “luân lí” thường xem như đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề thói; tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai khái niệm, moral là đạo đức, còn Ethicos là đạo đức học. Ở phương đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội. Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo. Ngày nay đạo đức được định nghĩa là toàn bộ tư tưởng, quan điểm về quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Những nguyên tắc và các chuẩn mực là sự biểu hiện những quan hệ hiện thực xác định của con người với nhau và với cộng đồng (gia đình, giai cấp, dân tộc). Đạo đức đánh giá hành vi con người dưới giác độ và chuẩn mực về thiện, ác, nghĩa vụ, danh dự, lương tâm, hạnh phúc. Xã hội nào, thời kỳ lịch sử nào cũng đánh giá đạo đức dưới giác độ như vậy. Tuy nhiên, nội hàm của các khái niệm đạo đức được đưa ra làm chuẩn mực trong mỗi thời đại, mỗi chế độ xã hội lại có sự khác nhau. Công chức là công nhân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung Ương, cấp tỉnh, cấp huyện: trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng: trong cơ quan, đơn vị Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập cửa Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ( sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước: đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Đạo đức công chức là phạm trù phản ánh các quan hệ giữa người với người trong hoạt động công vụ, trước hết gắn liền với những người làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước nói chung. Ở nước ta đó là những cán bộ, công chức, viên chức do Nhà nước quản lý. Đạo đức công chức được xã hội đánh giá qua hành vi thái độ của cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành công vụ Công vụ là một loại lao động xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực và tính pháp lý được thực thi bởi đội ngũ công chức, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội. Luật CBCC năm 2008 ( Điều 2): “ hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực thiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của luật này và các quy định khác có lien quan”. Như vậy, công vụ là hoạt động thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật. Khác với các loại hoạt động thông thường, công vụ là hoạt động dựa trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước. Hoạt động công vụ là hoạt động của tổ chức và tuân thủ những quy chế bắt buộc, theo trật tự có tính thứ bậc chặt chẽ, chính quy, hiện đại và lien tục. Hoạt động công vụ là hoạt động mà ở đó những quan hệ đạo đức thiể hiện quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội trên cơ sở hướng tới sự tiến bộ. 2. Quan niệm về đạo đức cán bộ công chức ở Việt Nam hiện nay: Điều 15 Luật Công chức quy định: “ Cán bộ công chức phải cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của đạo đức mới, là phẩm chất hành đầu của đạo đức cách mạng. Đạo đức còn là sự thống nhất trong suy nghĩ, lời nói, việc làm của cán bộ công chức. Bốn đức tính này là nền tảng cơ bản để trở thành một con người có đạo đức, cơ bản đến mức, “thiếu một đức thì không thành người” và Bác luôn coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cán bộ cách mạng. Cần: tức là siêng năng, cần cù, mẫn cán với công việc, là làm đủ số thời gian nhà nước quy định. Đồng thời, Cần cũng có nghĩa là công việc của ngày nào phải làm xong của ngày ấy, “việc hôm nay chớ để ngày mai”. Kiệm: “ là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ của dân, của nước, của bản thân mình: tiết kiệm từ cái to tới cái nhỏ”. Liêm: người công chức thực sự phải rũ bỏ lòng tham, không chỉ đối với tiền bạc, vật chất mà cả với những danh vọng, địa vị, chức tước. Chính: có nghĩa là “ngay thẳng, là đứng đắn, chính trực. đối với mình không tự cao tự đại: đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc: luôn giữ thái độ chân thành khiêm tốn, đoàn kết. Như vậy, đạo đức công chức vừa mang tính pháp lý vừa mang tính nhân văn. CBCC không những phải đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải đáp ứng yêu cầu về phẩm chất đạo đức. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy những cán bộ công chức có tầm mà không có tài rồi sẽ mang tâm lý chán nản, không còn nhiệt huyết đổi mới và đấu tranh chống tiêu cực bởi lẽ “ lực bất tòng tâm”. Họ cần được cung cấp kiến thức và bồi dưỡng năng lực để trở thành những nhân tố đủ sức kiểm soát và định hướng những cán bộ công chức có tài mà không có tâm. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi bên cạnh những phẩm chất đạo đức truyền thống cần có tinh thần học hỏi, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, kỹ năng công tác làm việc. Chính vì vậy tiêu chí đánh giá đạo đức cán bộ công chức hiện nay phải là tính hiệu quả trong thực thi công vụ, Tính hiệu quả được lượng hóa thong qua những công việc đã làm được, những công việc dự kiến sẽ làm.  Một số quy định pháp luật niên quan đến đạo đức công vụ của cán bộ công chức. Ngay từ năm 1950, trong điều kiện khó khăn, gian khổ của công cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành Quy chế công chức Việt Nam. Với văn bản này có thể nói, đây là lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh, làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ công chức cách mạng Việt Nam. Trong đó, tại Lời nói đầu, nội dung về công chức và đạo đức công vụ đã được thể hiện rất rõ: “Công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân…Công chức Việt Nam phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc”. Điều 2 của Quy chế quy định: “Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Điều 3 Quy chế công chức Việt Nam quy định quyền lợi của công chức và tại các điều tiếp theo quy định việc tuyển dụng, tổ chức, quản trị, sử dụng công chức. Từ những quy định trên có thể thấy, ngay trong Quy chế công chức đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Nhà nước ta đã nêu lên những chuẩn mực đạo đức - pháp lý rất quan trọng đối với công chức nhà nước. Lần đầu tiên những giá trị đạo đức truyền thống: cần, kiệm, liêm, chính... được thể chế hoá thành những giá trị chuẩn mực pháp lý đối với công chức Việt Nam. Điều này có ý nghĩa quan trọng và vượt qua thời gian, đến nay những quy định này vẫn còn nguyên giá trị. Kế thừa và phát huy những quy định pháp luật về công chức và đạo đức công vụ vànhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng và kiện toàn đội ngũ công chức trong tình hình mới, Hiến pháp năm 1980 quy định tại Điều 8: “Tất cả các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.” Như vậy, với quy định của Hiến pháp 1980, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Nhà nước ta đã ban hành những chuẩn mực về đạo đức - pháp lý cho công chức và cơ quan nhà nước trong đạo luật gốc, đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp 1992 tại Điều 8 cũng quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng”. Như vậy với quy định này, Hiến pháp 1992 đã kế thừa Hiến pháp 1980 nhưng đồng thời phát triển thêm lên để không ngừng hoàn thiện những nguyên tắc, những quy định hiến định đối với đạo đức công vụ và các chuẩn mực pháp lý cho công chức nhà nước. Căn cứ vào Hiến pháp 1992, để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ, năng lực và tận tụy phục vụ nhân dân, trung thành với Tổ quốc, Nhà nước ta đã ban hành Luật cán bộ, công chức, trong đó, những chuẩn mực đạo đức - pháp lý được thể hiện một cách tập trung và rất cụ thể ở các quy định về nghĩa vụ của công chức, như: trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia; tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Luật cán bộ, công chức cũng quy định: trong khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; có ý thức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước; chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao; chấp hành quyết định của cấp trên. Đối với cán bộ, công chức là người đứng đầu thì còn phải thực hiện các nghĩa vụ như: chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức; tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng, quan liêu, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hoá công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân... II. CẤU TRÚC ĐẠO ĐỨC VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BÀN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA CÔNG CHỨC HIỆN NAY 1. Cấu trúc đạo đức Đạo đức vận hành như là một hệ thống tương đối độc lập của xã hội. Cơ chế vận hành của nó được hình thành trên cơ sở liên hệ và tác động lẫn nhau của những yếu tố hợp thành đạo đức. Khi phân tích cấu trúc của đạo đức người ta xem xét nó dưới nhiều góc độ. Mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định. Chẳng hạn: xét đạo đức theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì hệ thống đạo đức hợp thành từ hai yếu tố ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nếu xét nó trong mối quan hệ giữa người và người thì người ta nhìn ra quan hệ đạo đức. Nếu xét theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến cái đặc thù với cái đơn chất thì đạo đức được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân 1.1. Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Đạo đức là sự thống nhất biện chứng giữa ý thức về hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đều có những ranh giới của hành vi và những quan hệ đạo đức đang tồn tại. Mặt khác, nó còn bao trùm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức con người. Trong quan hệ giữa người và người về mặt đạo đức đều có những ranh giới của hành vi và giá trị đạo đức. Đó là ranh giới giữa cái thiện và cái ác, giữa chủ nghĩa cá nhân ích kỷ và tinh thần tập thể. Về mặt giá trị của hành vi đạo đức cũng có ranh giới: lao động là hành vi thiện. Ăn bám bóc lột là vô nhân đạo. Ngay cả trong một hành vi thiện mức độ giá trị của nó không phải lúc nào cũng ngang nhau, mà có những thang bậc nhất định (cao cả, tốt, được). Ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những qui tắc đạo đức xã hội đặt ra; nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách tự giác, tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức. Trong ý thức đạo đức còn bao hàm cảm xúc, tình cảm đạo đức của con người. Tóm lại, ý thức đạo đức (về mặt cấu trúc) gồm tri thức đạo đức. Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm tin, ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hoá ý thức đạo đức trong cuộc sống. Ý thức và thực tiễn đạo đức luôn có quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau tạo nên bản chất đạo đức con người, của một giai cấp, của một chế độ xã hội và của một thời đại lịch sử. Ý thức đạo đức phải được thể hiện bằng hành động thì mới đem lại những lợi ích xã hội và ngăn ngừa cái ác. Nếu không có thực tiễn đạo đức thì ý thức đạo đức không đạt tới giá trị, sẽ rơi vào trừu tượng theo kiểu các giáo lý của tôn giáo. Thực tiễn đạo đức được biểu hiện như sự tương trợ, giúp đỡ, cử chỉ nghĩa hiệp, hành động nghĩa vụ…Thực tiễn đạo đức là hệ thống các hành vi đạo đức của con người được nảy sinh trên cơ sở của ý thức đạo đức. 1.2. Quan hệ đạo đức. Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và con người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức là một dạng quan hệ xã hội, là yếu tố tạo nên tín hiệu thực của bản chất xã hội của con người. Các quan hệ đạo đức không chỉ hình thành nên giữa các cá nhân, mà còn giữa cá nhân với xã hội, với những mặt riêng biệt của xã hội (chẳng hạn: với lao động, với văn hoá tinh thần) trong chừng mực những mặt này liên quan đến các lợi ích chứa đựng trong các mối quan hệ này. Quan hệ đạo đức được hình thành và phát triển như những qui luật tất yếu của xã hội, nó xác định những nhu cầu khách quan của xã hội, nó “tiềm ẩn” trong các quan hệ xã hội. Quan hệ đạo đức tồn tại một cách khách quan và luôn luôn biến đổi qua các thời đại lịch sử và chính nó là một trong nhữg cơ sở để hình thành nên ý thức đạo đức. Tóm lại, ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức là một yếu tố tạo nên cấu trúc đạo đức. Mỗi yếu tố không tồn tại độc lập, mà liên hệ tác động nhau, tạo nên sự vận động, phát triển và chuyển hóa bên trong của hệ thống đạo đức. 1.3. Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác định, và là phương thức điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng nhằm hình thành; phát triển hoàn thiện tồn tại xã hội ấy. Đạo đức xã hội được hình thành trên cơ sở cộng đồng về lợi ích và hoạt động của cá nhân thuộc cộng đồng. Nó tồn tại như là một hệ thống kinh nghiệm xã hội mang tính phổ biến của đời sống đạo đức của cộng đồng. Đạo đức cá nhân là đạo đức của những cá nhân riêng lẻ của cộng đồng, phản ảnh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy như là thể hiện riêng lẻ của tồn tại xã hội của cộng đồng về lợi ích và hoạt động của các cá nhân. Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình, các cá nhân thu nhận đạo đức xã hội như là hệ thống kinh nghiệm xã hội, những lí tưởng, chuẩn mực, tư tưởng, đánh giá đạo đức đã được hình thành nên trong lịch sử cộng đồng, biến kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm bản thân… Trước mắt cá nhân đạo đức xã hội tồn tại một cách khách quan mà trong cuộc sống của mình, cá nhân tất yếu phải nhận thức, tiếp thu và thực hiện. Đạo đức xã hội hay đạo đức cá nhân là sự thống nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất. Đạo đức cá nhân là sự biểu hiện độc đáo của đạo đức xã hội, nhưng không bao hàm hết thảy mọi nội dung, đặc điểm của đạo đức xã hội. Mỗi cá nhân tiếp thu lĩnh hội đạo đức xã hội khác nhau và ảnh hưởng đến đạo đức xã hội cũng khác nhau. Đạo đức xã hội không thể là số cộng của đạo đức cá nhân mà nó tổng hợp những nhu cầu phổ biến được đúc kết thành những tinh hoa của đạo đức cá nhân. Nó trở thành cái chung của một giai cấp, một cộng đồng xã hội, một thời đại nhất định, nó được duy trì và cũng cố bằng những phong tục, tập quán, truyền thống, những di sản văn hóa vật chất và tinh thần, được biến đổi phát triển thông qua hoạt động sản xuất tinh thần và giao tiếp xã hội. Quan hệ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân là quan hệ giữa những chuẩn mực chung mang tính phát triển đặc thù trong từng xã hội với những phẩm chất hành vi những yêu cầu cụ thể hàng ngày, quan hệ giữa lý tưởng xã hội và hiện thực của cá nhân, giữa trí tuệ, tri thức xã hội với tình cảm, ý chí và năng lực hoạt động đạo đức cụ thể của cá nhân. 2.Những nguyên tắc đạo đức cơ bản của công chức ở nước ta hiện nay phải là một hệ thống bao gồm: Một là, trung thành với Tổ quốc, với chế độ chính trị đương thời, bảo vệ danh dự quốc thể và lợi ích quốc gia. Hai là, tận tuỵ phục vụ nhân dân. Thứ ba, có tinh thần và thái độ làm việc tận tuỵ, trách nhiệm cao với công việc. Thứ tư, có phẩm chất trong sạch. Thứ năm, có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp và những người có liên quan trong thực thi công vụ. Thứ sáu, giữ vững tính nguyên tắc và có ý thức tổ chức kỷ luật tốt. Thứ bảy, làm việc với tinh thần sáng tạo I. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA CÔNG CHỨC 1. Thực trạng Từ hệ thống nguyên tắc đạo đức cơ bản của công chức như đã xác định ở phần trên, cho phép nhận thức một cách tương đối đầy đủ hơn về thực trạng đạo đức công chức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Những mặt tích cực: Đại bộ phận công chức dù làm bất kỳ việc gì cũng làm đến nơi đến chốn, vượt qua khó khăn, thử thách, cố gắng thực hiện và phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, có lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân. Mặc dù gặp nhiều khó khăn và chịu sự tác động phức tạp trong điều kiện chuyển đổi của nền kinh tế - xã hội, nhưng về cơ bản đội ngũ cán bộ, công chức đã góp phần đóng vai trò quyết định cho những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Có thể nói, nhìn chung công chức ở nước ta là lực lượng xã hội có bản lĩnh chính trị vững vàng, hoạt động có mục đích, có tinh thần trách nhiệm cao, có ý chí phấn đấu mạnh mẽ thực hiện những mục tiêu, chương trình đã định; trung thực, không cơ hội, không vụ lợi, dám đấu tranh phê bình, có khả năng đoàn kết, quy tụ mọi người và có trách nhiệm trong cuộc sống gia đình, với cộng đồng. Những mặt yếu kém: Những ưu điểm đã được nêu trên đây là mặt cơ bản nhưng cũng không vì thế mà chúng ta không nhận thấy những tồn tại yếu kém, những khuyết điểm; hiện tượng suy thoái về đạo đức ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức ở nhiều nơi, nhiều chỗ, nhiều ngành, nhiều cấp; nếu không kịp thời sửa chữa sẽ có nguy cơ lan rộng ảnh hưởng tới chất lượng của đội ngũ công chức và suy giảm lòng tin của quần chúng nhân dân. Về vấn đề này, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã lưu ý: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên (trong đó có công chức) gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả” .“Năm biểu hiện chủ yếu của tình trạng đó là: - Suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng cả về số lượng và phạm vi. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng. - Tệ nói nhiều làm ít, nói nhưng không làm, làm không đến nơi, đến chốn còn diễn ra ở nhiều nơi. - Tệ quan liêu, xa dân thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật còn tồn tại ở các cấp, các ngành. - Tham nhũng, nhũng nhiễu nhân dân, gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, làm thất thoát tài sản, tiền của của Nhà nước, của nhân dân, cả tiền vay của nước ngoài, gây nhiều bức xúc trong nhân dân” . 2. Nguyên nhân Một số nguyên nhân khách quan: Sự tác động, ảnh hưởng mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường đối với đạo đức công chức: Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội, song nó cũng tạo ra thách thức lớn đối với đạo đức công chức. Khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường, cái được của xã hội là có sự phát triển cao hơn ở giai đoạn trước. Điều đó được thể hiện qua mức sống của người dân và nền sản xuất của xã hội. Nhưng mặt trái của nền kinh tế thị trường, do chạy theo lợi nhuận, chạy theo đồng tiền, có người bất chấp tất cả đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống xã hội dẫn tới sự huỷ hoại các giá trị đạo đức. Cơ chế thị trường chi phối, làm thay đổi những quan niệm về hạnh phúc, nghĩa vụ, lẽ sống trách nhiệm, lương tâm, thiện, ác. Trong cơ chế đó, một số người chỉ chú trọng tới lợi ích cá nhân, thực dụng, không tình nghĩa, bất chấp đạo lý, kỷ cương, pháp luật. Nếu cán bộ, công chức thiếu sự rèn luyện, thiếu một trình độ văn hoá, thiếu sự kiên quyết sẽ bị đẩy vào vòng xoáy tiêu cực của xã hội. Cơ chế bảo đảm và khuyến khích các giá trị đạo đức công chức chưa đồng bộ: chủ trương, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ còn nhiều sơ hở dễ làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực tác động xấu tới đạo đức công chức Thực tế trong những năm qua, chúng ta chưa lường hết mặt trái của cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa không chuẩn bị khả năng tự đề kháng trong công chức. Chưa kịp thời nghiên cứu, nhận dạng những hành vi tiêu cực nảy sinh trong quá trình mở cửa hội nhập, không có biện pháp ngăn ngừa khắc phục những biểu hiện tiêu cực một cách có hiệu quả. Chưa tạo được một cơchế vận hành của một nền hành chính hạn chế sự tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường trong điều kiện mở cửa hội nhập. Hệ thống pháp luật, chính sách chưa hoàn chỉnh và chưa đủ mạnh, nhất là trong các lĩnh vực đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, chi tiêu tài chính công; công tác cán bộ lại còn nhiều sơ hở, dễ bị lợi dụng để trục lợi; hơn nữa nhiều nơi, nhiều địa phương chưa thực hiện tốt cơ chế dân chủ; nền hành chính còn nhiều khâu không được minh bạch hoá, tất cả tạo thành một lực cản đáng kể cho cuộc đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, ngăn ngừa sự suy thoái đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức. Mở cửa hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội với các nước ngày càng gia tăng dẫn tới sự va chạm của nhiều luồng tư tưởng và sựbiến động của hệ thống giá trị xã hội ít nhiều tác động đến đạo đức của đội ngũ công chứcToàn cầu hoá là xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người, mở cửa hội nhập là yêu cầu khách quan cho sự phát triển phồn vinh của mỗi dân tộc. Hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hoá, xã hội giữa các cộng đồng dân tộc trong khu vực cũng như trên toàn thế giới ngày càng gia tăng. Trong quá trình đó, dân trí được nâng cao, tầm vóc trí tuệ con người Việt Nam có điều kiện thử thách và tôi luyện. Tính tự ti, khép kín, bảo thủ, trì trệ và những hạn chế của nó được nhận thức một cách đầy đủ hơn để dần dần loại bỏ trong nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập.Lối sống duy tình, tính cả nể nảy sinh trong điều kiện sinh hoạt xã hội ở khoảnh tre, họ hàng, làng xóm bị quy luật giá trị của hàng hoá cũng làm cho thay đổi. Sự biến động của thị trường thế giới cũng tác động đến cách làm ăn, suy nghĩ, tính toán của mỗi gia đình, mỗi con người. Lối sống phương Tây - lối sống của một nền đại công nghiệp tràn vào, qua quan hệ kinh tế, xã hội, phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày hàng giờ tác động, đòi hỏi phải có sự tiếp thu có chọn lọc, biết kế thừa những tinh hoa văn hoá tiến bộ, bổ sung, làm giàu và hiện đại hoá các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. b. Một số nguyên nhân chủ quan: Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc không được chú trọng bảo tồn và phát huy đúng mức. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, trong đời sống dân tộc ta, những giá trị đạo đức phổ biến được xã hội thừa nhận với những nội dung cụ thể về cái thiện, lương tâm, lòng yêu nước thương nòi, lòng hiếu thảo, tình bạn, tình đồng chí cao thượng, tình yêu chung thuỷ... đã trở thành nét đẹp của đạo đức truyền thống Việt Nam, cốt cách Việt Nam. Qua bao tháng năm các thế hệngười Việt Nam luôn sống theo các quy tắc đạo đức “thương người như thể thương thân”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”, “lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”....để tạo nên biết bao hình mẫu về phẩm giá đạo đức Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đặc biệt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, những phẩm giá cao đẹp ấy đã được phát triển lên một bước mới với ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó có vai trò to lớn của những giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam. Sức mạnh ấy đã góp phần tạo nên những kỳ tích hào hùng, nâng Việt Nam lên thành lương chi thời đại. Việc buông lỏng quản lý và giáo dục đạo đức, đặc biệt là đạo đức nghề nghiệp của công chức Xét về cấu trúc, đạo đức công chức bao gồm hai mặt cơ bản là đạo đức cá nhân và đạo đức nghề nghiệp.Đạo đức cá nhân của công chức cũng khác với người không phải công chức, đó là ý thức, niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và đường lối chính trị của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; biết tôn trọng, giữgìn kỷ cương, pháp luật, sống lành mạnh, không tham ô, lãng phí, có trách nhiệm trong công việc, có lòng nhân ái, gần dân và thương dân. Đạo đức cánhân của công chức có quan hệ chặt chẽ với đạo đức nghề nghiệp. Cơ chế chính sách đào tạo, tuyển chọn và sử dụng cán bộ công chức còn nhiều bất cập Trong hoàn cảnh kinh tế thị trường, môi trường xã hội phức tạp nhưng phần lớn cán bộ công chức đã phát huy tính tích cực, năng động, nhạy bén tự rèn luyện trong lao động. Đặc biệt trong giai đoạn cải cách và hội nhập, các cán bộ công chức đã thể hiện rõ sự năng động, sáng tạo, phát huy sáng kiến, thông minh, nhận thức nhanh, trí tuệ phát triển, biết rộng, hiểu sâu, có năng lực tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách tuyển chọn cán bộ còn nhiều thiếu sót, hạn chế, như thiếu chủ động, thiếu kiên quyết không kịp thời và vẫn còn tuỳ tiện trong việc bố trí, sử dụng, đánh giá cán bộ, trong xử lýcông việc... đã tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống của người cán bộ, công chức. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã chỉ ra những khuyết điểm: - Việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ nhiều khi còn chủ quan, chưa thật công tâm, chưa hợp lý, thiếu dân chủ và dân chủ hình thức. - Chính sách đối với cán bộ còn nhiều bất hợp lý, thiếu công bằng, thực hiện không thống nhất và đồng bộ, chưa phát huy được tài năng. - Nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được cụ thể hoá. Công tác kiểm tra, quản lý cán bộ nhiều nơi bị buông lỏng. IV.PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Phương hướng xây dựng và nâng cao đạo đức công chức: Xây dựng và phát triển đạo đức công chức phải gắn liền và đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Để thực hiện được chiến lược xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, vấn đề quan trọng và có tính chất quyết định là phải có một đội ngũ cán bộ, công chức tương xứng phù hợp với lộ trình và bước đi của các giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tức là xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ mới. Một đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực, nắm bắt được những yêu cầu của thời đại, có đủ tài năng, đạo đức và ý chí để thiết kế và tổ chức những kế hoạch của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trên mọi lĩnh vực. Xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không thể bỏ qua một giá trị đặc biệt quan trọng đó là tư tưởng đạo đức của Người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã và đang có một vị trí to lớn trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nhất là trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước hiện nay. Hơn thế nữa trong bối cảnh trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, có những vấn đề ảnh hưởng lớn tới hệ giá trị về đạo đức khiến người ta càng phải đi tìm những tiêu chí mới để kịp thời bổ sung cho sự thiếu hụt và đưa ra những chuẩn mực đạo đức mới. Cũng chính trong thời đại ngày nay, nhịp độ cuộc sống đã và đang thay đổi nhanh chóng dẫn tới làm thay đổi nhiều thể chế, nhiều hệ giá trị đạo đức vốn được xem là truyền thống của nhiều dân tộc cũng đang bị lung lay. Ngay ở Việt Nam cũng đã xuất hiện lối sống và cách sống xa lạ trái với đạo đức tốt đẹp của dân tộc, trong bối cảnh đó, việc bàn tới tư tưởng đạo đức HồChí Minh là điều cần thiết, ở đó có những giá trị tích cực mà ảnh hưởng của nó không nhỏ tới sự lựa chọn cách sống, lối sống và quan niệm sống của cán bộ, công chức hiện nay. Xây dựng, phát triển đạo đức công chức gắn liền với công cuộc cải cách hành chính và dân chủ hoá đời sống xã hội ở nước ta hiện nay. Để thực hiện tốt chủ chương cải cách hành chính nhà nước, công chức phải hiểu sâu sắc nội dung của công cuộc cải cách hành chính trong từng giai đoạn. Cán bộ, công chức phải luôn là người đi đầu trong sự nghiệp cải cách hành chính và phải được đào tạo một cách bài bản để có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng và được trang bị các phương tiện, điều kiện vật chất, kỹ thuật tác nghiệp. Các hoạt động cải cách hành chính phải được công khai, thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đồng thời phải tăng cường trách nhiệm của công chức đối với công việc và nhiệm vụ được giao, tăng cường tính chủ động, sáng tạo cho công chức trong xử lý, giải quyết công việc. 2. Một số giải pháp xây dựng và nâng cao đạo đức công chức ở nước ta hiện nay: Tham khảo có chọn lọc những kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để xây dựng và hiện thực hoá đạo đức công chức ở nước ta hiện nay Tham khảo những giá trị tích cực trong đạo đức công chức của các nước: Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cho rằng xây dựng đạo đức công vụ là định hướng xây dựng hành vi đạo đức của công chức tuân theo những giá trị đạo đức tích cực. Chẳng hạn, những giá trị mà các công chức cần phải có như trung thành, đáng tin cậy, có trách nhiêm, trung thực, tận tuỵ, khiêm tốn, tích cực, tư cách trong sạch, hợp tác, trọng danh dự v.v. Những giá trị đạo đức đó, thường vượt qua biên giới quốc gia, còn các văn bản có tính chất quy định chỉ phản ánh truyền thống xã hội và pháp luật của giai cấp đang thống trị trong phạm vi quốc gia đó.Trước hết, nói về sự trung thành đáng tin cậy, Hai là, đạo đức công vụ, công chức phải góp phần củng cố và đóng góp tích cực cho sự đoàn kết toàn dân tộc.Ba là, có lòng tự trọng, có trách nhiệm với cương vị công tác và nhiệm vụ được giao.Bốn là, thái độ và hành vi ứng xử tích cực của mỗi công chức tạo ra môi trường xã hội lành mạnh mang những giá trị nhân văn. Tham khảo những sáng kiến nâng cao đạo đức công vụ, công chức ở một số nước trên thế giới. Sáng kiến nâng cao đạo đức công vụ ở Campuchia, Inđonesia, Lào Myanmar,Philipin, Singapore ,Thailan. Xây dựng chuẩn mực nhằm cụ thể hoá nguyên tắc đạo đức công chức. Tiến tới như một số nước, chúng ta phải xây dựng luật đạo đức công chức thay cho một số pháp lệnh hiện nay; cụ thể hoá những nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của công chức; quy định cụ thể những điều công chức được, không được và không nên làm. Xác định rõ những tiêu chuẩn phẩm hạnh, đạo đức của công chức làm căn cứ để khen thưởng hoặc kỷ luật nếu vi phạm. Phải xử lý kịp thời và công bằng những sai phạm của công chức. Tạo môi trường xã hội lành mạnh, điều kiện làm việc tốt nhất và chế độ đãi ngộ công chức thoả đáng để thu hút người có tài, có đức. Môi trường xã hội của công chức là quan hệ giữa nhân viên với nhân viên, giữa nhân viên với lãnh đạo, cơ chế điều hành, đánh giá và sử dụng công chức. Công chức làm việc cần một môi trường xã hội thân thiện, công bằng, bình đẳng, chân thành, đánh giá khách quan đúng năng lực, phẩm chất mỗi thành viên trong cơ quan, đơn vị và sử dụng đúng năng lực của họ. Như vậy, bên cạnh việc đòi hỏi công chức phải đạt được những tiêu chuẩn về đạo đức, năng lực thì cũng phải có những điều kiện để công chức yên tâm, tận tuỵ làm việc kể cả các điều kiện về kinh tế, điều kiện được học tập nâng cao nghiệp vụ. Ngoài việc đảm bảo mức lương thoả đáng cho công chức mà Nhà nước ấn định nên có thêm những mức lương mềm khuyến khích cho những người thực sự có tài, có đóng góp đặc biệt, đột xuất như: sáng kiến đem lại hiệu quả cao trong công việc, cải cách cơ chế quản lý có hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội. Nêu cao tinh thần tự tu dưỡng đạo đức cá nhân gắn với cơ chế kiểm tra giám sát của cơ quan, đoàn thể và nhân dân Nêu cao tính “tự luật” (tự giác tuân theo kỷ luật) của đạo đức, bài học của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “phê và tự phê”; hướng sự giáo dục thành quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện, tự tu dưỡng của công chức. Đó cũng là điều kiện chuyển văn hoá đạo đức xã hội thành văn hoá đạo đức cá nhân trong việc hiện thực hoá lý tưởng đạo đức. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, công chức luôn lao động cần cù, làm việc có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao, xem lao động là nguồn sống, nghĩa vụ thiêng liêng là hạnh phúc... KẾT LUẬN Hiện trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức ở nước ta trong bối cảnh đổi mới, với nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế đang thực sự là một vấn đề đáng lo ngại. Những tác động mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự suy thoái về đạo đức của cán bộ, công chức. Bên cạnh đó, do những yếu kém trong quản lý, những bất cập trong cơ chế, chính sách, luật pháp và phương thức điều hành các hoạt động đã dẫn tới những hiện tượng lệch chuẩn trong đời sống đạo đức.Việc xem nhẹ công tác giáo dục đạo đức và không chú trọng rèn luyện đạo đức của cán bộ công chức trong đời sống hàng ngày đã góp phần làm suy giảm đạo đức công chức. Từ đó dẫn đến suy giảm lòng tin của dân vào đội ngũ công chức và thể chế hành chính Nhà nước. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; Nhà nước thực sự là đại diện cho quyền lực, ý chí, nguyện vọng của dân thì trước hết phải thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật, trách nhiệm, kỷ luật
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan