Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận dân sư kỹ năng của luật sư trong việc hỗ trợ khách hàng khởi kiện tran...

Tài liệu Tiểu luận dân sư kỹ năng của luật sư trong việc hỗ trợ khách hàng khởi kiện tranh chấp thừa kế ra tòa án

.PDF
33
153
68

Mô tả:

Tiểu luận học phần dân sự Tiểu luận Kỹ năng của luật sư trong việc hỗ trợ khách hàng khởi kiện tranh chấp thừa kế ra Tòa án Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 1 Tiểu luận học phần dân sự Mục lục Mở đầu……………………………….............…………………………………………..03 Chương 1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ TRONG BỘ LUẬT DÂN NĂM 2009………………………….………..…..05 1. Khái niệm - mục đích - ý nghĩa kỹ năng của luật sư hỗ trợ khách hàng trong giai đoạn khởi kiện vụ án dân sự………..……………………………05 1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự…………………….…….…….…….05 1.2. Khái quát chung về thừa kế và tranh chấp thừa kế………..…………06 1.3. Mục đích - ý nghĩa kỹ năng của luật sư trong hỗ trợ khách hàng khởi kiện vụ án dân sự…………………………..………………………..……………06 2. Chế định thừa kế trong Bộ Luật dân sự năm 2009……………………07 2.1. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế……………………………….…….…..08 2.2. Người thừa kế……………………………………………………………….08 2.3. Di sản thừa kế……………………………………………..………………..10 2.4. Di chúc……………………………………………………………………….11 2.5. Thời hiệu khởi kiện vụ án thừa kế………..……………………………..12 Chương 2. KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG KHỞI KIỆN TRANH CHẤP THỪA KẾ RA TÒA ÁN...……..13 1. Kỹ năng tiếp xúc khách hàng……………………………….……………. 13 1.1. Luật sư cần biết rõ về thân chủ…………………………………………..14 1.2. Trao đổi với khách hàng về nội dung tranh chấp..............................15 1.3. Tư vấn cho khách hàng về việc có khởi kiện hay không………...…..16 1.3.1. Về chủ thể khởi kiện………………….……………………………16 Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 2 Tiểu luận học phần dân sự 1.3.2. Thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ việc……………….……16 1.3.3. Về thời hiệu khởi kiện…………………………………….……….17 1.3.4. Điều kiện về hòa giải ở cơ sở đối với tranh chấp thừa kế có liên quan đến quyền sử dụng đất……………………………..………………...19 1.4. Nghiên cứu, thu thập chứng cứ và xác định các quan hệ pháp luật trước khi khởi kiện......................................................................................20 1.4.1. Nghiên cứu, thu thập chứng cứ …………………………………20 1.4.2. Xác định di sản tranh chấp thừa kế……………………………..21 1.4.3. Các chế định áp dụng khi bảo vệ quyền, lợi ích cho khách hàng trong các vụ việc tranh chấp thừa kế theo di chúc……………….....….…....21 1.4.4. Các chế định áp dụng khi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng trong vụ việc tranh chấp thừa kế theo pháp luật………….22 2. Giúp khách hàng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện………..……………...……24 2.1. Khái niệm về hồ sơ khởi kiện..............................................................24 2.2. Hướng dẫn khách hàng viết đơn khởi kiện…...…..…………...………24 2.3. Chuẩn bị tài liệu, chứng cứ………………………..………………….….27 2.4. Hồ sơ khởi kiện…………………………..………………..………………..27 2.5. Sắp xếp các giấy tờ trong hồ sơ khởi kiện……………………..……….28 3. Hướng dẫn khách hàng thủ tục nộp hồ sơ tại Tòa án…………..…....29 KẾT LUẬN…………………..……………………………………….………….31 Tài liệu tham khảo………………………………………………………………32 Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 3 Tiểu luận học phần dân sự Mở đầu Xã hội Việt Nam càng phát triển, khối lượng tài sản thuộc sở hữu tư nhân có giá trị ngày càng cao và quyền sở hữu cá nhân được luật pháp công nhận và bảo vệ, vấn đề thừa hưởng tài sản (thừa kế) luôn là một trong những các vấn đề gây tranh cãi do xung đột quyền lợi giữa các bên tham gia quan hệ và vấn đề này luôn là đề tài nóng cần tìm hiểu, xử lý khéo léo vì các quan hệ này có một đặc trưng đó là hầu hết các đối tượng tham gia quan hệ thừa kế đều có một điểm chung là ít nhiều có quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân". Từ pháp lệnh thừa kế năm 1990 đến BLDS năm 1995, BLDS năm 2005, BLDS năm 2009. Việc phải cân nhắc giữa giá trị vật chất và giá trị đạo đức là một trở ngại lớn cho các luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho các đối tượng tham gia quan hệ này khi phát sinh tranh chấp. Với các quy định cụ thể - rõ ràng - chặc chẽ của hệ thống pháp luật Việt Nam về thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 2009 - Luật Hôn nhân Gia đình năm 2002 ít nhiều cũng đã giải quyết tốt vấn đề này. Tuy nhiên không ít những trường hợp phát sinh khiến các cơ quan tham gia giải quyết phải đau đầu do các quan hệ này khá phức tạp và ít nhiều do nhận thức của người dân về pháp luật cũng như việc hiểu biết các quy định này còn thấp và một phần do giá trị đạo đức của người Việt Nam theo truyền thống cũng ngăn cản không ít đến việc giải quyết các vấn đề có liên quan. Xuất phát từ thực tiễn tranh chấp về thừa kế và những quy định pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay cũng như việc chính bản thân người luật sư phải thể hiện và khẳng định mình trong hoạt động nghề nghiệp, không ngừng trau dồi đạo Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 4 Tiểu luận học phần dân sự đức, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, cập nhật kiến thức chuyên môn để đáp lại sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội, tôi xin chọn đề tài "Kỹ năng của luật sư trong việc hỗ trợ khách hàng khởi kiện tranh chấp thừa kế ra Tòa án" làm bài tiểu luận. Qua đề tài tiểu luận này, mặc dù còn rất nhiều khiếm khuyết và thiếu sót, tôi cũng muốn góp một vài ý kiến nhỏ vào việc nâng cao kỹ năng của luật sư trong giai đoạn khởi kiện án tranh chấp thừa kế; đồng thời cũng chính là tạo điều kiện cho luật sư và nghề luật sư ngày càng vươn lên tầm cao mới, xứng đáng là một nghề được xã hội tôn vinh. Bố cục của tiểu luận. Với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu như đã trình bày, kết cấu của tiểu luận ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm 2 chương: Chương 1. Những nội dung cơ bản về chế định thừa kế trong Bộ Luật dân sự năm 2009. Chương 2. Kỹ năng của luật sư trong việc hỗ trợ khách hàng khởi kiện tranh chấp thừa kế ra Tòa án. Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 5 Tiểu luận học phần dân sự Chương 1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ TRONG BỘ LUẬT DÂN NĂM 2009 1. Khái niệm - mục đích - ý nghĩa kỹ năng của luật sư hỗ trợ khách hàng trong giai đoạn khởi kiện vụ án dân sự. 1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự. Căn cứ vào Điều 161 và 162 BLTTDS quy định về quyền khởi kiện thì khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức có đủ tư cách chủ thể tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi có căn cứ cho rằng họ có quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc việc các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội theo luật định khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Khởi kiện vụ án dân sự là một hoạt động tố tụng mang tính chất tiên phong trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án. Khởi kiện vụ án dân sự đối với các đương sự là giai đoạn đầu tiên thể hiện ý chí của đương sự muốn được Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đang bị xâm phạm. Về thực chất, đây là giai đoạn quyết định về những điều kiện phát sinh một vụ án dân sự tại Tòa án. Có nghĩa giai đoạn này đòi hỏi phải xác định các điều kiện khởi kiện một cách chính xác, rõ ràng và hợp pháp để tránh thiếu sót, sai về mặt nội dung và hình thức dẫn đến việc Tòa án không thụ lý vụ án, gây phiền hà, tốn kém cho các đương sự. Về phương diện kỹ năng của luật sư, hỗ trợ khách hàng trong giai đoạn khởi kiện vụ án dân sự là một hoạt động gồm những kỹ năng nghề nghiệp tiên quyết, quan trọng trong hoạt động tố tụng dân sự. Thực hiện đúng và đầy đủ những kỹ Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 6 Tiểu luận học phần dân sự năng trong giai đoạn khởi kiện, luật sư đã xem như có một hồ sơ đầy đủ, cơ bản của vụ án, nhằm tiết kiệm được thời gian, công sức và tạo được niềm tin, hy vọng cho khách hàng của mình trong những giai đoạn tố tụng tiếp theo. Đây cũng chính là yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công trong nghề nghiệp của một luật sư. 1.2. Khái quát chung về thừa kế và tranh chấp thừa kế. Thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật. Pháp luật về thừa kế của Việt Nam quy định việc chuyển tài sản của người chết cho người khác theo hai hình thức: - Theo di chúc: tức là người có tài sản lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người khác. - Theo pháp luật: tức là việc người thừa kế được nhận di sản thừa kế trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp và một số trường hợp đặc biệt khác mà pháp luật quy định. Tranh chấp thừa kế là những xung đột, mâu thuẫn, bất đồng được bộc lộ ra bên ngoài về quyền thừa kế, về việc thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản,… 1.3. Mục đích - ý nghĩa kỹ năng của luật sư trong hỗ trợ khách hàng khởi kiện vụ án dân sự. Cho đến thời điểm này, tranh chấp dân sự thực chất là một loại tranh chấp phổ biến và phức tạp trong thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các cấp Tòa án. Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác nhận thấy họ có quyền dân sự bị xâm phạm, thì pháp luật trao cho họ quyền được khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 7 Tiểu luận học phần dân sự pháp của họ, ghi nhận trong Điều 4, 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây xin được phép ghi là BLTTDS) năm 2005. Như vậy, khi phát sinh tranh chấp, đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình thông qua việc nộp đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ có liên quan, làm cơ sở cho yêu cầu khởi kiện. Đồng thời với việc được thực hiện quyền khởi kiện, cá nhân, cơ quan, tổ chức còn được pháp luật trao cho quyền được tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình (Điều 9- Bộ luật TTDS năm 2005). Việc tham gia của luật sư trong giai đoạn này có vai trò rất quan trọng trong việc giúp khách hàng xác định những thuận lợi và khó khăn của việc khởi kiện. Đây cũng là giai đoạn đầu tiên luật sư giúp khách hàng hiểu rõ bản chất pháp lý vấn đề tranh chấp và những yêu cầu của khách hàng, giúp họ thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh thông qua việc chuẩn bị hồ sơ khởi kiện với những chứng cứ có liên quan làm cơ sở cho Tòa án thụ lý, giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự, đảm bảo công bằng xã hội. 2. Chế định thừa kế trong Bộ Luật dân sự. Chế định thừa kế là một chế định quan trọng trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam. Hơn nữa trong những năm gần đây, số vụ việc tranh chấp về thừa kế luôn chiếm tỷ trọng trong các tranh chấp dân sự và có tính phức tạp cao. Bởi vậy, việc nghiên cứu và nắm rõ các quy định pháp luật về thừa kế là một đòi hỏi cơ bản khi luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Nhìn chung, những nội dung cơ bản của chế định thừa kế được thể hiện qua các vấn đề sau: Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 8 Tiểu luận học phần dân sự 2.1. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế. Theo qui định tại Điều 636 Bộ Luật dân sự thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày mà Tòa án xác định người đó đã chết. Nếu không xác định được chính xác ngày chết của người đó thì ngày bản án tuyên bố một người đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày mà người đó chết. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản. Việc xác định thời điểm, địa điểm mở thừa kế là yêu cầu đầu tiên của quan hệ thừa kế và đóng vai trò rất quan trọng. Vì tại thời điểm và địa điểm này sẽ xác định được người thừa kế của người chết, di sản mà người chết để lại, xác định Tòa án có thẩm quyền thụ lý, nơi thực hiện nghĩa vụ cũng như thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế. Đồng thời việc xác định chính xác địa điểm mở thừa kế còn đóng vai trò quan trọng khi xác định việc từ chối nhận di sản có hợp pháp hay không. Theo quy định Điều 645 BLDS “ việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; Người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, công chứng Nhà nước hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản”. 2.2. Người thừa kế. Để xác định được người thừa kế của người chết vào thời điểm người này chết, cần phải xác định được là người chết có để lại di chúc hay không. Nếu có di chúc thì người thừa kế sẽ được xác định theo di chúc. Nếu không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp hoặc di chúc không phát sinh được hiệu lực pháp luật thì Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 9 Tiểu luận học phần dân sự người thừa kế sẽ được xác định theo quy định của pháp luật. Theo đó người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a. Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi ,mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. b. Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngọai, bà ngọai, anh ruột, chi ruột, em ruột của người chết. c. Hàng thứ ba: cụ nội, cụ ngọai của người chết ; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chồi nhận di sản ( Điều 679 ). Tuy nhiên trong một số trường hợp kể cả thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật, thì những người sau đây không có quyền được hưởng thừa kế: - Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó. - Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản. - Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế nhằm hưởng một phần hoặc tòan bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền được hưởng. - Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý muốn của người để lại di sản. Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 10 Tiểu luận học phần dân sự Nhưng những người có hành vi này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản. Như vậy, người thừa kế có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Trường hợp người thừa kế là cá nhân thì cá nhân đó phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì cơ quan, tổ chức phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế (Điều 638 Bộ Luật Dân Sự). 2.3. Di sản thừa kế. Theo quy định tại Điều 637 di sản bao gồm: Tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy định tại phần thứ năm của BLDS. Một thực tế hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về di sản, dẫn đến tình trạng các vụ án thừa kế phải xét xử lại do xác định di sản không chính xác. Vậy hiểu thế nào mới chính xác và đầy đủ? Tại Điều 172 BLDS quy định “ tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ có giá trị được bằng tiền và các quyền tài sản ”. Như vậy, quyền tài sản đã nằm trong khái niệm tài sản. Cho nên cần phải hiểu khái niệm di sản còn bao gồm cả các quyền tài sản như: quyền đòi bồi thường thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá trị, quyền sử dụng nhà thuê của nhà nước. Mặt khác, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ của người chết. Do vậy, trong trường hợp người có tài sản để lại còn có cả nghĩa vụ về tài sản, thì thông thường phần nghĩa vụ này sẽ được thanh tóan bằng tài sản của người chết. Phần Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 11 Tiểu luận học phần dân sự còn lại sẽ được xác định là di sản thừa kế và được chia theo di chúc hay quy định của pháp luật. Theo đó, nghĩa vụ của người chết được thực hiện như sau: Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế sẽ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại tương ứng với phần tài sản mà mình đã nhận. Trong trường hợp di sản chưa được chia, thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo đúng thỏa thuận của những người thừa kế. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc, thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân. 2.4. Di chúc. Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc phải được lập thành văn bản. Trong trường hợp tính mạng của một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản, thì có thể di chúc miệng. Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người để lại di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị hủy bỏ. Trong trường hợp di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý; Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn. Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 12 Tiểu luận học phần dân sự Tuy nhiên, một di chúc dù bằng văn bản hay bằng miệng thì chỉ được coi là hợp pháp khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: Người lập di chúc đã thành niên, minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa đối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Nội dung di chúc không phải trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật. Nếu việc lập di chúc có người làm chứng thì người làm chứng không phải là những người sau: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc gồm tất cả các hàng thừa kế theo Điều 679 BLDS. Người có quyền nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. Người chưa đủ 18 tuổi, hoặc đủ 18 tuổi nhưng người đó bị tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. 2.5. Thời hiệu khởi kiện vụ án thừa kế. Theo qui định tại Điều 648 Bộ Luật Dân Sự : “thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ ngày mở thừa kế”. Trong thời hạn này, người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án chia thừa kế, xác định quyền thừa kế của mình, truất quyền thừa kế của người khác. Hết thời hạn này, người thừa kế không còn quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế sẽ được tính bắt đầu từ thời điểm bắt đầu của ngày tiếp theo ngày xảy ra sự kiện người để lại di sản chết và do đó, thời điểm kết thúc là thời điểm kềt thúc ngày tương ứng 10 năm sau. Tuy nhiên phải hiểu thời điểm mở thừa kế là thời điểm được xác định bằng giờ người để lại di sản chết, tại thời điểm đó xác định người thừa kế, di sản của người chết,… để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế. Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 13 Tiểu luận học phần dân sự Như vậy, thừa kế là việc chuyển giao tài sản của một người sau khi người này chết cho những người khác theo qui định của pháp luật. Việc chuyển giao này có thể thực hiện theo di chúc, nếu người có tài sản đã lập di chúc trước khi chết. Trường hợp không có di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc di chúc không phát sinh được hiệu lực pháp luật, thì việc chuyển giao tài sản sẽ thực hiện theo pháp luật. Trong trường hợp có tranh chấp về tài sản thừa kế thì người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Qua quá trình phân tích những nội dung cơ bản của chế định thừa kế, chúng ta có thể nhận thấy các vụ án tranh chấp về thừa kế có những đặc điểm sau: Quan hệ pháp luật về thừa kế là một quan hệ pháp luật mang tính chất đặc thù. Vì những người tham gia vào quan hệ pháp luật này là những bên có quan hệ huyết thống gần gũi với nhau như: cha, mẹ, con, anh, em v.v…hoặc quan hệ hôn nhân như: vợ chồng, và quan hệ nuôi dưỡng như: con nuôi. Chính vì vậy, để giải quyết các vụ tranh chấp về quyền thừa kế người Luật sư không những phải nắm vững và áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật về thừa kế mà còn phải có trách nhiệm nhằm giữ vững tình yêu thương, đoàn kết trong gia đình khách hàng của mình. Chương 2 KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG KHỞI KIỆN TRANH CHẤP THỪA KẾ RA TÒA ÁN 1. Kỹ năng tiếp xúc khách hàng. Khi khách hàng tìm đến yêu cầu luật sư giúp đỡ, luật sư phải chú ý nghe để chắc lọc vấn đề, trao đổi các thông tin khách hàng cung cấp nhằm làm rõ nội dung đang có tranh chấp, quan hệ pháp luật của vụ kiện. Từ đó luật sư có thể hiểu được yêu cầu của khách hàng, xác định khả năng của Luật sư có đáp ứng được yêu cầu Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 14 Tiểu luận học phần dân sự của khách hàng không? Đồng thời luật sư sẽ xác định được thời hiệu khởi kiện, tư cách người đi kiện, các vấn đề liên quan đến thẩm quyền và việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Đây cũng là nghệ thuật, đòi hỏi Luật sư phải hiểu biết về khoa học tâm lý, và văn hóa giao tiếp. Bằng thái độ chân tình tìm hiểu xem thân chủ của mình mong muốn đạt được gì, qua tiếp xúc, gặp gỡ họ có thể bộc bạch tất cả. 1.1. Luật sư cần biết rõ về thân chủ. Do đòi hỏi nghề nghiệp Luật sư trước hết phải biết về thân chủ, đây là cả một vấn đề khoa học và nghệ thuật lớn. Để bảo vệ lợi ích cho thân chủ, Luật sư không thể không biết rõ về thân chủ của mình, đặc biệt trong các vụ việc tranh chấp về thừa kế. Bằng cách gì và như thế nào để có được những thông tin đầy đủ khách quan, chuẩn xác về thân chủ, điều đó phụ thuộc cách tiếp cận và khả năng khai thác của từng cá nhân Luật sư. Luật sư cần lưu ý, thân chủ có thể là tổ chức, pháp nhân được thừa kế theo di chúc của người để lại di sản thừa kế. Trước hết, trong vụ việc tranh chấp thừa kế, Luật sư cần có đầy đủ thông tin về gốc gác, gia đình của chính thân chủ, những gì liên quan đến nhân thân của thân chủ. Xác định chuẩn xác quan hệ gia đình, dòng tộc của thân chủ với người để lại thừa kế... Xác định quan hệ của thân chủ với người hoặc số người đang có tranh chấp về di sản thừa kế là đương sự của vụ án. Tìm hiểu và có đánh giá chuẩn xác quan hệ giữa họ với nhau. Xác định quan hệ thân chủ của mình với những người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ việc tranh chấp. Xác định chuẩn xác quan hệ thân chủ với người làm chứng (nếu có) trong vụ tranh chấp. Bằng cách nào đó xác định nét chữ, bút tích, thói quen, sở thích, ý muốn của thân chủ. Ngoài ra, Luật sư cần tìm hiểu, cần biết về đạo đức, lối sống, quan hệ xã hội, nghề nghiệp, vị trí công tác thân chủ của mình. Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 15 Tiểu luận học phần dân sự Đồng thời, cần phải tìm hiểu quan hệ gia đình, thái độ đối xử của thân chủ với người thân, với những người khác mà thân chủ có quan hệ. Qua tìm hiểu, để Luật sư biết rõ mình đang bảo vệ quyền, lợi ích cho thân chủ mình là ai, tạo ra sức mạnh nội tâm trong công việc. 1.2. Trao đổi với khách hàng về nội dung tranh chấp. Tưởng đây là vấn đề đơn giản, nhưng qua thực tế hành nghề Luật sư, không phải Luật sư nào cũng nắm vững và hiểu yêu cầu đích thực của thân chủ. Đối với thân chủ là nguyên đơn dân sự, Luật sư cần nghiên cứu kỹ đơn kiện của thân chủ. Qua nghiên cứu đơn khởi kiện để xác định xem thời hiệu khởi kiện còn không, yêu cầu cụ thể của thân chủ gồm những gì : Di sản, quyền tài sản, và tìm hiểu xem ngoài ra thân chủ có yêu cầu gì khác không. Qua tiếp xúc và qua đơn, Luật sư phải nắm vững được mục đích thực tế, mục đích sâu xa của thân chủ qua vụ kiện. Qua đơn của thân chủ, Luật sư có thể nắm bắt nỗi niềm, dự cảm của thân chủ mình. Từ đó để Luật sư hiểu thêm về các luận cứ mà thân chủ dựa vào đó đưa ra yêu cầu. Nghiên cứu đơn của thân chủ hoàn chỉnh lại đơn, mở rộng phạm vi, yêu cầu hoặc sơ bộ giới hạn yêu cầu ... Việc nghiên cứu kỹ đơn của thân chủ nhằm xác định đúng yêu cầu của thân chủ, sẽ giúp cho Luật sư tìm những căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế chứng minh cho yêu cầu chính đáng của thân chủ và sẽ không có những trục trặc khi phiên tòa diễn ra. Tránh được trình trạng: “ông nói gà, bà nói vịt”, giữa thân chủ và Luật sư. Đối với thân chủ là bị đơn dân sự, đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình, Luật sư phải nắm bắt căn cứ phản tố của thân chủ và những yêu cầu mà thân chủ có thể đưa ra độc lập đối với nguyên đơn. Tìm hiểu những trăn trở, băn khoăn của thân chủ, qua đơn phản tố. Luật sư có thể nắm bắt được tinh thần mà thân chủ mình muốn giải quyết trong vụ việc, mức độ thỏa hiệp, Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 16 Tiểu luận học phần dân sự những giới hạn không thể chấp nhận thỏa hiệp, những vấn đề về nguyên tắc mang tính sống còn trong giải quyết tranh chấp và chủ định của thân chủ về hướng giải quyết vụ tranh chấp. Chuẩn bị tốt khâu này, tại phiên tòa sẽ không có những trục trặc bất ngờ có thể xảy ra giữa Luật sư và thân chủ là bị đơn dân sự. Hiểu yêu cầu của thân chủ, là nắm bắt được cốt lõi mục đích và giới hạn cuối cùng của yêu cầu có thể đạt được, đồng thời tìm hiểu khả năng thỏa hiệp giải quyết bằng hòa giải. 1.3. Tư vấn cho khách hàng về việc có khởi kiện hay không. 1.3.1. Về chủ thể khởi kiện. Luật sư có thể hướng dẫn cho khách hàng tự mình khởi kiện hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện theo quy định tại Điều 161 BLTTDS. Khi khởi kiện tranh chấp thừa kế ra Tòa án, cũng như các loại vụ việc dân sự khác, chủ thể khởi kiện là cá nhân phải thỏa mãn điều kiện về năng lực hành vi dân sự và là người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Khi tiếp xúc với khách hàng Luật sư cũng cần tư vấn và xem xét về tư cách chủ thể khởi kiện liên quan trực tiếp đến quyền khởi kiện của khách hàng để có những tư vấn về điều kiện khởi kiện theo đúng quy định của pháp luật. Đối với trường hợp khách hàng ủy quyền cho chính luật sư hoặc cho người khác tham gia tố tụng thì luật sư cần hướng dẫn khách hàng lập giấy ủy quyền theo quy định của pháp luật hiện hành. 1.3.2. Thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ việc. Thầm quyền theo loại việc: tranh chấp thừa kế là một loại tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 5 Điều 25 BLTTDS. Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 17 Tiểu luận học phần dân sự Về thẩm quyền theo cấp tòa: Luật sư cần xác định vụ án khởi kiện đúng cấp tòa có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định tại Điều 33, 34, 35, 36, 37 BLTTDS, Nghị Quyết số 32/2004/QH11, Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP. Ngoài việc lưu ý nguyên tắc xác định thẩm quyền đối với cấp tòa, những trường hợp thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh theo Khoản 1 Điều 33 BLTTDS. Luật sư cần lưu ý trường hợp "đương sự" ở nước ngoài theo quy định tại Điều 56 BLTTDS bao gồm cả người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Vì vậy, với những vụ việc mà có đương sự không phải là người thuộc các diện thưa kế nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang ở nước ngoài hoặc việc giải quyết vụ án cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thì sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh. Luật sư cũng cần lưu ý các trường hợp tranh chấp di sản thừa kế là bất động sản áp dụng quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 36 BLTTDS và thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn. 1.3.3. Về thời hiệu khởi kiện. Có hai loại thời hiệu khởi kiện đối với vụ án tranh chấp thừa kế: Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là thời hạn mà người thừa kế được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Theo quy định tại Điều 648 BLDS thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Khi xem xét điều kiện về thời hiệu khởi kiện Luật sư cần lưu ý các quy định về thời hiệu khác với BLDS đó là: Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 18 Tiểu luận học phần dân sự - Vụ án có rơi vào trường hợp thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 170 BLDS 2009. - Các quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 171 BLDS 2009. - Quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh thừa kế (30/8/1990). Việc xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế trên thực tế cũng tương đối phức tạp liên quan đến khá nhiều các văn bản khác nhau và việc xác định thời điểm mở thừa kế. Đối với việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh thừa kế (ngày 30/8/1990), theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế thì thời hiệu khởi kiện đến hết ngày 9/9/2000. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 58/UBTVQH10 ngày 25/8/1998 của Uỷ ban thường vụ quốc hội từ ngày 1/7/1996 đến ngày 31/12/1998 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước ngày 1/7/1991. Do vậy, thời hiệu khởi kiện loại việc này được tính đến ngày 9/3/2003. Bắt đầu từ ngày 10/3/2003 đương sự không còn quyền khởi kiện đối với những vụ án thừa kế có thời điểm mở thừa kế trước ngày 10/9/1990. Đối với những vụ án thừa kế có thời điểm mở thừa kế từ ngày 10/9/1990 đến trước ngày 1/7/1991 đây cũng là loại vụ án bị tạm đình chỉ giải quyết do đợi Nghị quyết 58/1998, thời gian từ 1/7/1996 đến 31/1/21998 cũng không tính vào thời hiệu khởi kiện, do vậy những vụ án thừa kế có thời hiệu khởi kiện trong khoảng thời gian từ 10/9/1990 đến ngày 30/6/1991 đến 1/1/2004 mới hết thời hiệu khởi kiện. Ngoài ra Luật sư cũng cần lưu ý quy định về “không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế’ được hướng dẫn tại Mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 19 Tiểu luận học phần dân sự người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản: - Đối với việc mở thừa kế trước ngày ban hành Pháp lệnh thừa kế thì thời hiệu khởi kiện được xác định là 3 năm kể từ ngày banh hành Pháp lệnh thừa kế (khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990); - Đối với việc mở thừa kế kể từ ngày ban hành Pháp lệnh thừa kế (30/8/1990) thời hiệu khởi kiện được xác định là 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (khoản 2 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990); - Đối với việc mở thừa kế kể từ ngày 1/7/1996 đến ngày 31/12/2005: áp dụng thời hiệu khởi kiện 2 năm quy định tại Điều 159 BLTTDS để xác định thời hiệu khởi kiện về yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản (do tại Điều 648 BLDS 1996 không quy định về thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu này); - Đối với việc mở thừa kế kể từ ngày 1/1/2006 thời hiệu khởi kiện về về yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được xác định là 3 năm kể từ ngày người có di sản thừa kế chết (Điều 645 BLDS 2005). 1.3.4. Điều kiện về hòa giải ở cơ sở đối với tranh chấp thừa kế có liên quan đến quyền sử dụng đất. Nếu tranh chấp thừa kế mà liên quan đến quyền sử dụng đất thì theo quy định tại Điều 135, 136 Luật Đất đai năm 2003 thì các tranh chấp này cần phải được hòa giải tại cơ sở (UBND xã, phường, thị trấn). Những trường hợp này Luật Nguyễn Thanh Hùng – Lớp C – SBD 149 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng